TỊNH
ĐỘ CƯ SĨ PHẬT HỘI VIỆT NAM
PHƯỚC HUỆ SONG TU
GIẢNG LUẬN
Cư sĩ Như Pháp
(QUYỂN 1)
M
ụ c l ụ c
Kỉnh
tựa Phước Huệ Song Tu
Giới
thiệu Phước Huệ Song Tu
Phàm
lệ
Phần thứ nhứt: THẢO LUẬN VỀ PHẦN
TU PHƯỚC
I .
Định danh tu Phước vô lậu
II. Tu Phước để thực hiện chủ
nghĩa Từ-bi
III. Tu Phước để học Đại thừa
IV. Tu Phước để sớm viên mãn Báo thân
V. Tu Phước để báo bốn ơn nặng, tế độ
tam đồ
Kết
luận về tu Phước
Phần thứ hai: THẢO
LUẬN VỀ PHẦN TU HUỆ
I. Định danh tu Huệ
II. Tu Huệ để hàng phục vọng tâm, an trụ
Chơn tâm
III. Tu Huệ để tham thiền
IV. Tu Huệ để phá tâm phân
biệt
V. Tu Huệ để Trì giới
VI. Tu Huệ để phá nhị chấp
Ngã, Pháp
VII. Tu Huệ để phá chấp Hình
Danh Sắc Tướng
VIII. Tu Huệ để thoát ly bốn
tướng
IX. Tu Huệ để phá vô minh
X. Tu Huệ để kiến tánh
XI. Tu Huệ để xác nhận hai
nguồn gốc chỉ là một
XII. Tu Huệ để khẳng nhận Thỉ giác tức
Bản giác
XIII. Tu Huệ để tuỳ thuận tánh Viên
Giác của Như Lai
TỔNG LUẬN
Ba độ tu Phước ba-la-mật
Ba độ tu Huệ ba-la-mật
Định Huệ Song Tu
Thiền định trong Pháp Bửu Đàn Kinh
Thiền định Bát-nhã
Kỉnh tựa Phước Huệ Song Tu
Song Tu Phước Huệ gióng chuông chiền,
Mừng khách trần lao hạnh đắc duyên.
Được giống Từ-bi hằng tiếp tục,
Nhằm đời mạt pháp hiện chơn truyền.
Khế cơ lưỡng túc tôn tôn ngưỡng,
Hiệp lý hoằng thâm diệu diệu huyền.
Đại ngộ Minh sư khai hiển giáo,
Hạ nguơn huờn nhứt bổn qui nguyên.
Giới
thiệu Phước Huệ Song Tu
Đạo Phật có vô lượng pháp môn để tu hành, trong đó có pháp môn Phước Huệ
Song Tu rất thích hợp với truyền thống của dân tộc Việt Nam.
— Tại sao được như vậy?
— Luận về tu phước, chúng ta thấy truyền thống của dân tộc Việt Nam là
hay làm ơn, làm phước, làm nghĩa. Những chuyện ân huệ như vậy, ở thôn quê thạnh
hành hơn ở thành thị. Tuy nhiên, kể từ khi khôi phục được quyền độc lập dân
tộc, thì ở thành thị, truyền thống ấy dần dần nổi bật trở lại, có khi còn hơn ở
thôn quê là khác. Các công tác từ thiện xã hội bây giờ hơn hẳn trước kia và vô
cùng mạnh mẽ.
Thật ra, không ai chối cãi, phần nhiều là do chủ nghĩa xã hội tiếp sức
cho rất nhiều. Lời lẽ bộc lộ trên đây, quí vị nào chưa đạt được đức tin mạnh
mẽ, hãy xem các báo cho tin tức về sự hoạt động của xã hội đối với đồng bào
thiếu hụt bệnh hoạn, không tiền chạy thuốc, chạy gạo. Có thường xuyên xem báo
rồi mới biết tấm lòng vàng của những người hảo tâm ngày hôm nay càng ngày càng
lan rộng đến mức nào!
Lại nữa, cái đẹp của dân tộc Việt Nam, một khi mang ơn ai thì khăng
khăng đền đáp ơn nghĩa cho bằng được. Tôi tiếc rằng phạm vi của quyển sách nầy
không đủ sức chứa đựng hành động thi ơn, tu phước của đồng bào ta hiện nay như
một phong trào đua nhau làm việc phước thiện xã hội. Phật dạy Phước Huệ Song Tu
là đường về Cực Lạc, là hướng đi đến Niết bàn một cách vững chắc hơn hết trong
tam tàng giáo hải.
Nói đến vấn đề Phước Huệ Song Tu, phải nói đến kinh Kim Cang. Kinh nầy
dạy “Tu cả thảy pháp lành, tức đặng đạo Vô thượng Bồ-đề.” Pháp lành mà kinh Kim Cang nói đây thuộc về
pháp lành vô lậu thánh thiện, chớ chẳng phải pháp lành hữu lậu phàm thiện.
Pháp
lành hữu lậu phàm thiện, nó chỉ làm cho người bố thí sẽ được hưởng phước hồng
trần thế gian thôi, cao lắm thì cũng chỉ hưởng phước Thiên đường là cùng. Trái
lại, pháp lành vô lậu thánh thiện, thì được chứng quả Niết bàn, được giải thoát
ngoài vòng sanh tử luân hồi.
*
Sau
khi phát tâm Bồ-đề, hàng Phật tử nên khởi công tu tập Phước Huệ Song Tu trong
kinh Kim Cang và các kinh khác. Thật ra, đối với Phước Huệ Song Tu của cấp bậc
Phật thừa, trình độ của tôi còn kém, sợ e vói không tới. Chỉ vì nhiều huynh đệ
tỷ muội yêu cầu chúng tôi soạn thảo một tập luận để anh chị em nương theo đó tu
hành cho vững chắc. Không thể từ chối được, vì lời yêu cầu quá khẩn thiết, nên
chúng tôi vâng lời, dù biết mình còn non kém, sợ vẽ rồng thành rắn. Tôi thành
tâm cầu nguyện Ơn trên Thầy Tổ và chư Phật, chư Bồ-tát hộ trì trong sự soạn
thảo nầy.
Bàn
về tu Phước và tu Huệ trong kinh Kim Cang, chúng tôi nhận thấy về ý nghĩa Song
Tu Phước Huệ, nó đầy đủ hơn các kinh khác. Tư liệu về Phước Huệ trong kinh nầy
rất dồi dào; tuy nhiên, cũng không nên khai thác cho hết ý nghĩa Phước Huệ
trong toàn bộ Kim Cang Bát-nhã. Tại sao vậy? Tại vì, nếu làm như vậy thành ra
giảng giải kinh Kim Cang chớ không phải viết về Phước Huệ Song Tu.
Hại
nhứt, là khai thác ý nghĩa Phước Huệ cho hết quyển Kim Cang, thành ra nhái lại
quyển Kim Cang và nhân tố quyển kinh nầy là Phước Huệ Song Tu.
Chọn
một quyển kinh để làm “đại biểu” cho vấn đề tu Phước cũng như tu Huệ mà Phước
đức và Công đức của nó chẳng thua kinh nào trong tam tàng giáo hải, để cho
huynh đệ tỷ muội tu tập sau khi phát tâm, đâu phải là một việc dễ.
Thật
ra, trong sự lựa chọn một quyển kinh để làm tài liệu đặng tu tập Phước Huệ Song
Tu chóng thành công đạo Vô thượng Bồ-đề, huynh đệ tỷ muội mới phát tâm, làm gì
có khả năng trạch pháp. Khi tôi gợi ý giới thiệu, ai nấy đều hoan hỷ chấp nhận.
Huynh đệ nói: Khó mà chọn một quyển kinh đầy đủ Phước Trí Trang Nghiêm như kinh
Kim Cang.
Cái
hay của Kim Cang Bát-nhã, là ai tu tập nó, dù không để ý tới vấn đề minh tâm
kiến tánh, rốt lại rồi cũng được kiến tánh minh tâm. Thể tánh của Kim Cang
Bát-nhã là bản chất của Chơn-như, mà Chơn-như là Chơn tâm Phật tánh, là trực
giác tâm linh, nó thích hợp với vấn đề tu Phước. Bởi tu Phước là thuận hợp với
cái dụng của Chơn-như. Vì lý do đó, trực giác tâm linh chóng phát hiện Huệ giác
Bát-nhã của Phật, là vấn đề minh tâm kiến tánh thành Phật.
Tất
cả những vị Thiền sư Đông độ (Trung quốc), chỉ có Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn và Lục Tổ
Huệ Năng không tu theo pháp Thiền bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền. Riêng
Ngũ Tổ lại chọn bộ Kim Cang Bát-nhã để dạy tu Thiền, chúng ta còn ngần ngại gì
mà không lấy Kim Cang Bát-nhã để làm Phước Huệ Song Tu?
Phước
Huệ Song Tu là một pháp môn độc đáo nhứt nhì trong giáo lý đạo Phật. Ai sớm
trồng căn tu Đại thừa, người đó sớm vượt khỏi Nhị chướng là hai cửa ải kiên cố
nhứt trên con đường tu hành thành Phật. Qua được hai cửa ải nầy, chứng được Nhị
huệ là Sanh Không Huệ (không thật có sanh) và Pháp Không Huệ (không thật có các
pháp), thành tựu được hai món Chơn-như (Sanh Không Chơn-như và Pháp Không
Chơn-như). Không được hai thứ Chơn-như nầy thì không bao giờ lìa được hai thứ
sanh tử (sanh tử phần đoạn của phàm phu và sanh tử biến dịch của các Thánh ở hàng
Tiệm giáo). Siêu xuất được Nhị sanh tử thì chứng được Nhị quả chuyển y Bồ-đề
Niết-bàn.
Với
lời lẽ mộc mạc, chúng tôi kính chúc toàn thể Phật tử thực hành Phước Huệ Song
Tu, rốt ráo đạt thành quả vị Vô thượng Bồ-đề.
Cư
sĩ Như Pháp
PHÀM LỆ
Nội dung của quyển Phước Huệ Song Tu, chúng tôi chia
làm hai phần: Phần tu Phước và phần tu Huệ. Trong hai phần, phần nào cũng hướng
về đạo Vô thượng Bồ-đề, thuộc về giáo lý Phật thừa.
Phần tu Phước có năm chương.
Phần tu Huệ có mười hai chương.
Lẽ đương nhiên, nội dung phần tu Huệ không phải dễ
hiểu, vì nó bao hàm chơn lý Đại thừa. Đối với Phật học, cái gì dễ hiểu, dễ thực
hành, cái đó chỉ có giá trị tương đối; cái gì khó kiến tạo, khó thực hành, cái
đó mới cao sâu mầu nhiệm.
* * * * * *
PHẦN THỨ NHỨT
THẢO
LUẬN VẤN ĐỀ TU PHƯỚC
Chương I
ĐỊNH DANH TU PHƯỚC VÔ LẬU
Tu Phước của hàng Phật tử Đại thừa là thực hiện công
tác từ thiện xã hội theo tiêu chuẩn tu giải thoát của Phật thừa (Bạch ngưu xa).
Để nâng cao trình độ tu học về Phước thiện, Phật tử
phải hiểu thế nào là “phàm thiện,” thế nào là “thánh thiện.”
Phàm thiện thuộc về làm lành, làm phước, làm phải, làm
nghĩa, làm nhơn, ngoại trừ việc dìu dắt người khác đi trên con đường tu học
Phật pháp.
Thánh thiện là việc làm của Bồ-tát thừa, có tinh thần
thệ nguyện độ tất cả chúng sanh trong vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp, mình
cùng chúng sanh giai cộng thành Phật đạo.
Thể theo kinh điển của nhà Phật, phàm thiện thuộc về
phước đức, chẳng phải thuộc về công đức tu hành thành chánh quả. Phàm thiện chỉ
được hưởng phước thế gian thôi, dù cái thiện đó bao la rộng lớn cách mấy đi
nữa, cũng chỉ hưởng phước Thiên đường là cùng. Nhưng phước Thiên đường chưa
thoát khỏi sanh tử luân hồi, bởi sau khi hưởng hết phước trời thì đoạ lạc vào
cõi thế, quanh quẩn trong sáu nẻo mà chịu khổ vô cùng.
Quí vị nào cảm thấy mình tu phàm thiện, vì gia cảnh của
mình nên không tu theo thánh thiện được, hãy vững tâm, đừng tưởng mình không
được độ. Bởi vì phàm thiện hay thánh thiện cũng đều quí cả, cũng đều là giống
lành, cuối cùng cũng sẽ được độ.
Trên con đường tế độ chúng sanh tu hành thành Phật, chư
Phật và chư Bồ-tát thường ứng hợp nhanh chóng với những chúng sanh nào trong
Tàng thức có chủng tử (hạt giống) tu Phước, bất luận hạt giống đó phàm thiện
hay thánh thiện, các Ngài đều tìm phương cách độ cho họ tu hành thành chánh
quả. Đối với chư Phật, chư Bồ-tát, kẻ không có chủng tử lành, các Ngài còn dám
tế độ, huống hồ những người sẵn có chủng tử lành, càng dễ tế độ hơn hết.
Chơn lý viên dung bình đẳng cho chúng ta biết rằng: “Chúng
sanh thành Phật hồi nào đến giờ, đâu đợi tu mới thành.” Khế kinh có nói lời
Phật như vầy: “Ngã quan nhứt thiết
chúng sanh cụ hữu Như Lai đức tướng Phật.” (Ta xem tất cả chúng sanh, bất
luận loài nào, đều có đầy đủ đức tướng Như Lai).
Nếu tất cả khế kinh đều có nói những lời trên đây, thì
tất cả hạt giống thiện pháp vô lậu, chúng sanh nào cũng có, vì tất cả chúng
sanh đều có đầy đủ đức tướng Phật Như Lai. Tuyệt diệu nhứt là kinh nói tất cả
chúng sanh đều có, chớ chẳng phải loài người mới có đầy đủ đức tướng Phật.
Trong sự chuyển mê khai ngộ của một thời pháp hướng
Tiểu ra Đại, người tu pháp hữu vi thì từ phàm thiện, họ nhảy sang hướng thánh
thiện rất dễ dàng.
Theo chơn lý Đại thừa, đối với thánh thiện, chẳng có
khó tu tập cho lắm, nó chỉ cần phá chấp trước hành động của mình, khiến cho ba
nghiệp thân, khẩu, ý không vướng vào ngã chấp, pháp chấp là công phu của mình
thuộc vô vi vô tướng, vô lậu thanh tịnh. Ví dụ như ăn cơm, đừng chấp có ta ăn
là vô ngã, đừng chấp thực phẩm đang ăn là vô pháp. Trong khi nghe thuyết pháp,
đừng chấp có ta nghe, là vô ngã, đừng chấp có Phật pháp đang nghe là vô pháp.
Kinh Phật bảo đừng chấp ngã, chấp pháp trong vấn đề nghe pháp, chớ chẳng phải
không cho nghe pháp. Nghĩa là cái ta và cái pháp không được chấp có, nó
hoà nhập vào vấn đề nghe pháp.
Ví dụ ta đang giặt quần áo, đừng chấp có ta đang giặt,
đừng chấp có quần áo đang giặt, đó là vô ngã, vô pháp trong hành vi. Như thế,
làm mà không thấy có sự vật gì đang làm. Công phu như vậy cao hơn toạ thiền
quán tưởng vô ngã vô pháp; vì nó bao hàm cả tư tưởng và hành động vô ngã vô
pháp.
Phá chấp như trên đây không có nghĩa tiêu trừ hay diệt
cái ngã, cái pháp, mà nó có nghĩa phá cái tâm chấp trước ngã pháp. Cứ công phu
như vậy một ít lâu, tuỳ căn cơ trình độ thì lìa được phiền não chướng và sở tri
chướng. Hai chướng nầy ngăn cản hành giả tiến lên bậc Vô thượng Bồ-đề (Phật).
Chương II
TU PHƯỚC ĐỂ THỰC HIỆN CHỦ
NGHĨA TỪ-BI
Đạo Phật là đạo Từ-bi, lý do đó, tu theo đạo Phật phải
tu Phước để thực hiện chủ nghĩa Từ-bi. Từ-bi có hai ý nghĩa: Ý nghĩa thứ nhứt
là để đáp ân Tam bảo Phật, Pháp, Tăng. Đáp ân ở trong trường hợp nầy, là ta
phải noi theo chánh nghiệp độ sanh của Phật, Pháp, Tăng mà hoằng khai đại đạo,
độ tận chúng sanh, chớ chẳng phải chỉ lo cúng dường, lo trai tăng, lo tạo tượng
cho to, chùa cho lớn mà gọi là đáp ân Tam bảo.
Trong vấn đề đáp ân Tam bảo, ta phải xét nghĩ cho nhiều
về vấn đề khế cơ, khế lý đối với thời đại. Con người hiện nay đang vũ bão tiến
lên con đường khoa học kỹ thuật. Cách thức hoằng dương Phật pháp như xưa, nay
không còn hợp thời, không còn thích nghi nữa. Mọi việc làm đều khoa học, đều
tân tiến, nhưng chơn lý, giáo lý không có sự thay đổi, chỉ thay đổi về hình
thức bên ngoài thôi.
Muốn thực hiện chủ nghĩa Từ-bi đúng mức, đừng phân biệt
đạo với đời khác nhau. Đức tức là đạo, đạo tức là đời. Đời với đạo chẳng phải
khác. Ta hoà nhập với đời mà hành đạo, chừng đó ta mới thấy vấn đề “hoà quang
đồng trần” là một vấn đề lớn, chỉ có tư tưởng của Đại thừa mới dung nạp được
thôi.
Chúng ta muốn cho người khác gần mình, trước tiên mình
phải gần với người khác, như thế mới có cơ thành tựu. Nếu chúng ta muốn mọi
người lo việc độ sanh với mình, mà mình không chịu gần mọi người, thử hỏi có
được chăng?
Chủ nghĩa Từ-bi trong giai đoạn cuối thế kỷ 20 đầu thế
kỷ 21, phải hiện đại hoá. Một thời thuyết pháp phải vì hoà bình khắp mọi nơi,
phải cổ động tình huynh đệ đại đồng. Phải tuyên dương tình hữu nghị, phải tương
trợ lẫn nhau, xoá bỏ tư tưởng đế quốc và kỳ thị chủng tộc, kỳ thị chính thể văn
hoá, kỳ thị tôn giáo.
— Thế nào gọi là Từ-bi?
— Từ là làm cho tất cả chúng sanh được vui. Bi
là làm cho tất cả chúng sanh lìa khổ. (Từ năng dữ nhứt thiết chúng sanh đắc
lạc, bi năng bạt nhứt thiết chúng sanh ly khổ).
Không có cái lý “ai nấy đều khổ mà ta được vui.” Người
khổ ta cũng khổ, vì người với ta sống trong chỗ tương quan, chẳng những tương
quan trong một quốc gia mà tương quan cả thế giới.
Thọc một ngón tay xuống biển, ai dám nói rằng chẳng dao
động khắp đại dương. Chủ nghĩa Từ-bi bao la rộng lớn vô lượng vô biên, sao ta
lại tôn thờ chủ nghĩa ấy một cách chật hẹp như vỏ sò vỏ ốc, sao ta lại ích kỷ
hại nhơn, sao ta lại vị kỷ mà không vị nhơn, sao ta chỉ tự độ mà không độ tha,
sao ta tự giác mà không giác tha? Ta phát tâm Bồ-đề mà lòng ta còn nhỏ hẹp tư
riêng như thế, quả thật không xứng đáng chút nào đối với bổn tâm, bổn tánh.
Lòng quảng đại vô biên mới là lòng Phật. Lòng dạ hẹp hòi thì làm sao tôn thờ
chủ nghĩa bao la rộng lớn hơn cả hư không?
Hãy mở lòng rộng lớn bao la ra đi! Phật sẽ chứng cho,
hộ trì cho!
Chương III
TU PHƯỚC ĐỂ HỌC ĐẠI THỪA
— Tấm lòng vàng của những vị phát tâm Bồ-đề nằm ở chỗ
nào?
— Nó nằm ở ý nghĩa bốn câu hoằng nguyện phát tâm Bồ-đề.
Có nhiều vị Bồ-tát phát ngôn rằng: “Khi tấm lòng Từ-bi chưa phát hiện đối với
chúng sanh, thì chớ nên phát tâm Bồ-đề.” Đành rằng phát tâm Bồ-đề là phát tâm cầu
thành Phật, nhưng tâm Từ-bi chưa xuất hiện mà phát tâm thì hoàn toàn không có
lợi: Phát tâm như vậy là tự dối gạt lấy mình, chỉ có hại cho đức hạnh của mình,
bởi vì đối với vấn đề thành Phật mà mình dám lừa dối.
a) Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ:
Đây là câu thứ nhứt của người phát tâm Bồ-đề, thệ nguyện với chư Phật và thệ
nguyện với tấm lòng vàng của mình về sự tế độ chúng sanh, mình cùng chúng sanh
giai cộng thành Phật đạo. Một người bình thường, hứa hẹn việc bình thường còn
không thể bỏ qua được, huống hồ đại thệ, đại nguyện bỏ được sao?
Phải biết rằng một lời nói bâng quơ còn dính mắc, không
thể bỏ được, huống hồ một câu đại thệ nguyện. Thệ nguyện đem cái sinh mệnh nầy
giao kết, nguyện là ao ước, là tha thiết, là hùng tâm hùng chí, dù phải gian
lao cực khổ cách mấy cũng không thối chuyển, huống chi trong sự tu hành độ
sanh, đâu phải gian lao cực khổ thừa chết thiếu sống như bậc anh hùng tử sĩ
xung phong cứu quốc.
b) Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn:
Đây là vấn đề tự độ, độ tha. Đành rằng phiền não nhiều đến tám vạn bốn ngàn
trần lao, nhưng phiền não tức Bồ-đề, sanh tử tức Niết-bàn, chúng sanh tức Phật,
vọng tưởng tức Chơn-như, thì dù cho phiền não đã tích luỹ hằng sa số kiếp đi
nữa, nó cũng không hơn được Huệ giác Bát-nhã ba-la-mật.
Phiền não dù năng lực của nó mạnh cách mấy, nhưng nó là
loại ngu si mê mờ tối tăm, làm sao đủ sức chống lại ánh sáng của Huệ giác
Bát-nhã, là thứ ánh sáng hễ soi chiếu vào chỗ nào, chỗ đó thành không, chẳng có
tác dụng gì hết. Chúng ta thử nghĩ, người khôn với người mê, ai hơn ai kém? Một
trăm ngàn lần, người mê không bao giờ hơn được người thông minh sáng suốt, có
công giồi mài từ kiếp nầy sang kiếp kia để mở trực giác Bát-nhã.
Chính tu theo Đại thừa là khai mở trực giác Bát-nhã
ba-la-mật. Khi đã thành tựu, nó có tên là Nhứt thiết chủng trí (la connaissance
de tout). Dù chưa thành tựu bậc Vô thượng Bồ-đề (Phật), tất cả chúng sanh đều
sẵn có trí Bát-nhã, thông thường gọi là giác tánh, là Chơn tâm, là Chơn-như, là
tự tánh thanh tịnh tâm, là Bồ-đề tâm,...
Tu theo Đại thừa là khai quật tự tánh thanh tịnh tâm
của mình. Hành giả khai mở nó bằng cách nhơn giữ giới sanh định, nhơn định sanh
huệ. Đại định thành tựu thì đại huệ phát sanh; thông thường gọi là đại trí huệ
quang minh.
Tại sao phải nhờ tu Phước để trợ duyên khai mở đại trí
huệ quang minh? Bởi vì nền tảng âm chất với bản chất Chơn-như thuận hợp với
nhau. Tánh thiện có tác dụng kích thích Chơn-như phát sanh Huệ giác Bát-nhã.
Trái lại, tánh ác có tác dụng chống chọi, bất hoà hợp, nghịch lý với Chơn-như,
đối lập với Chơn-như trong mọi trường hợp.
Tu Phước để học Đại thừa là như vậy. Nhưng bao nhiêu
những điều trình bày trên đây cũng chưa đủ sức làm cho hành giả phải lặng tiếng
im hơi sau khi hành pháp bố thí. Tật nghiệp của con người là xấu che, tốt khoe.
Sau khi làm phải một việc gì, đem việc mình làm khoe khoang với người khác. Còn
tiết lậu tin như vậy, đâu phải bố thí vô lậu. Có người, thậm chí cho tiền kẻ ăn
xin mà cũng khoe.
Muốn học hạnh Đại thừa bố thí vô lậu, hành giả sau khi
làm thật sự, phải im tiếng, đừng khoe cho người biết, đừng thấy có người thụ
thí, đừng thấy có tài vật đem ra bố thí. Ta không, người không, vật cũng không,
cái không cũng không, đó là Tam luân thể không. Được như vậy, phước đức vô
lượng vô biên, cho đến cũng không cầu được hưởng phước những gì mình đã làm.
Nhứt là, khi duyên qua rồi thì thôi, không nên nghĩ nhớ đến nữa, xem như không
có việc gì đã xảy ra.
Vấn đề bố thí thuộc về phước đức, chẳng phải công đức.
Bố thí thuộc về hành thiện, công đức thuộc về công phu tu hành. Nếu hành thí là
vô lậu thanh tịnh thiện, thì công đức cũng phải vô lậu. Công đức vô lậu (cũng
gọi là pháp lành) nó mới đúng như kinh Kim Cang nói: “Tu nhứt thiết thiện
pháp, tức đắc đạo Vô thượng Bồ-đề.” (Tu cả thảy các pháp lành, tức
đặng đạo Vô thượng Chánh đẳng chánh giác).
— Thế nào là công đức vô lậu?
— “Tu vô tu tu, chứng vô chứng chứng, đắc vô đắc đắc,”
là công đức vô lậu thanh tịnh. Nghĩa là: Tu mà không chấp là tu mới thật là tu,
chứng mà không chấp có ta chứng mới là thật chứng, đắc mà không thấy có ta đắc,
mới là thật đắc.
Trên con đường tu học Phật pháp, bất luận phước đức hay
công đức, nếu hành giả còn thấy có ta bố thí hay thấy có ta tu hạnh bố thí,
thấy có người thụ thí, thấy có vật hay pháp để thí; hoặc thấy có ta chứng, thấy
có Phật pháp để đắc và ta chứng đắc pháp Phật ấy, thì đều là kẻ tu pháp hữu
lậu, hữu vi, bất kể phước đức hay công đức. Trái lại, bất luận phước đức hay
công đức mà không chấp trước, thì đều thuộc về công đức.
Nói cách khác, làm phước mà không chấp, thì đó là công
đức, trái lại, tu hành mà còn chấp, đó không phải là công đức mà chỉ là phước
đức thôi.
Tham khảo thêm về tu vô vi và hữu vi
Trong sách “Trúc Song” có phác hoạ đường lối tu hữu vi
và vô vi như sau:
Ở một chùa nọ
tới kỳ lễ vía, tất cả nhà sư trong chùa đều mặc trang phục chỉnh tề, cùng nhau
hợp xướng tụng kinh vang rền. Trong khi đó, chỉ có một sư ngồi dựa lưng nơi cửa
chánh, ông ta không tụng kinh gõ mõ gì cả. Lễ xong, các sư khác hỏi:
— Trong khi ai cũng đều tụng kinh, tại sao sư huynh lại
ngồi không dựa cửa như thế?
— Tôi tụng còn nhiều hơn các huynh, đâu có ngồi không?
— Sư huynh tụng cách nào mà không ai nghe thấy?
— Tôi tụng thế nầy: “Xuất tức bất tuỳ chúng duyên, nhập
tức bất cư uẩn giới, thường chuyển như thị bách thiên vạn ức chư kinh.” (Hơi
thở ra không theo các duyên, hơi thở vào không trụ chấp nơi các uẩn. Tôi thường
chuyển như vậy trăm ngàn vạn ức thứ kinh).
Các sư nghe nói, cả thảy đều xanh mặt, chắp tay xá xá
rồi rút lui.
Chương IV
TU PHƯỚC ĐỂ SỚM VIÊN MÃN
BÁO THÂN
Mỗi một vị Phật có ba thân: Một là Pháp thân, hai là
Báo thân, ba là Ứng thân.
a) Pháp thân: Phật lấy pháp giới tánh
(thể tánh các pháp) làm pháp thân. Nó là cái bản thể của Vạn hữu vũ trụ chớ
chẳng phải cái gì khác. Cái bản thể nầy, có kinh thì gọi là Chơn tâm, Phật
tánh, Thiền tông gọi là Bổn tánh, Duy Thức tông gọi là Thực tánh Duy thức, Như
Lai thiền gọi là Tự tánh Như Lai, Tịnh Độ tông gọi là Di Đà tự tánh, v.v...
b) Báo thân: là thân hưởng được quả
báo tốt do tu phước. Do tu phước vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp nên được thân
nầy có 32 tướng chánh, tám mươi tướng phụ, vô số hào quang, chữ Vạn nổi lên
giữa ngực, vô số tướng đẹp phụ thuộc khắp thân thể.
Muốn được viên mãn Báo thân, hành giả phải tích luỹ bao
nhiêu phước đức trí huệ không thể tính biết được, chỉ lấy số cát sông Hằng ví
dụ thôi.
Tu phước là vấn đề trọng đại, vì đó là phước vô lậu
thánh thiện của thánh nhơn, ta chớ nghĩ rằng nó thuộc về phước đức chẳng thuộc
về công đức. Nghĩ như vậy không đúng. Nên biết rằng, bất luận công phu tu hành
nào của hành giả thuộc về vô lậu, nó xuất phát từ Chơn-như Huệ giác Bát-nhã,
tức xuất phát từ pháp thân thanh tịnh bình đẳng, tánh tướng không hai, không
sai biệt, nó với bản thể Chơn-như là nhứt như. Nó cũng bất sanh bất diệt, cũng
thường trú như Chơn-như, nó không phải hình danh sắc tướng như pháp trần hữu vi
hữu tướng. Dù sắc thân có tan rã theo bụi trần, nó cũng giữ trạng thái không
sanh không diệt. Thế mà có người nói rằng khi Phật nhập Niết-bàn, thì Báo thân
tan rã, biến mất như sắc thân!
Phải biết rằng trong ba thân làm ra ba độ. Pháp thân là
Thường tịch quang Tịnh độ. Báo thân là Tự thọ dụng độ. Ứng thân là Tha thọ dụng
độ. Chính Thắng nghĩa căn (cũng gọi Tịnh sắc căn, gọi nôm na là linh hồn), nó
ốp vào phù trần căn để phát sanh tác dụng sanh tâm vật lý. Phù trần căn (sáu
căn sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp) nếu không có thắng nghĩa căn ốp vào,
chẳng lẽ xác thịt (phù trần căn) mà có kiến, văn, giác, tri được sao? Thắng
nghĩa căn tuy vô hình, nhưng nó có đủ sáu căn y như xác thịt (mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân, ý).
Thắng nghĩa căn chính là thần thức, là linh hồn. Nếu không
có thắng nghĩa căn thì không có linh hồn. Chỉ vì người đời chấp có linh hồn bất
tử, nên nhà Phật không dùng từ nầy. Nếu không có thắng nghĩa căn, cái gì bị đoạ
xuống địa ngục như bà Thanh Đề thành ngạ quỉ (quỉ đói), thân hình trở nên xấu
xí. Không có thắng nghĩa căn, cái gì được siêu lên Thiên đường sau khi ngài Mục
Kiền Liên tế độ mẫu thân, bà Thanh Đề lên Thiên đường với thân hình đẹp dẽ của
Tiên nữ. Thân hình bị đoạ và được siêu như một linh hồn, há chẳng phải là linh
hồn ư? Chỉ vì bị định nghĩa “linh hồn bất tử, hay bất diệt” mà nhà Phật không
dùng chớ chẳng phải không có linh hồn. Thế mà các tạp chí Phật học miền Nam
thuở non 80 năm trước đua nhau tranh luận có hồn, không hồn một thời gian, tốn
khá nhiều giấy mực.
Thắng nghĩa căn tức linh hồn, chính là Báo thân, trực
tiếp chịu luật nhân quả lúc sa đoạ cũng như khi được siêu độ hoặc chứng thánh,
thoát ly sanh tử khổ hải.
Nếu Báo thân mà tiêu diệt như Ứng thân, thành ra một vị
Phật chỉ còn hai thân, và trong lúc Phật nhập Niết-bàn, Ứng thân cũng mất luôn,
vì Ứng thân là thân huyết nhục do cha mẹ sanh ra.
Lạ lùng thay! Khi Phật nhập diệt, Ngài chỉ còn vỏn vẹn
có một thân thôi! Phật gì kỳ quái vậy? Phải biết rằng, khi Phật vào Niết-bàn,
chỉ riêng Pháp thân Phật thì ở cõi Thường Tịch quang, không giao thiệp với ai
cả, hai thân kia thì giao thiệp với chúng sanh và Bồ-tát, hướng dẫn Bồ-tát
thành Phật.
Chương V
TU PHƯỚC ĐỂ TRÊN BÁO BỐN ÂN NẶNG,
DƯỚI TẾ ĐỘ TAM ĐỒ
Căn bản tu học của Đại thừa, bất luận pháp môn nào cũng
phải phát xuất từ Tự tánh thanh tịnh tâm. Bổn tâm bổn tánh của chúng ta có đủ
vô lượng pháp môn, chính Phước Huệ là căn bổn trên mọi căn bổn. Tại sao vậy?
Tại vì Phước với Huệ là gốc lành của Tự tánh.
Phước với Huệ là tác dụng của Tự tánh, ai song tu Phước
Huệ, người ấy bước trúng đường đi vào gốc lành; người nầy đi đúng đường Phật
đi, làm đúng việc Phật làm, tu đúng việc Phật tu, thành đúng việc Phật thành.
Nếu Phước Huệ là cái dụng căn bản của Tự tánh thanh
tịnh tâm, hành giả hễ nghĩ nhớ đến Phước Huệ, là nghĩ nhớ đến nguồn gốc con
người của mình, lập tức có tư tưởng hoặc hành động phát xuất từ tự tâm. Phước
Huệ khai mở như vậy, kinh Pháp Hoa gọi là “Khai mở tri kiến Phật.”
Nói về tri kiến Phật, trong kinh Pháp Hoa có bốn câu kệ
đại ý như vầy:
1. Khai mở tri kiến Phật tâm Phật tánh
2. Hiển bày tri kiến Phật tâm Phật tánh
3. Tỏ ngộ tri kiến Phật tâm Phật tánh
4. Nhập vào tri kiến Phật tâm Phật tánh.
Khác với kinh Diệu Pháp Liên hoa, kinh Kim Cang là
quyển kinh chúa trong vấn đề tu hành về sự phá chấp. Không phá chấp-trước, cứ
đeo mang các pháp hình danh sắc tướng thì làm sao nhập sâu vào cảnh giới của
Chơn tâm Phật tánh được. Trong khi đó, kinh Kim Cang lại khích lệ Tu Phước bằng
cách “Thượng báo tứ trọng ân, hạ tế tam đồ khổ.”
THƯỢNG
BÁO TỨ TRỌNG ÂN
1. Ơn cha mẹ sanh thành cúc dục.
Công cha như núi Thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong
nguồn chảy ra. Hai thứ ơn nầy hết sức nặng nề, hết sức to tát, rộng mênh mông
như rừng sâu bể cả, dù báo đáp cách nào cũng không tương xứng.
Mười tháng cưu mang, ba năm bồng ẳm, ăn cay uống đắng,
bú sữa mớm cơm. Ai kia có nhớ chăng? Con khóc, cha mẹ âu sầu, con cười, cha mẹ
hỉ dạ. Chẳng may con đau ốm, thì giàu cũng như nghèo, chơn không bén đất, rước
thầy chạy thuốc, đêm năm canh thổn thức, ngày sáu khắc âu lo, cầu khẩn các đấng
thiêng liêng cho con mau lành bệnh.
Nay con đã mạnh rồi, khá giả chẳng nói chi, nếu nghèo
khó thì than ôi! Phải làm thuê ở mướn, lo ngược tính xuôi, nhịn ăn, nhịn mặc,
lắm lúc cầm bán vật dụng trong nhà, hầu trang trải tiền thầy tiền thuốc.
Đến khi con lên năm lên bảy, lo sắm ăn sắm mặc cho kịp
bạn kịp thời. Cha mẹ còn phải nghĩ đến đường học vấn cho con. Trai thì nghề
nghiệp văn chương, tốn hao chẳng ngại, chỉ mong con sớm đặng thành danh, làm
vinh hiển tông đường, biết giữ phận công dân, xứng đáng cho quê hương xứ sở.
Gái thì cũng rèn tập văn chương, thêm phần công dung ngôn hạnh, mai sau nên
trang dâu thảo mẹ hiền.
Học tập vừa xong thì lo bề gia thất, đấng sanh thành
lại một phen lo nghĩ, nào cậy mai tìm mối, nào sắm sanh lễ vật cầu thân, tốn
hao chẳng tiếc, miễn sao cho con trẻ xứng đôi vừa lứa là phỉ dạ toại lòng.
Ơn cha mẹ như non cao biển rộng, phận làm con phải báo
đáp cách nào đây? Thánh nhân xưa đã dạy: “Lập thân hành đạo, giương danh ư hậu
thế, dĩ hiển kỳ phụ mẫu, hiếu chi chung giả.” (Lập thân danh hành đạo cả, nêu
tên tuổi đời sau, làm vinh hiển cho song đường, ấy là làm con trọn nên hiếu
thảo vậy).
Ta cũng nên để ý rằng, dù hết lòng báo đáp ơn cha nghĩa
mẹ thế nào chăng nữa, mà người Phật tử không biết cách làm cho cha mẹ đi trên
con đường chánh đạo (Phật đạo), thì sự báo đáp ơn sanh thành của người con đối
với song thân, chưa phải là đầy đủ trọn vẹn bổn phận làm con.
2. Ơn quốc gia chánh phủ.
Ơn nầy cũng gọi là ơn nhà nước. Dù là người tu hành,
chúng ta cũng là một công dân trong một nước, tức là một thành viên trong cộng
đồng xã hội, chúng ta có bổn phận phải đóng góp công sức vào việc kiến tạo quê
hương tuỳ theo khả năng, không làm điều phi pháp, phản giống nòi.
Xã hội hiện nay ngày càng văn minh, dân chủ và tiến bộ.
Tuy nhiên, dù thế giới có tiến bộ tới đâu chăng nữa, ơn chánh phủ cũng không
thể bỏ qua được. Uống một ngụm nước bên vệ đường còn không thể quên ơn được,
huống hồ nhà nước quản lý điều hành đất nước là một công việc rất vĩ đại đối
với quốc gia, dân tộc. Vì lý do đó, ta với nhà nước tuy hai mà một, tuy một mà
hai. Cái gì chánh phủ lo là toàn dân phải chung lo, cái gì chánh phủ làm, là
toàn dân phải chung làm. Nhà nước nhứt hô, toàn dân bá ứng. Ta chung lo, chung
tính, chung làm với chánh phủ.
Như thế, nếu không hợp tác chung lo với chánh phủ là
chúng ta bỏ vùi việc làm của mình, ta làm hại ta, vì ta là số đông, nếu có
thiệt hại thì sẽ thiệt hại nặng hơn chánh phủ. Đi đúng con đường đã vạch ra
trên đây, đó là ta biết cách báo ơn chánh phủ vậy.
3. Ơn minh sư giáo hoá:
Minh sư là người chỉ rõ mê đồ để triệu khai giác lộ,
hun đúc tâm công bình, rèn luyện tánh bác ái. Nào là người xuất gia ly dục, nào
là bậc minh tâm kiến tánh, cùng những bậc thấu tột nguyên lý vũ trụ vạn hữu,
tất cả đều thấm nhuần giáo pháp của đức Minh sư chỉ dạy và lưu truyền.
Danh hiệu Minh sư là danh hiệu của Đức Phật Thích Ca,
Giáo chủ cõi Ta-bà nầy. Đây là một vị Giáo chủ toàn giác, toàn minh, vô thượng
chánh đẳng. Còn danh hiệu Minh Trí là của Đức Tông sư Tịnh Độ Cư Sĩ Phật Hội
Việt Nam. Đức Tông sư thường nói: Ngài với chúng ta là thiện hữu tri thức. Suốt
một đời tu học, Ngài am hiểu sâu rộng về Phật pháp. Ngài đã thệ nguyện thực
hiện trong đời mạt pháp nầy chủ nghĩa Từ-bi Bác ái của Đức Như Lai. Ngài tự
lãnh trách vụ chỉ bảo khuyến khích chúng ta trên đường tu tập. Hoài bão của
Ngài là người người đều được minh đức tân dân, chí chơn chí thiện, tế độ quần
sanh tổng giai thành Phật đạo.
Có hai bậc tu Phật: Một là bậc xuất gia, trường
trai tuyệt dục, cắt ái từ thân, đoạn lý hương đảng, danh lợi chẳng màng, lòng
trần rửa sạch, giới luật hoàn toàn, tam tụ lục hoà tròn đủ. Toàn thể Tịnh Độ Cư
Sĩ Phật Hội Việt Nam ngày ngày cầu khẩn Ơn trên cho nước Việt Nam có nhiều vị
đại đức chơn tu, hầu dìu dắt nhơn sanh theo đường chánh tín.
Hai là hàng cư sĩ có cửa có
nhà, có nghề nghiệp làm ăn, giữ tròn chánh mạng. Dù cho sơ cơ học đạo, sóc vọng
hoặc lục thập trai kỳ, chớ cũng biết quán tưởng tham thiền, giải phá si mê, dứt
trừ phiền não. Đến những bậc phát tâm dõng mãnh thì cũng trường trai tuyệt dục,
giới luật tinh chuyên, không khác gì tăng ni trong tứ chúng.
Suy cho kỹ, nếu thân tuy ở cửa Không (tự viện), mà tâm
vẫn điên đảo mê lầm, mến trần luyến tục, trục lợi đồ danh thì có khác chi kẻ
phàm phu tại thế. Còn thân tuy cư sĩ, nhưng lòng thường thanh tịnh, liễu ngộ lý
mầu, thì sánh bực xuất gia kia không thua, không kém.
Tóm lại, dù cao dù thấp, dù Tịnh dù Thiền, lành dữ, mê
ngộ, là tại lòng mình (Vạn pháp duy tâm), thì tại gia hay xuất gia, ai tu theo
nhân nào, thì chứng quả nấy, mảy mún không sai.
Ai là hàng Phật tử, rán gìn lòng chơn trực, khá giữ dạ
chánh trung, nêu gương xán lạn cho đoàn hậu tấn noi theo, hầu báo đáp trọng ân
của đức Minh sư trong muôn một.
4) Ơn nhơn quần xã hội.
Lý do gì phải mang ơn xã hội? – Lời xưa có nói: “Vũ trụ
là hí trường, công danh là bào ảnh.” Quán theo chơn lý thật tướng, thì lời ví
kia quá đúng. Đạo hữu nam nữ cùng chư thiện tri thức cũng đồng quan niệm rằng:
Trong việc sanh tồn, tất cả nhơn loại đều liên quan mật thiết với nhau. Thử
nghĩ, chỉ một mình ta trên hoàn vũ, ta nương tựa vào ai để chống chọi với mưa
nắng, ốm đau, đói rét? Vì lẽ bảo tồn, nhơn loại mới tụ tập kết đoàn hợp lũ, cho
nên gọi là Nhơn Quần. Nhơn loại tuy sống chung lộn mà có thượng
hạ tôn ty, cang thường luân lý, kỷ luật phân minh, cho nên gọi là Xã Hội.
Trong sự chung sống của nhơn loại, kẻ làm nghề nầy,
người chuyên nghiệp nọ, trao đổi giúp đỡ lẫn nhau, chẳng luận màu da sắc tóc,
không ai có thể sống riêng biệt một mình. Vì lẽ ấy, Tây âu mới có châm ngôn:
“Dù cho tài cao thế mấy đi nữa, chúng ta cũng cần phải nhờ nhỏi kẻ kém sút ta
thập bội.”
Ví dụ như y phục của chúng ta, kẻ nuôi tằm ươm tơ phải
thức khuya dậy sớm, người trồng bông dãi nắng dầm sương, mới có nguyên liệu làm
vải bô lụa là cho ta che thân. Đến như đồ thực dụng hằng ngày, thì người nông
phu phải cày sâu cuốc bẫm, đội nguyệt mang sao, trải bốn mùa gian lao khổ cực
đến ngần nào. Còn người làm rẫy lập vườn, thì nào vun trồng đủ giống đủ loài,
vô phân, tưới nước, cao lương mỹ vị mới có cho chúng ta thoả dạ. Thậm chí đến
loài cầm thú súc vật cũng giúp đỡ ta chẳng ít. Trâu cày, ngựa cỡi, chó giữ nhà,
gà gáy sáng. Cũng như động vật, muôn loài thực vật đều hữu ích cho chúng ta tất
cả.
Lại nữa, cổ nhân có câu thánh huấn: “Nhơn ngô đồng bào,
vật ngô đồng khí,” người với ta cũng tai mắt tóc da, thịt xương tuỷ huyết, sanh
ra đầu đội trời, chân đạp đất, biết nghĩ biết suy, có tình có nghĩa, cho nên
gọi là đồng bào. Vật với ta đồng khí, nó cũng như ta, tham sống sợ chết, biết
đau đớn kêu la, cũng biết có đôi bạn thương yêu, khác chăng, chỉ không nói năng
như ta thôi. Thể chất của người và vật như nhau, cho nên gọi là đồng khí, thì
nỡ lòng nào đang tay sát hại chẳng chút thương tình.
Sách sử xưa còn ghi chép: “Kiết thảo hàm hoàn, tri ân
tất báo.” Hồn linh kết cỏ, chim nọ ngậm vành, đền đáp ơn thay, hà huống chi
nhơn loại?
Ngày nay, chúng ta mang thân giả hiệp trong thời kỳ mạt
pháp nầy, dù cho tuồng đời điên đảo thế mấy đi nữa, chúng ta cũng phải an nhẫn
gắng sức tu hành, bền lòng học tập, phát tâm Bồ-đề rộng lớn, dõng mãnh tinh tấn
độ mình, độ người, đồng qua khổ hải; như thế mới gọi là Thượng báo Tứ trọng ân.
HẠ TẾ TAM ĐỒ KHỔ
Dù Trọng ân đã đền, Phật sự của chúng ta cũng chưa trọn
vẹn. Chúng ta còn phải thực hành chủ nghĩa Từ-bi, cứu độ nhơn sanh khỏi Tam đồ
khổ, mới đúng với cái bản hoài xuất thế của chư Phật.
Thế nào gọi là Tam đồ khổ?
Một là Đao đồ, tức là những nỗi khổ do đao gươm
gây nên, ví như vì sân hận thù hiềm, nhơn loại lắm phen chém giết lẫn nhau,
hoặc vì tham lam gây chiến để chiếm đoạt, nhỏ thì cướp giựt tài sản, lớn thì
xâm chiếm đất đai.
Hai là Thuỷ đồ, tức là những cảnh khổ do nước
gây ra. Ví như người xảy chơn chết đuối, hoặc do lũ lụt cuốn trôi, hoặc do dòng
nước chảy xiết, cảnh bão tố nước ngập tuông trào, khiến cho người vật phải nổi
trôi chìm đắm.
Ba là hoả đồ, tức là những cái khổ do lửa gây
ra. Những cơn hoả hoạn tiêu nhà diệt cửa, thiêu sống kẻ chậm chơn trễ bước,
hoặc bệnh hoạn già yếu không lanh chơn.
Gươm đao, Nước, Lửa đã gây ra như vậy, khiến lâm vào
hoàn cảnh không nhà cửa, không nơi trú ngụ, không phương tiện sanh sống. Bị
cướp bị trộm còn có cơm ăn, chớ bị lửa thiêu sạch, một chén nước cũng không
còn, Phật tử chúng ta phải mau mau hợp đoàn cứu trợ như thuở chùa Tân Hưng Long
Tự (trong khoảng hai thập niên 60 và 70 thế kỷ 20) nấu cơm tiếp tế luôn ba bữa.
*
KẾT LUẬN VỀ TU PHƯỚC
Đến đây, chúng ta thấy vấn đề tu Phước rất quan trọng
đối với vấn đề tu Huệ. Quan trọng đến đỗi không thể không có tu Phước trong khi
đang tu Huệ. Liên quan mật thiết trong vấn đề tu hành các pháp môn, như kinh
Phật nói về tương quan sanh khởi đồng sanh, đồng diệt. Chính kinh A Hàm cho ta
cái chơn lý đồng sanh đồng diệt trên đây như vầy:
Cái nầy có, cái kia cùng có
Cái nầy không, cái kia cùng không
Cái nầy sanh, cái kia cùng sanh
Cái nầy diệt, cái kia cùng diệt.
Cái nầy, cái kia là cái gì? Đó là hai pháp đối đãi
tương quan đồng sanh, đồng diệt. Ví dụ từ xưa đến nay không có ban đêm, thì từ
xưa đến nay cũng không có ban ngày. Từ xưa đến nay không có chánh kiến, thì từ
xưa đến nay cũng không có tà kiến. Chánh kiến với Tà kiến do đối đãi nhau mà
cùng có hoặc cùng không. Trong hai pháp, nếu một pháp không có thì pháp kia cũng
không. Ngược lại, một pháp không có, thì pháp đối kia cũng không. Thế nên, có
thì cùng có cả thảy vậy vay, bằng không thì đôi liên cũng chẳng may may nào.
Hành giả nào tu học theo chơn lý Đại thừa, được cái lợi
rất to tát, là hai pháp đối đãi cùng giúp đỡ lẫn nhau cho sự tu hành của mình
chóng thành công. Trái lại, nếu chấp trước sự đối lập, đối đãi, nghịch nghĩa,
làm mất cái thế viên dung bình đẳng, chẳng những không học được chơn lý Đại
thừa, mà còn làm cho hai tướng đối đãi trở thành chướng ngại, phá hoại và hư
hại đến pháp tu Đại thừa.
Ví dụ như Chánh kiến và Tà kiến, nếu là bình đẳng thì
có lợi, nếu trái nghịch thì có hại.
Bao nhiêu triết luận trên đây cho ta thấy vấn đề tu
Phước quan trọng bậc nào.
Có một vấn đề kỳ bí, yếu lý, thành công, hữu hiệu như vấn
đề tu Phước, thì từ xưa đến nay không có quyển kinh nào bằng kinh Kim Cang
Bát-nhã: Hành trì theo kinh Kim Cang Bát-nhã đến chỗ tỏ ngộ, thì phước đức lớn
vô biên, không thể nghĩ bàn.
* * * * * *
PHẦN THỨ HAI
THẢO
LUẬN VẤN ĐỀ TU HUỆ
Chương I
ĐỊNH DANH TU HUỆ
Hỏi: Tu theo Phật pháp, tại
sao cần thiết phải tu Huệ?
Đáp: Đạo Phật mệnh danh là
đạo Trí huệ. Do lẽ đó, tu theo Phật pháp thì phải tu Huệ .
— Huệ là gì?
— Huệ là trí huệ, tiếng Phạn là Prajn, tiếng Pháp là
Sagesse, tức cái trí khôn ngoan sáng suốt, trái với cái lòng tối tăm mê lầm bất
thông lẽ phải. Prajn, Trung Hoa không có từ nào cân xứng, nên dịch âm là
Bát-nhã.
Bát-nhã có nhiều nghĩa sâu mầu, ở đây xin nêu ra sáu
nghĩa:
1. Viễn ly: Xa lìa vô minh phiền não
vọng nghiệp.
2. Minh: Sáng, không mờ tối.
3. Huệ: Sáng tỏ.
4. Thanh tịnh: Trong sạch, không
nhiễm ô.
5. Trí: Thông suốt.
6. Trí huệ: Sáng tỏ, thông suốt.
— Tại sao thường gọi là Bát-nhã, không gọi là Trí huệ?
— Bởi vì nếu dịch là Trí huệ, thành ra chưa đủ nghĩa.
Hơn nữa, nếu dịch là Trí huệ, e người đời cho là tầm thường mà không quan tâm.
Bát-nhã có nhiều thứ, nhiều cấp bậc:
1. Văn tự Bát-nhã: Lấy ngôn ngữ văn
tự để hiển bày lý Bát-nhã.
2. Bát-nhã Phật: Trí huệ Phật,
cũng gọi là Huệ giác Bát-nhã, là Trí huệ có công năng như thuyền bè từ bến mê
chở sang bờ giác (Ba-la-mật). Bến mê là chỉ cho thế giới chúng sanh, đầy tham,
sân, si. Bờ giác, chỉ cho thế giới sáng suốt, dứt ngu si mê lầm, thanh tịnh
giải thoát.
3. Bát-nhã thật tướng:
Thật tướng là Bát-nhã, Bát-nhã là Thật tướng. Phàm cái gì chơn thật, cái đó
không có hình danh sắc tướng (gọi tắt là vô tướng).
“Vô tướng vô bất tướng,” không tướng nhưng chẳng phải
không tướng. Cái lý nầy cho chúng ta biết rằng: Chẳng phải thật tướng là không
có gì cả, càng chẳng phải thật tướng là không có tướng gì hết. Tại sao vậy? Tại
vì, khi thanh tịnh vô trước vô chấp thì vô tướng. Trái lại, lúc bất tịnh, tánh
biến kế sở chấp hãy còn, lẽ đương nhiên vẫn còn tướng, chưa phải vô tướng.
Không nên hiểu vô bất tướng là có tướng đi kèm với không tướng,
cũng như sắc đi kèm với không, thành ra còn đối đãi, đối lập phản
đề, nghịch nghĩa.
Vả chăng, ngoại duyên trần cảnh “hình danh sắc tướng,”
chẳng phải bỗng dưng mà có tướng. Có tướng hay không có tướng nguyên do tại có
người chấp trước. Nếu không có ai đứng trước các vật, làm sao biết các vật có
tướng hay không có tướng. Căn cứ vào lời nói của Duy Thức Học: “Ở trước
Y-tha-khởi tức hình danh sắc tướng của sáu trần, mà tánh Biến-kế sở chấp vắng
mặt, thì hình danh sắc tướng (6 trần) là Chơn-như chớ chẳng phải cái gì khác.”
Đem lời nói nầy mà đọ với năm pháp trong kinh Lăng Già, thấy nó chẳng có gì sai
biệt.
Kinh Lăng Già nói năm pháp Danh, Tướng, Vọng tưởng,
Chánh trí và Như như thì cũng không khác với Ba Tự-tánh của Duy Thức Học. Trong
lúc vắng mặt tánh Biến-kế sở chấp, thì Y-tha-khởi là Chơn-như. Cũng như thế,
trong lúc không có Vọng tưởng thì Danh tướng là Chánh trí, là Chơn-như. Ngược
lại, trong lúc có Vọng tưởng, thì Chánh trí và Như như biến dạng, khác nào
trăng tuy sáng mà bị mây đen bao trùm.
Đến đây, chúng ta thấy vấn đề tu Huệ quan trọng một
cách thâm sâu vô tận trong vấn đề thành đạo Vô thượng Bồ-đề.
Chương II
TU HUỆ ĐỂ HÀNG PHỤC VỌNG
TÂM, AN TRỤ CHƠN TÂM và TRỢ DUYÊN TU CHỨNG
Lời hỏi đầu tiên của ông Tu-bồ-đề trong kinh Kim Cang,
có tầm quan trọng vô cùng lớn đối với người đời sau muốn tiến thẳng lên Phật
thừa. Những đoạn trích dẫn và thảo luận dưới đây, sẽ giúp chúng ta dễ dàng tiếp
cận, thâm nhập vào tinh nghĩa của kinh nầy.
. . . . . .
Tu-bồ-đề: Bạch Thế Tôn, nếu
có người phát tâm Bồ đề, muốn cầu quả Phật, thì:
1. Làm sao hàng phục vọng tâm?
2. Làm sao an trụ Chơn tâm?
Đức Phật: Nầy Tu-bồ-đề, nếu
có người phát tâm Bồ-đề muốn cầu quả Phật, thì nên như lời Ta dạy dây mà hàng
phục vọng tâm và an trụ Chơn tâm.
Phật
dạy hàng phục vọng tâm
1. Nầy Tu-bồ-đề, các vị Bồ-tát phải độ tất
cả các loại chúng sanh đều được nhập Vô dư Niết-bàn. Bồ-tát tuy độ vô lượng vô
số chúng sanh như vậy, nhưng không thấy có một chúng sanh nào được độ. Tại sao
vậy? Nếu Bồ-tát còn thấy có mình độ và chúng sanh được độ, tức là Bồ-tát còn
chấp bốn tướng (Ngã, Nhơn, Chúng sanh, Thọ giả) thì không phải là Bồ-tát.
2. Tu-bồ-đề, Bồ-tát khi tu pháp Bố thí không
nên trụ chấp các tướng, nghĩa là không nên trụ chấp các tướng của lục trần
(sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp). Tại sao? Nếu Bồ-tát Bố thí mà không chấp
tướng thì phước đức nhiều lắm, không thể nghĩ bàn.
Phật
dạy an trụ Chơn tâm
Nầy Tu-bồ-đề, các vị Bồ-tát phải y như lời
Ta dạy trên đó mà an trụ Chơn tâm.
(Đến phần thứ 12, Đức
Phật kết luận về “hàng phục vọng tâm, an trụ Chơn tâm” như sau:)
Bởi vậy Tu-bồ-đề nầy, Bồ-tát nên lìa cả thảy
tướng mà phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Chẳng nên sanh tâm trụ sắc,
thinh, hương, vị, xúc pháp. Nên sanh tâm không có chỗ trụ (Ưng vô sở trụ
nhi sanh kỳ tâm), bằng tâm có chỗ trụ, tức chẳng phải trụ… Bởi vậy Phật nói tâm
của Bồ-tát chẳng nên chấp pháp mà làm việc bố thí…
(Cũng với lời hỏi như
vậy, ông Tu-bồ-đề hỏi tới hai lần nhằm nhấn mạnh tầm quan trọng của lời hỏi.
Lần thứ hai, ông Tu-bồ-đề hỏi Phật:)
Tu-bồ-đề: Bạch Thế Tôn, nếu
có người phát tâm Bồ đề, muốn cầu quả Phật, thì làm sao hàng phục vọng tâm và
an trụ chơn tâm?
Đức Phật: Nầy Tu-bồ-đề! Nếu
có người phát tâm hoá độ tất cả chúng sanh, thì không nên thấy có mình độ và
chúng sanh được độ. Tại sao vậy? Nếu Bồ-tát còn thấy mình độ và chúng sanh được
độ, thì Bồ-tát còn thấy có Ngã tướng, Nhơn tướng, Chúng sanh tướng và Thọ giả
tướng, tức nhiên không phải là Bồ-tát.
Tu-bồ-đề,
thật không có một chút pháp gì gọi là phát tâm Vô thượng Bồ-đề cả.
GIẢNG LUẬN
Về hai câu hỏi của ông Tu-bồ-đề, lần thứ nhứt Phật dạy
Bồ-tát độ sanh mà không chấp có ta độ và chúng sanh được độ. Kế đó Phật dạy
Bồ-tát bố thí bất trụ tướng. Nếu trụ tướng mà làm việc bố thí thì Nhãn căn cũng
như Nhãn thức mê chấp sắc trần, Nhĩ căn, Nhĩ thức mê luyến Thinh trần, v.v...
Phật trả lời ông Tu-bồ-đề bằng hai bài học, là Bồ-tát
độ sanh mà không chấp có ta độ và chúng sanh được độ, và Bồ-tát bố thí bất trụ
tướng.
Các bài học tiếp nối giảng giải hàng phục vọng tâm và
an trụ chơn tâm, chúng tôi thấy câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” rất thích
hợp với người đang thực hành Phước Huệ song tu.
Hỏi: Tại sao cho rằng bài học
thích hợp với người song tu Phước Huệ, trong đó có câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh
kỳ tâm?”
Đáp: Bài học nầy chẳng khác
bao nhiêu đối với các bài ở trước nói về Bố thí bất trụ tướng. Ngũ tổ Hoằng
Nhẫn đại sư lấy kinh Kim Cang dạy đồ chúng tu hành, và Ngài có trước tác quyển
kinh, trong đó có câu: “Giữ Chơn tâm hơn niệm Phật mười phương.” Ưng vô sở trụ
nhi sanh kỳ tâm (Không nên sanh tâm trụ chấp vào đâu hết), chẳng những nó có
tác dụng hàng phục Vọng tâm, mà cũng có công dụng an trụ Chơn tâm.
Theo thiển kiến của chúng tôi, chẳng những các lời đáp
của Phật đối với hai câu hỏi của ông Tu-bồ-đề hình thành bộ kinh Kim Cang
Bát-nhã Ba-la-mật mà thôi. Chí như câu nầy, chẳng những nó bao trùm kinh Kim
Cang, mà nó cũng bao trùm cả bộ Đại Bát-nhã Ba-la-mật nữa.
• Này đây! Muốn chứng bản chất chơn không của Chơn tâm
Phật tánh, Tự tánh thanh tịnh tâm, Tự tánh thanh tịnh Niết-bàn, v.v... hành giả
phải tu tập “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.”
• Muốn minh tâm kiến tánh thành Phật, hành giả phải tu
tập “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.”
• Muốn hoàn toàn vô lậu thanh tịnh, hành giả phải thoát
ly phiền não chướng và sở tri chướng do chấp ngã chấp pháp, tức là “Ưng vô sở
trụ nhi sanh kỳ tâm.”
• Muốn chứng đắc pháp môn Không Hai trong kinh Duy Ma,
hành giả phải lìa nhị nguyên biên kiến, tức là “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.”
• Muốn đạt cảnh giới Trung đạo đệ nhứt nghĩa đế, hành
giả phải tu tập “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.”
• Muốn không dính mắc đến câu: “Dù diệt hết thấy, nghe,
hay, biết, mà trong tâm còn giữ cái u nhàn, có khác nào còn phân biệt bóng ảnh
sáu trần,” hành giả phải tu tập “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.”
• Muốn vào nhà Tổ của pháp môn Đốn giáo Thiền tông,
hành giả phải chứng được Chơn không Bát-nhã do tu tập “Ưng vô sở trụ nhi sanh
kỳ tâm.”
• Muốn vào nhà Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi toạ cụ Như
Lai, hãy tu tập “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.”
• Muốn chứng Thực tánh Duy Thức, hãy tu tập “Ưng vô sở
trụ nhi sanh kỳ tâm.”
• Muốn Khai, Thị, Ngộ, Nhập tri kiến Phật, hành giả
phải tu tập “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.”
• Muốn chứng được Duy tâm Tịnh độ, Tự tánh Di Đà, hành
giả phải tu tập “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.”
• Muốn hữu Thiền hữu Tịnh độ, hành giả phải tu tập “Ưng
vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.”
• Muốn quét sạch chấp ngã chấp pháp, hãy tu tập “Ưng vô
sở trụ nhi sanh kỳ tâm.”
Tu học Phật pháp đối với giáo lý Đại thừa là hành giả
không còn dính mắc vào hình danh sắc tướng của vạn pháp. Các pháp tuy muôn ngàn
sai biệt về hình danh sắc tướng, nhưng cả thảy đều do Chơn-như sanh ra. Chúng
không có tự tánh, chúng mượn Chơn-như làm tự tánh. Nếu chúng có tự tánh thì
chúng tự sanh thành, chẳng cần chờ nhơn duyên hội hợp mới thành. Duyên hợp thì
sanh khởi, duyên tan thì biến diệt, nhưng đó là giả dối mà diệt, chớ chẳng thật
diệt. Nếu các pháp thật diệt thì không thể nào sanh ra nữa. Sanh cũng không
thật có sanh, diệt cũng không thật có diệt, đó là huyễn hoá mà sanh, huyễn hoá
mà diệt. Nếu thật có sanh diệt, thì đó là bất sanh bất diệt, đó là bản chất của
Chơn-như. Không đạt được lời nói nầy thì không bao giờ tin rằng “Chơn-như tuy
thường tuỳ duyên sanh diệt mà vẫn như như bất biến, tuy như như bất biến mà vẫn
thường tuỳ duyên sanh diệt.”
Hơn nữa, nếu không thông lý bất sanh bất diệt thì không
bao giờ tin rằng các pháp là tịch diệt, tin rằng Chơn-như dù ta có toạ thiền
hay không, có tu định hay không, nó cũng không bao giờ có vọng niệm tạp tưởng. Như
là bất sanh, như là bất diệt, như như bất sanh bất diệt, làm gì có sanh
diệt. Chơn tâm, Phật tánh của chúng ta vì bất sanh bất diệt, nên mệnh danh là
thường trú, chẳng phải vô thường; vô thường là sanh diệt. Ai tin Chơn tâm Phật
tánh của mình là thường trú, vô khứ vô lai, người đó mới tin Kim Cang nói rằng
“Như Lai là vô khứ vô lai,” là chỉ cảnh giới vô mê, vô ngộ. Nếu có khứ có lai
là cảnh giới mê ngộ của phàm phu, bỏ quên Chơn tâm diệu giác minh của mình.
Theo ngài Thích Thiện Hoa, nội dung quyển Kim Cang
Bát-nhã Ba-la-mật là dùng để giảng giải hai câu hỏi của ông Tu-bồ-đề. Nguyên
lai, bộ kinh Đại Bát-nhã Ba-la-mật có tới 600 quyển, mà thời pháp Kim Cang xem
như tóm lược lại bộ kinh nầy.
Nghiên cứu thật kỹ lời Phật dạy, thấy lần hỏi trước
chia làm hai câu để đáp lại. Lần thứ nhì, cũng hai câu hỏi đó, nhưng Phật nhập
câu trả lời lại làm một. Xét kỹ mới thấy ý Phật muốn nói: “Hàng phục vọng
tâm tức an trụ chơn tâm.” Thật vậy, khi vọng tâm đã bị hàng phục rồi, nó
trở thành chơn tâm thì còn an trụ chơn tâm gì nữa?
Ông Tu-bồ-đề tỏ ngộ hai nguồn gốc [Phật đã nói] trong
kinh Thủ Lăng Nghiêm,* cho nên ông hỏi Phật cách thức hàng phục vọng tâm, chớ
không hỏi Phật cách thức tiêu diệt vọng tâm. Nếu vọng tâm mà bị tiêu diệt, thì
Chơn tâm cũng không còn, y hệt như diệt cho hết sóng, thì nước cũng mất luôn.
* Nguồn gốc sanh tử vô thỉ và Nguồn gốc Bồ-đề
Niết-bàn vô thỉ (Vọng tâm với Chơn tâm, Vọng tưởng với Chơn-như).
Phải biết rằng, An trụ Chơn tâm là làm cho Chơn
tâm không trụ vào đâu hết, vì tự thể của Chơn tâm vốn bất sanh bất diệt thường
trú, nó đâu phải vô thường mà bắt nó trụ vào chỗ nầy chỗ kia. Kinh Phật bảo Trụ
vô sở trụ, nghĩa là trụ chỗ chẳng trụ vậy.
Bàn về An trụ Chơn tâm, Ngũ tổ Hoằng Nhẫn đại sư nói:
“Giữ Chơn tâm còn hơn niệm Phật mười phương.” Chơn tâm không ở đâu hết, nhưng ở
đâu cũng có hết. Tuy nhiên, đừng chấp có, hoặc chấp không. Chấp có thì kẹt vào
sanh tử phần đoạn của phàm phu, chấp không thì sa vào sanh tử biến dịch của
Thinh văn hữu học.
Đối với vấn đề vô lậu thanh tịnh, chẳng phải chỉ có
việc chẳng chấp có, chẳng chấp không mà thôi, mà phải xa lìa năng, sở, ngã,
pháp, mới có thể đạt được cảnh giới vô lậu thanh tịnh.
Ai muốn đạt được cảnh giới vô lậu thanh tịnh, phải nghĩ
đến vấn đề trực tiếp làm cho ta ô nhiễm. Chính chấp ngã, chấp pháp mới là vấn
đề trực tiếp làm cho ta ô nhiễm. Kinh luận Đại thừa cho chúng ta biết rằng:
“Chấp ngã chấp pháp hình thành cửa ải, khiến cho người tu hành khó vượt lên
Phật quả.”
A. Những vị sau khi hàng phục vọng tâm,
mà vọng niệm tạp tưởng còn lai rai, những vị đó phải biết hai nguồn gốc phát
sanh thanh tịnh bắt nguồn từ Tự tánh thanh tịnh tâm.
Tự tánh thanh tịnh tâm phát sanh thanh tịnh, bằng bốn
tác dụng thấy, nghe, hay, biết. Hành giả phải biết rằng: chẳng phải thấy, nghe,
hay, biết nào cũng thanh tịnh, mặc dù nó xuất phát từ Tự tánh thanh tịnh tâm.
Bốn tác dụng nầy khi phát sanh từ trong ra ngoài, nó bị
hành giả chấp ngã, chấp pháp, làm cho ô nhiễm bất tịnh, nghĩa là hành giả chấp
có ta đang làm Phật sự hay làm việc sanh sống; chấp có sự việc đang làm về đạo
hoặc về đời. Thế là ngã pháp tràn ngập thân tâm. Đó là lý do trong khi phát ra
tác dụng, nó vốn thanh tịnh, đến khi ra ngoài, bốn tác dụng kiến văn giác tri
trở thành bất tịnh.
B. Duy Thức Học cho ta biết rằng: sáu
thức đóng đô tại sáu căn là do tác dụng của Thực tánh Chơn Duy thức. Sáu tác
dụng nầy khi mới xuất phát thì hoàn toàn thanh tịnh, nhưng đến khi chúng ra tới
sáu căn lại trở thành ô nhiễm: Mắt ô nhiễm sắc trần, Tai ô nhiễm thinh trần,
Mũi ô nhiễm hương trần, Lưỡi ô nhiễm vị trần, Thân ô nhiễm xúc trần, Ý ô nhiễm
pháp trần.
Căn với thức mà gặp sáu trần, chẳng khác nào con thơ
gặp cha mẹ, chúng đeo dính gỡ không ra.
Cách giữ cho được thanh tịnh
Cả hai nguồn gốc phát sanh tri giác (kiến văn giác
tri), hễ ở trong thì thanh tịnh, khi ra ngoài lại bất tịnh. Muốn được thanh
tịnh, hành giả chú ý đừng phân biệt các pháp ngoại duyên sáu trần. Đừng chấp có
ta hành động, đừng chấp có sự việc gì đang hành động... Không ta, không pháp,
không năng, không sở, thì không có phiền não chướng và sở tri chướng. Không nhị
chướng thì không nhị sanh tử, chứng nhị Chơn-như và nhị quả chuyển y Bồ-đề
Niết-bàn.
Câu chót của bài hỏi lần thứ hai, Phật dạy đừng chấp
pháp. Tại sao Phật không cần dạy phá chấp ngã? Bởi vì chấp pháp thì kẹt vào
chấp ngã. Phàm nói chấp thì phải có người chấp và đối tượng bị chấp. Người chấp
là nhơn ngã, vật bị chấp là pháp ngã. Hành giả phải nhớ:
Phân biệt các pháp ra,
Đừng tưởng nơi phân biệt.
Khéo phân rành các pháp,
Nghĩa thứ nhứt chẳng động.
*
TU HUỆ ĐỂ TRỢ DUYÊN TU CHỨNG
Trợ duyên tu chứng là một vấn đề khẩn trương, là một
điều kiện duy nhứt không thể bỏ qua được.
Vấn đề Nhân Quả mà hiểu ít quá, nó sẽ làm trì trệ cho
vấn đề tu chứng. Nhân quả là nói tắt, nói đủ là Nhân–Duyên–Quả. Nhân là nguyên
nhân sanh khởi. Ví dụ như hạt đậu là nguyên nhân sanh khởi ra cây đậu hay dây
đậu. Nhân cũng gọi là hạt giống dùng để gieo trồng. Muốn gieo trồng giống gì
phải có hạt giống đó.
Trong sự gieo trồng, Duyên là món quan trọng nhứt, quan
trọng còn hơn cả hạt giống. Tại vì Duyên bao hàm những thứ làm cho hạt giống
thành tựu được hoa quả. Không có Duyên, dù có Nhân cũng bất thành. Ví như đã có
hạt bắp làm giống, nhưng hạt bắp đó không đem gieo, không có đất, không có
nước, không có phân, không chăm sóc, thử hỏi hạt bắp có sanh kết quả được chăng?
Đối với thực vật còn như thế, huống hồ đối với tinh
thần. Ta tu pháp nào, lấy pháp đó làm chánh nhân (nguyên nhân chánh để sanh
thành), đồng thời lấy “Vô sở trụ tướng” làm trợ duyên.
Thêm một ví dụ khác, như ta tu pháp môn niệm Phật, lấy
sự niệm Phật làm chánh nhân. Chẳng phải chỉ có niệm Phật mà thôi, còn có các
pháp trợ duyên cho pháp môn niệm Phật nữa, như ăn chay, giữ giới, tu Phước, tu
Huệ, trì kinh, nghiên cứu kinh Đại thừa, học tập các khoá về Kinh giáo, v.v...
Đó, lý nghĩa trợ duyên là như vậy. Có nó thì chóng
thành tựu, không có nó thì không kết quả. Duyên quan trọng vô biên như vậy, nên
kinh luận cho nó là cái nhân thứ hai trong sự sanh thành, một điều kiện mà
tuyệt đối không bao giờ không có.
Chương III
TU HUỆ ĐỂ THAM THIỀN
Muốn tu tập tham thiền thì phải có trí huệ. Không có
trí huệ, lấy cái gì để tham cứu chơn lý. Đó là vô huệ bất thiền. Ngược lại, vô
thiền cũng bất huệ.
Vô thiền bất huệ, vô huệ bất thiền. Thiền với trí huệ,
tuy liên hệ mật thiết, nhưng còn hai món nữa cũng liên hệ mật thiết không nhỏ:
Một là kinh sách, hai là thầy bạn. Không có thầy chỉ điểm mê đồ, làm sao chóng
thành tựu, không có kinh điển cho thích nghi với trình độ, khế lý với sự tu
học, làm sao mở mang và sáng suốt trong vấn đề tu tập tham thiền.
Còn thêm một món liên hệ thứ ba nữa rất quan trọng,
quan trọng còn hơn thầy bạn và kinh sách. Thành công hay thất bại trong vấn đề
tham thiền, mau hay chậm là do sự thanh tịnh của mình. Không thanh tịnh thì
nhiễm ô, nhiễm ô thì vọng niệm tạp tưởng rối nùi, làm sao sáng suốt được, có
nghĩa là làm sao đạt huệ.
Người học Phật, vấn đề thanh tịnh đứng hàng đầu trong
sự tu hành. Không thanh tịnh, tu học cái gì cũng thất bại. Không thanh tịnh thì
vật dục trần gian tràn ngập tâm hồn, nó làm cho tâm mình hết sanh đến diệt, dứt
diệt hoàn lại sanh. Cái tâm sanh diệt nầy nó là chướng ngại, nó phá tâm pháp
đạo của chúng ta, tâm ta không yên lặng, ta học được cái gì?
Để giải trừ tâm tán loạn sanh diệt vô thường, hành giả
phải dùng câu niệm Phật một thời gian mới kềm chế được tâm loạn động. Đừng nghĩ
rằng: Ta đang học pháp môn nầy nọ, rồi xen vô niệm Phật, nó chỏi nhau. Không,
pháp môn niệm Phật chỉ giúp đỡ chớ không chướng ngại. Phải lúc niệm Phật thì cứ
niệm, phải lúc quán tưởng thì quán tưởng, niệm hay quán cũng đều có tác dụng
trừ tâm bất tịnh.
Về đề tài tham thiền, mỗi người tự mình chọn lựa trong
kinh, tuỳ câu nào khế hiệp với căn cơ của mình, chọn lấy mà tham. Nếu không tự
chọn được thì phải nhờ thầy bạn giới thiệu đề tài tham thiền. Chỉ có thầy bạn
mới biết được trình độ tu học của mình thôi.
Tham thiền không ngăn niệm Phật, niệm Phật không ngăn
tham thiền. Phải lúc niệm thì niệm, phải lúc tham thì tham, hai pháp môn cách
biệt nhau, đôi liên không gặp nhau, làm gì có sự trở ngại đối với nhau.
Tham thiền để làm gì? Nếu để diệt trừ phiền não, xin
cho can. Vì Phước Huệ Song Tu thuộc Đại thừa, không có vấn đề diệt trừ phiền
não. Phiền não mà tiêu diệt rồi thì Bồ-đề cũng không còn. Phiền não với Bồ-đề
tuy hai mà một, tuy một mà hai, rốt ráo phiền não với Bồ-đề chẳng khác nào sóng
với nước. Nếu sóng bị huỷ diệt thì nước cũng không còn.
Nếu như tham thiền để tìm hiểu chơn lý Đại thừa thì lâu
lắm mới có thành quả. Muốn mau có thành quả, hãy nhờ thầy bạn giảng nói, chóng
có hiệu quả hơn là tự mình tham cứu. Khi đã hiểu và ngộ phần nào chơn lý Đại thừa,
chừng đó tự mình tham thiền mới hiệu quả. Muốn tham cầu chơn lý nhanh chóng,
hãy lấy pháp môn không hai trong kinh Duy Ma để tham cứu. Chừng nào thông hiểu
phẩm Pháp môn không hai là khá lắm rồi: Phẩm đó là chơn lý rốt ráo của Đại
thừa.
Chương IV
TU HUỆ ĐỂ PHÁ TÂM PHÂN
BIỆT
Tâm phân biệt là vọng tâm chớ chẳng phải cái gì khác.
Nó là ý thức (thức thứ sáu) của chúng sanh. Duy Thức Học cho chúng ta biết
rằng, phân biệt là vọng, không phân biệt là chơn. Chính kinh Thủ Lăng Nghiêm
cũng nói rõ như thế. Phân biệt là khắc tinh của chơn lý vô phân biệt hay gọi là
chơn lý viên dung bình đẳng.
Duy Thức Học nói rằng Ý thức có cái biệt tài “phân biệt
thù thắng,” nó là khắc tinh của Vô phân biệt trí, tức Chơn-như căn bản trí. Đôi
liên khắc chế nhau, nhưng Chơn-như trí mạnh hơn vì nó sáng suốt vô cùng vô tận,
còn Ý thức phân biệt thì mê lầm, mê lầm thì tối tăm, làm sao hơn cái sáng suốt
nguồn gốc của tinh thần. Bản chất của Chơn-như căn bản trí là không hai, tức
không có đối lập phản đề, nghịch nghĩa như Ý thức. Đã là không hai, tức chẳng
phải một chẳng phải hai, làm gì có tương đối, làm gì có đối đầu tương phản
nghĩa lý. Quí vị nào muốn thông suốt pháp môn không hai, hãy học chơn lý viên
dung bình đẳng trong Tâm kinh. Tâm kinh cho chúng ta biết rằng: “Cái sắc chẳng
khác gì cái không, cái không chẳng khác gì cái sắc, cái sắc tức là cái không,
cái không tức là cái sắc; tâm thọ, tâm tưởng, tâm hành, tâm thức cũng y như
vậy.”
Phá tâm phân biệt không có nghĩa tiêu diệt Ý thức thứ
sáu, mà nó có nghĩa chuyển thức thành trí Vô phân biệt, cũng có thể nói nó bị
Chơn-như Vô phân biệt trí đồng hoá.
Trong sự chuyển thức thành trí, Duy Thức Học nói rằng:
“Chuyển năm thức đầu ra Trí thành sở tác, chuyển thức thứ sáu thành Trí diệu
quan sát, chuyển thức thứ bảy thành Trí bình đẳng, chuyển thức thứ tám thành
Đại viên cảnh trí.”
Trong sự tu hành, lợi hại nhứt là Ý thức thứ sáu, nó có
công năng mạnh nhứt, trong tám thức không có thức nào có năng lực bằng nó. Nó
muốn ai tu hành, không thức nào từ chối nổi, nó không muốn ai tu hành, không thức
nào ngăn cản được. Do đâu nó có công năng vượt bậc như thế? Do Tâm sở tuỳ thuộc
của nó rất đông, trùm hết các thức khác.
Tâm thức được gọi là Tâm vương, vì nó là chúa tể các
Tâm sở. Các Tâm sở dụ như bầy tôi của Tâm vương, Tâm vương sai khiến cái chi, toàn
thể Tâm sở tuỳ thuộc đều tuân hành không thể từ chối được. Chẳng khác nào khi
vua chúa hạ lệnh cho bầy tôi, bầy tôi không bao giờ dám chống đối. Tâm vương
hùng mạnh như vậy, làm sao không đủ oai quyền sai khiến bầy tôi?
Chuyện Tâm vương Tâm sở có khác nào chuyện tích đời xưa
có những ông vua giàu mạnh, vì quần thần rất đông và rất sẵn sàng tuân lệnh.
Trái lại ông vua nào nghèo nàn, quần thần ít ỏi, làm sao mạnh mẽ được. Tám thức
Tâm vương và các Tâm sở tuỳ thuộc cũng y như vậy.
Trong Đàn Kinh, Tổ Huệ Năng dạy người đã kiến tánh phải
áp dụng tánh “phân biệt mà không phân biệt” trong bốn oai nghi nhựt dụng thường
hành: “Phân biệt các pháp ra, đừng tưởng nơi phân biệt.” Trong lúc hành sự thì
phân biệt, nếu không phân biệt thì không hành sự được. Nhưng, trong chỗ hành sự
đó đừng tưởng niệm sự phân biệt. Lời nói nầy tuy dễ, nhưng chẳng phải ai cũng
làm được. Thói quen phân biệt của phàm phu đã bao nhiêu đời kiếp, kể từ kiếp vô
thỉ đến nay, một sớm một chiều làm sao tránh khỏi phân biệt. Nội một việc: Sau
khi hành sự, đừng nhắc đi nhắc lại, chuyện qua rồi thì thôi mà còn làm không
được, huống hồ đã phân biệt các pháp trong khi hành sự mà không có cái lòng
tưởng nghĩ đến sự phân biệt.
Ở đời, vạn sự khởi đầu nan, nhưng tập riết, rèn luyện
lâu năm rồi cũng thành công.
Chúng ta nên xét rằng: Hành động nào của tâm sanh vật
lý đều nối tiếp nhau có dây có nhợ. Như thế, nếu khởi công thi hành Phật sự hay
làm việc gì trong công tác sanh sống, bắt đầu đừng thấy có ta hành sự, kế đó
đừng chấp có sự việc gì đang, đã hành sự. Nếu còn thấy có ta hành sự, đó là còn
chấp ngã; còn thấy có việc gì để hành sự, đó là còn chấp pháp. Còn chấp ngã
chấp pháp là còn vọng khởi hoàn toàn. Chính chấp ngã chấp pháp là cái gốc phát
sanh vọng niệm tạp tưởng, vô ngã vô pháp trong khi hành động thì hoàn toàn
thanh tịnh vô nhiễm. Ví dụ đang ăn cơm, đừng chấp có ta ăn, là vô ngã ẩm thực,
đừng chấp có thực phẩm để ăn, đó là vô pháp ẩm thực. Ví dụ đang giặt đồ, đừng
chấp có ta giặt đồ, là vô ngã hành sự, đừng chấp có quần áo để giặt, đó là vô
pháp hành sự.
Nghe giảng Phật pháp, đừng chấp có ta nghe giảng Phật
pháp, đó là vô ngã nghe pháp, đừng chấp có Phật pháp đang nghe, đó là vô pháp
nghe giảng Phật pháp. Bất cứ hành động việc gì, đời hay đạo, đừng thấy có ta
hành động, đừng thấy có sự việc thực thi, đó là vô ngã vô pháp trong tất cả các
công tác. Được như vậy không cần học tập “phân biệt các pháp ra, đừng tưởng nơi
phân biệt.”
Khi giảng kinh Thủ Lăng Nghiêm, Ngài Tâm Minh có nói
rằng: “Trong sự công phu tu tập hay làm Phật sự, mình đừng chấp có ta làm, đừng
chấp có sự việc gì đang làm, đó là phương pháp khiến hành giả nhập vào Huệ giác
của Phật (lòng mình).”
Các trang trước, chúng tôi đã nói rằng: “Trong Phật sự,
trong công phu tu hành, trong lúc hành động sanh sống, nếu thoát ly được nhị
chấp ngã pháp thì thoát ly được phiền não chướng và sở tri chướng, chứng được
Sanh không chơn như và Pháp không chơn như. Chứng được nhị Chơn-như thì lìa
được nhị sanh tử (sanh tử phần đoạn và sanh tử biến dịch), đạt được hai quả
chuyển y Bồ-đề Niết-bàn.
Phá tâm phân biệt là trực tiếp phá gốc vọng tưởng.
Chính Ý thức thứ sáu là gốc vọng tưởng chớ chẳng phải cái gì khác. Trong kinh
Thủ Lăng Nghiêm, Phật dạy: “Nầy A-nan! Sở dĩ chúng sanh tu hành mãi mãi mà
không thành bậc Vô thượng Bồ-đề là tại không tỏ ngộ được hai nguồn gốc: Một là
nguồn gốc vọng tưởng vô thỉ sanh diệt vô thường, hai là nguồn gốc bất sanh bất
diệt Bồ-đề vô thỉ.” Hai nguồn gốc nầy sanh ra không biết từ thời kỳ nào, hễ có
thân là có chúng.
Nguồn gốc sanh diệt vô thường là cái gốc ngu si mê lầm
của vô minh. Nguồn gốc bất sanh bất diệt Bồ-đề Niết-bàn là Chơn tâm diệu minh
thường trú, cũng gọi Tự tánh thanh tịnh tâm, hay gọi Tự tánh thanh tịnh
Niết-bàn, và nhiều dị danh khác tuỳ theo mỗi kinh, mỗi pháp môn.
Hành giả phải hiểu ngộ hai nguồn gốc nầy là một hay là
khác mới có thể tu học Đại thừa, mới có thể thành tựu quả vị Vô thượng Bồ-đề.
Bằng không, dù tu vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp cũng không thành Phật được.
Hai nguồn gốc nầy chẳng khác nào như nước với sóng.
Ngoài sóng không có nước, ngoài nước không có sóng, sóng tức là nước, vọng
tưởng tức Chơn-như, phiền não tức Bồ-đề, chúng sanh tức Phật.
Hiểu ngộ được hai nguồn gốc, hành giả không còn cái tâm
tiêu diệt phiền não để cầu Bồ-đề. Vì phiền não một khi tiêu diệt rồi, Bồ-đề
cũng mất luôn. Đó là cái lẽ diệt sóng thì không còn nước. Huỷ diệt chất chua
chát trong trái xoài thì chất ngọt bùi mất luôn. Như thế thì biết rằng: “Pháp
tánh và pháp tướng cũng đều là Chơn-như không hơn không kém. Hiện tượng
(phénomène) hay bản thể (substance) chỉ là một, vì tánh với tướng đồng như nhau
vô sai biệt.
Hành giả không phá tâm phân biệt, cứ lo tiêu trừ pháp
tướng vọng tưởng, làm trở ngại Chơn-như trong vấn đề tu chứng. Đối với pháp
tướng cũng như đối với hiện tượng, mình hiểu rõ vọng thì vọng tức chơn, hiểu rõ
chúng sanh thì chúng sanh tức Phật. Trái lại, nếu chấp chơn, thì chơn tức vọng,
chấp Phật thì Phật tức chúng sanh. Tỏ ngộ thì được lợi to tát như thế, còn phân
biệt chấp trước thì chính mình làm hại lấy mình, chớ không ai vào đây hại mình
cả.
Hành giả nào tỏ ngộ được hai nguồn gốc như kinh Thủ
Lăng Nghiêm đã nói, hành giả đó đánh dẹp được sự phân biệt tận nguồn gốc. Như
thế tu Huệ để phá tâm phân biệt, sẽ đi sâu vào tận nguồn gốc các pháp.
Chương V
TU HUỆ ĐỂ TRÌ GIỚI
Song tu Phước Huệ mà không chú trọng vào vấn đề trì
giới là hỏng. Giới luật là căn bản của sự tu học Phật pháp. Bỏ căn bản mà tu
cái gì khác, đó là lấy ngọn bỏ gốc. Gốc đã bỏ rồi, dù tu vô lượng pháp môn cũng
không thành cái chi cả.
Làm dân một nước, phải thông về pháp luật, làm Phật tử
phải am tường về giới luật. Giới luật không thông, như xe thuyền không lái,
muốn lủi vào đâu cũng được, không có cái gì kềm chế, không có cái gì chỉ đạo.
Không có trí huệ, tức không có cái gì chỉ đường ngay lẽ
phải cho người tu hành noi theo để tránh sa hầm sụp hố. Không có trí huệ hướng
dẫn, thì sự trì giới không trọn vẹn. Trí huệ là cây đuốc quang minh dẫn đường
cho người trì giới hành cước một cách an toàn, như người đi đêm có đuốc sáng,
như người lạc vào rừng sâu có địa bàn, tánh mạng được bảo đảm. Trí huệ là sự
sáng suốt, nó thấy tất cả, nó biết tất cả, nó lèo lái cho người trì giới thông
hiểu cái nào tà nên tránh, cái nào chánh nên làm, cái nào ô nhiễm không nên
phạm, cái nào có phước có tội, cái nào chánh kiến, cái nào tà kiến, thảy đều
không lầm lẫn.
Không tu Huệ để hướng dẫn trì giới cho được vẹn toàn,
thì chẳng khác nào người học đạo bằng cái tâm si mê vậy.
Giới luật của người tu Đại thừa là dựa trên nền tảng
Tam tụ Lục hoà.
TAM TỤ
Tam tụ là nói tắt, nói đủ chữ
là Tam tụ tịnh giới, tức ba giới thanh tịnh thâu nhiếp hết thảy các giới
của Đại thừa.
1. Nhiếp luật nghi giới:
Nghĩa là tuỳ theo nhơn địa của mình mà giữ tròn giới thể. Nói về giới tánh, thì
Nhiếp luật nghi giới chính là Chư ác mạc tác (các pháp ác dữ chớ làm).
2. Nhiếp thiện pháp giới: Nghĩa
là giới thâu nhiếp tất cả những pháp lành, những pháp môn tu học trong Phật
đạo. Nhiếp thiện pháp giới chính là Chúng thiện phụng hành (vâng làm cả
thảy các pháp lành).
3. Nhiêu ích hữu tình giới:
Nghĩa là, khi đã giữ luật nghi, hành thiện pháp, người tu học Đại thừa nên lấy
lòng Từ-bi mà làm chuyện lợi ích và cứu độ cho cả thảy chúng sanh. Do nghĩa
nầy, giới thứ ba cũng được gọi là Phổ cứu nhứt thiết chúng sanh, tức là
ý nghĩa thực sự của hai chữ Bồ-tát vậy.
LỤC HOÀ
Lục hoà tức là sáu điều hoà đồng
ái kính. Người tu hành, bên ngoài đối với điều lành của người thì hoà thuận,
bên trong thì tự mình kính cẩn khiêm nhường.
1. Giới hoà đồng tu: Người Phật tử đều
cùng chung giới luật nhà Phật, nên phải hoà thuận nhau, tôn trọng nhau.
2. Kiến hoà đồng giải:
Người Phật tử nếu hoà hợp cùng một chỗ thấy thì mới cùng nhau giảng luận cho
thông giáo lý.
3. Lợi hoà đồng quân: Trong công việc
thì cùng chung lo chung làm, về vật dụng thì cùng chia sẻ đồng đều.
4. Thân hoà đồng trụ: Trong chỗ đông
người cùng tu học, nên cùng nhau giữ hoà thuận, kính nhường trong từng oai
nghi.
5. Khẩu hoà vô tranh: Trong chỗ đông
người, cần phải nhường nhịn nhau lời ăn tiếng nói, không tranh đua cãi lẫy.
6. Ý hoà đồng duyệt: Điều quan trọng
nhứt trong lục hoà, là phải hoà thuận ngay từ trong ý của mình, mới có thể cùng
nhau xem xét mọi công việc.
Chương VI
TU HUỆ ĐỂ PHÁ NHỊ CHẤP
NGÃ, PHÁP
— Tại sao tu theo Phật pháp mà lại phải tu tập phá ngã
chấp và pháp chấp?
— Bởi vì chấp ngã, chấp pháp là hai cái gốc khổng lồ
phát khởi ra phiền não chướng (do chấp ngã) và sở tri chướng (do chấp pháp).
Hai thứ chướng ngại nầy, ai muốn thanh tịnh mà không trừ khử nó, quyết không
bao giờ thanh tịnh được.
Đạo Phật là đạo thanh tịnh, ta tu theo Phật pháp mà tâm
không thanh tịnh, dù tu ngàn đời muôn kiếp cũng không chứng quả. Không thanh
tịnh thì ô nhiễm vật dục trần gian, ô nhiễm vật dục trần gian thì làm sao mà tu
hành cho được.
Đối với Đại thừa, ta muốn thành công nhanh chóng thì
phải tu từ gốc, đừng tu nơi ngọn. Thể theo Đông phương y lý, trừ bệnh phải trừ
nơi gốc. Về sự tu hành theo Phật pháp cũng thế, trừ tâm bệnh thì tìm gốc mà
trừ, đừng trừ ở ngọn. Ví dụ như phiền não chẳng hạn, do chấp ngã mà có tám vạn
bốn ngàn trần lao. Cái gốc là do chấp ngã, đâu phải do một vài thói xấu tật hư
mà trừ thói xấu tật hư? Như thế, chẳng những không trừ hết phiền não, mà phiền
não lại tăng gia thêm nhiều hơn, đúng như kinh điển nói: “Dục trừ phiền não
trùng tăng bệnh, siêu khởi chơn-như tổng thị tà.”
Muốn ăn ong, phải ăn nguyên ổ, chọc phá vài con, cả ổ
ong bay túa ra ra đánh chết người ăn ong. Cũng như thế, mình trừ phiền não,
phải nhắm ngay cái gốc mà trừ, đừng chọc phá với phiền não mà mang hại... Bỏ
cái tâm chấp ngã đi, thì vô lương phiền não đều thành không.
Đối với sự tu tập phá trừ tâm chấp trước các pháp cũng
thế. Đây là cái gốc phát sanh vô lượng vô biên sở tri chướng (chướng ngại do
chấp pháp). Cái chướng nầy còn nguy hiểm hơn phiền não chướng gấp trăm phần.
Phiền não chướng chỉ có tám vạn bốn ngàn thôi, còn sở tri chướng có cả triệu cả
ức điều mê nhiễm. Nếu chỉ lo khu trừ từng cái mê nhiễm, e cả tỷ kiếp a-tăng-kỳ
cũng không hết bệnh ô nhiễm vật dục trần gian. Xả bỏ cái tâm chấp pháp đi, vô
lượng nhiễm ô không trừ cũng dứt.
Muốn hạ ngọn phải đốn gốc, không chịu đốn gốc, chỉ lo
cắt nhánh sửa cành, muôn kiếp cũng không thành công.
Ngã với pháp vốn liên lập, dính mắc một cái, cả hai
đồng dính mắc. Ở đâu có ngã, ở đó có pháp; ở đâu có pháp, ở đó có ngã.
Hỏi: Ngã là cái gì mà nói
rằng nhơn vô ngã, pháp vô ngã?
Đáp: Ngã là tiếng Hán–Việt,
có nghĩa là ta (moi), là tôi. Đó là
một từ mượn nó để xưng hô với người nào mình đang đối thoại. Ngã là một
từ rỗng trống, nó không có thực thể, không có một cơ năng sống động, nhiều
người không hiểu như vậy, lại chấp thân nầy là ta, là tôi, chấp cái ta chơn
thật nằm trong thân nầy, nằm trong tâm nầy, chấp nó là chủ tể hằng còn không
sanh không diệt.
Đối thoại với các phái ngoại đạo bàn về ngã, Đức Từ phụ
Bổn sư Thích Ca tuyên bố là vô ngã: “Không có cái ta thường hằng bất biến bất
sanh bất diệt, các ông hãy tu tập vô ngã.”
Tại sao Đức Thế Tôn tuyên bố như thế? Bởi vì cái ngã mà
ngoại đạo chấp trước đó, đâu phải là chơn ngã. Đến lúc Phật sắp dạy chơn ngã,
các thầy tỳ kheo bạch rằng:
— Bạch Thế Tôn! Trước kia Phật đã tuyên bố với ngoại
đạo rằng không có cái ngã. Hôm nay lý do gì Phật lại đem cái ngã ra dạy các
hàng tỳ kheo?
— Nầy các vị tỳ kheo! Trước kia sở dĩ Như Lai tuyên bố
vô ngã, là vì các phái ngoại đạo họ chấp cái giả ngã, nên Ta mới nói không có
ngã. Hàng tỳ kheo nghe Ta nói vô ngã, họ tin theo và tu tập vô ngã. Nay Ta dạy
về chơn ngã, các vị muốn tu tiến thì phải biết xả bỏ pháp ấy, không tu tập vô
ngã nữa. Nếu hoàn toàn vô ngã, là pháp đoạn diệt, mất luôn chơn ngã, đại ngã.
Chơn ngã, đại ngã là gì? Đó là Chơn tâm, Phật tánh, Như Lai tánh, ...
Vì lý do trên đây, trong sự phá ngã là phá cái
tâm chấp trước tự ngã, chớ chẳng phải huỷ diệt cái giả ngã. Nếu giả ngã bị huỷ
diệt thì chơn ngã, đại ngã cũng không còn.
(Đại ý một đoạn
trong kinh Đại Bát Niết Bàn)
Hôm nay, chính giả ngã là chơn ngã, chớ chẳng phải cái
ngã nào khác vào đó. Đó cũng là cái lý “Phiền não tức Bồ-đề, Sanh tử tức
Niết-bàn, chúng sanh tức Phật, v.v...” Đó là chơn lý Đại thừa. Chơn lý nầy chỉ
cần song tu, tu một lượt phá chấp ngã và phá chấp pháp. Hai cái phá chấp nầy
thành công rồi thì phiền não chướng và sở tri chướng trở thành Sanh không
Chơn-như và Pháp không Chơn-như, hành giả lìa được hai thứ sanh tử (sanh tử
phần đoạn và sanh tử biến dịch của các thánh về Tiệm giáo).
Trong sự tu tập để phá chấp ngã và chấp pháp, tôi xin
trình bày một phương pháp chưa từng có, mà nó hữu hiệu chóng hơn toạ thiền quán
vô ngã vô pháp. Ví dụ, quí vị đang nghe giảng giải Phật pháp, quí vị đừng chấp
có ta đang nghe Phật pháp. Đó là vô ngã nghe pháp. Quí vị cũng đừng chấp có
Phật pháp đang nghe, đó là vô pháp thính pháp.
Ví dụ, quí vị đang lạy Phật, quí vị đừng chấp có ta
đang lạy Phật, đó là vô ngã bái Phật; quí vị cũng đừng chấp có ông Phật sở bái
(ông Phật để ta bái), đó là vô pháp bái Phật.
Ví dụ, quí vị đang giặt quần áo, quí vị đừng chấp có ta
giặt, đừng chấp có quần áo đang giặt, đó là vô ngã, vô pháp giặt quần áo.
Trong bốn oai nghi, bất luận đi đâu, bất cứ làm gì, hãy
xả bỏ cái ta, cái pháp. Đây là xả bỏ cái tâm chấp ngã chấp pháp, chớ chẳng phải
tiêu diệt ngã pháp.
Hành trình tu tập sau khi dùng tâm Vô sở đắc để
phát tâm Bồ-đề,* chỉ có hai cửa ải khó vượt qua. Đó là cửa ải chấp ngã,
mệnh danh là phiền não chướng, và cửa ải chấp pháp, mệnh danh là Sở tri chướng.
Vượt khỏi hai chướng nầy là sự thành Phật nắm chắc trong tay.
Tu Huệ để phá nhị chấp là như vậy. Để chứng minh ngã
pháp không thật có, tôi xin trích lục hai pháp mà Phật dạy vô ngã, vô pháp
trong kinh Kim Cang.
* Xin xem lại chương II phần tu Huệ.
Trong kinh Kim Cang, Phật nói: “Không có chút pháp chi gọi là phát tâm Bồ-đề,” để
nói lên cái lý vô sở đắc của cả thảy pháp. Do đó, người muốn phát tâm Bồ-đề
chân thật, phải tỏ ngộ được lý vô sở đắc và dùng tâm vô sở đắc để phát tâm chân
thật.
PHẬT DẠY PHÁ BỐN TƯỚNG
.
. . . . .
—
Nầy Tu-bồ-đề, nếu có người cho rằng “Phật cũng nói bốn tướng ngã, nhơn, chúng
sanh, thọ giả,” thì người nầy có hiểu được nghĩa của Như Lai nói chăng?
—
Bạch Thế Tôn, người nầy không hiểu được nghĩa của Như Lai nói. Tại sao vậy? Vì
Như Lai nói bốn tướng ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả, nhưng không phải thật có
bốn tướng, chỉ giả gọi là bốn tướng ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả mà thôi.
Trên đây là Phật phá cái chấp trước của phàm phu đối
với nhơn loại quần sanh. Nhơn loại chấp có tự ngã, đó là lầm tưởng thật có cái
ta nằm trong thân nầy, tâm nầy; vì phàm phu cho thân nầy, tâm nầy là tự ngã.
Nhưng thân tâm của ngũ uẩn là vật sanh diệt vô thường, nó đâu phải thường hằng
bất biến bất sanh bất diệt như Chơn tâm, Phật tánh mà gọi nó là ngã. Phàm nói
ngã (chơn ngã, đại ngã) phải biết nó là một lý thể tự hữu hằng hữu, bất sanh
bất diệt thường trú, vừa là chủ tể, vừa là tự tại vô ngại, có quyền sắp xếp mọi
việc, mới được gọi là ngã. Đàng nầy, nó chỉ có cái danh xưng là ngã, cái ngã
rỗng tuếch, không có gì là tự thể, thì làm sao là một thực thể đủ tư cách
Chơn-như được.
Phật cho bốn tướng là huyễn hoá, không chơn thật, không
thật hữu. Tướng ngã là do lầm nhận mà hình thành. Tướng nhơn cũng không thật
có, tướng chúng sanh cũng do lầm chấp, tướng tuổi thọ cũng không phải là một
thật thể bất biến.
PHẬT PHÁ CHẤP PHÁP
.
. . . . .
—
Nầy Tu-bồ-đề, người phát tâm Bồ-đề chẳng nên chấp các pháp là thật có, mà phải
thấy các pháp là giả, biết các pháp là giả, hiểu các pháp là giả và tin các
pháp là giả.
Tu-bồ-đề,
Như Lai nói các pháp không thật có, các pháp chỉ giả gọi là các pháp.
Hỏi: Lý do nào đoạn kinh văn
trên đây phủ nhận các pháp, cho các pháp là không thật có.
Đáp: Sở dĩ nói rằng các pháp
không thật có, là tại các pháp có sanh, có diệt, lúc còn lúc mất, lúc có lúc
không, không được thường trụ bất biến bất sanh bất diệt.
Vi trần và thế giới, chẳng qua hợp với tan, tan với hợp
hình thành; duyên hợp thì còn, duyên ly tán thì thành không, đâu có cái thực
thể nào bất sanh bất diệt mà chấp rằng các pháp là thật có. Pháp là chỉ cho
muôn sự muôn vật, nó hiệp tan tan hiệp, nói nó là có, là không, sai tận gốc.
Chương VII
TU HUỆ ĐỂ PHÁ CHẤP HÌNH
DANH SẮC TƯỚNG
Hỏi: Hình danh sắc tướng là
cái gì?
Đáp: Hình là hình
tướng các vật. Danh là tên các vật, như tên cái bàn, cái ghế... Sắc
là sự hiện-hữu-hoá cái có (vật hữu) trong vũ trụ. Tướng là hình thái, là
tướng trạng.
Hình danh sắc tướng là chỉ cho vạn
vật có tên, có tướng trạng, có hình hài, có màu sắc để thể hiện ra một vật gì,
tên gì, ta nhìn qua liền biết rõ. Nó là sáu món trần cảnh chớ chẳng phải cái gì
khác (Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp). Chúng là đối tượng của sáu căn và sáu
thức. Nó có tên là ngoại lục nhập, sáu căn gọi là nội lục nhập. Kinh luận khác
gọi sáu trần là “lục tặc” (kẻ cướp). Lục tặc thừa lúc lục căn bỏ ngỏ, chúng đột
nhập vào nhà ta (sắc thân) để cướp tài sản, để mê hoặc tâm ta, xúi giục ta làm
bậy, nói bậy, tưởng bậy. Do đó mà ba nghiệp không được thanh tịnh.
Tu theo Đại thừa mà ba nghiệp không thanh tịnh, thì cái
hành nghiệp của nó còn xấu xa hơn làm bất cứ cái gì khác.
Ngài Cảo Thiền-sư ngộ được câu: “Lìa tất cả các vọng
chấp mới là chư Phật,” bèn làm hai bài kệ:
Thân, khẩu, ý thanh tịnh
Đó là Phật xuất thế
Thân, khẩu, ý bất tịnh
Đó là Phật nhập diệt.
*
Tức tâm là Phật, Phật tại tâm
Kẻ mê rong ruổi ngoại tâm cầu
Nhứt niệm giác ngộ về đến Phật
Dễ như rửa cẳng bước lên thuyền.
Theo thiển kiến của tôi, người tu hành không nên đổ lỗi
tại cảnh (lục trần, ngoại lục nhập) quyến rũ nên sáu căn bỏ ngỏ để lục trần tự
do đột nhập vào thân tâm thao túng. Nội lục nhập là sáu căn bằng xương bằng
thịt thuần tuý không tri giác, làm gì biết hấp dẫn mà bỏ ngỏ để cho ngoại lục
nhập xâm chiếm nhà ngũ uẩn? Kinh Thủ Lăng Nghiêm cho chúng ta biết rằng: “Nói
căn là nói thức (cái biết phân biệt của các tâm vương), ngoại trừ năm thức đầu
chỉ là cảm giác thuần tuý không biết phân biệt, làm sao biết say mê lục trần,*
để cho lục trần (ngoại lục nhập) làm thân tâm (nội lục nhập) điên đảo?”
* Ở sát-na thứ hai, năm thức đầu mới biết
khởi vọng tưởng là do ý thức thứ sáu xúi giục.
Kinh Thủ Lăng Nghiêm cảnh giác chúng ta, bảo đừng đổ
lỗi cho lục căn mà phải xét đến lục thức là sáu món thường say mê cảnh vật trần
duyên, khiến thân ngũ uẩn phải điên đảo trong cảnh khổ trần ai.
Chúng ta nên biết rằng, lục căn (mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân, ý) muốn hưởng lạc thú hồng trần, nó chỉ đeo theo lục trần (ngoại lục
nhập) chớ tuyệt đối không thể đeo theo vật gì khác được.
Người tu học Đại thừa hiểu như vậy rồi, phải làm cách
nào để cho sáu căn (thân tâm) mình được thanh tịnh, không còn dính mắc vào hình
danh sắc tướng để khỏi bị ô nhiễm? Thân căn mà gặp xúc trần, vấn đề ôm ấp mê ly
làm sao tránh khỏi đây? Chỉ có một cách duy nhứt, là làm cách nào cho Ý thức
thứ sáu được thanh tịnh, thì toàn 6 căn, sáu thức, sáu trần đều thanh tịnh. Có
nghĩa là 6 căn, nội lục nhập và ngoại lục nhập đều trong sạch vô nhiễm. Ở
trường hợp nầy, hành giả phải tỏ ngộ tâm Chơn-như (Phật tánh) của mình có ô
nhiễm như sáu căn, sáu trần, sáu thức chăng?
Kinh luận Đại thừa đều nói rằng: “Chơn-như tuy thường
tuỳ duyên sanh diệt mà vẫn như như bất biến. Tuy như như bất biến mà vẫn thường
tuỳ duyên sanh diệt.” Bản chất của Chơn-như là tuyệt đối, là không hai, chẳng
phải chơn hay vọng; chẳng phải ô nhiễm hay thanh tịnh, v.v... Chơn tâm, Phật
tánh của ta như vậy, ta còn sợ gì mà cho rằng ta ô nhiễm bất tịnh, sợ tu không
thành? Chơn-như chẳng những không ô nhiễm mà cũng không thanh tịnh, tại sao ta
đòi hỏi thân tâm ta tu hành thanh tịnh? Đòi tịnh tu, là ta hiểu lầm kinh điển
ngoại đạo,* hay bị tư tưởng nhị nguyên biên kiến dối gạt?
* Ngoại đạo Ấn Độ thời Đức Phật Thích Ca
chỉ có chơn lý tương đối, không có chơn lý tuyệt đối.
Còn tu học pháp tương đối, là còn chấp nhận Chơn-như có
tịnh, có nhiễm. Chơn-như vốn tuyệt đối, làm gì có sanh có diệt, làm gì có tà có
chánh, có chơn có vọng?
Tuy nhiên, nếu chấp Chơn-như là tuyệt đối còn hại hơn
chấp Chơn-như là tương đối. Tại sao vậy? Tại vì có tuyệt đối thì có tương đối,
có đối đãi trở lại.
PHÁ ĐƯỢC HÌNH DANH SẮC TƯỚNG CHĂNG?
Hỏi: Muốn chứng đạt thanh
tịnh mà tàn phá hình danh sắc tướng (ngoại lục nhập) có thể được chăng?
Đáp: Đó là cái muốn của kẻ
điên. Vạn hữu trong vũ trụ nầy bộ ít ỏi lắm sao mà đòi tàn phá? Phá hết vạn
hữu, làm sao nhơn loại tồn tại? Vạn hữu vũ trụ không còn, thì nhơn loại quần
sanh cũng không còn.
Ngoài vấn đề “Chơn-như tuỳ duyên,” tôi còn nhớ một câu
nói trong các khế kinh như vầy: “Các pháp vốn tịch diệt.” Các pháp (ngoại lục
nhập) đã vắng lặng, tại sao ta đổ lỗi nó đột nhập vào các căn để cướp phá tài
sản?
Các pháp vốn là Chơn-như chớ chẳng phải cái gì khác.
Nếu các pháp là Chơn-như thì không bao giờ huỷ diệt được. Nước ví như Chơn-như,
sóng ví như các pháp. Ngoài Chơn-như không có các pháp, ngoài các pháp không có
Chơn-như. Huỷ diệt sóng thì nước không còn. Cũng như thế, huỷ diệt các pháp tức
là huỷ diệt Chơn-như không hơn không kém.
Chơn-như là pháp tánh, các pháp là pháp tướng. Tánh
tướng đồng như nhau, làm sao thủ tiêu được? Cũng như chất chua chát của xoài,
nếu huỷ diệt chất chua chát thì chất ngọt bùi cũng mất luôn.
Như thế là không thể diệt hình danh sắc tướng được. Vậy
cần phải có một giải pháp khác để thanh tịnh hoá ngoại lục nhập.
Bây giờ tôi lấy năm pháp trong kinh Lăng Già Tâm Ấn ra
giải quyết, để người tu hành có thể thoát khỏi trận mê đồ của hình danh sắc
tướng. Chỉ có nhứt tâm thanh tịnh thôi, mà trận mê đồ khủng khiếp của hình danh
sắc tướng phải tan rã.
NĂM PHÁP TRONG KINH LĂNG GIÀ
Trong kinh nầy nói năm pháp là Danh, Tướng, Vọng
tưởng, Chánh trí, Như như.
Danh là tên của một pháp. Ví
dụ như tên cái nhà, cái bàn, cái ghế,... Người đời đặt tên các pháp để phân
biệt món nầy với món kia. Ta kêu tên một vật gì, ta liền biết vật đó xuyên qua
hình dáng và tác dụng. Ta gọi cây dù, ta biết hình dáng của nó, ta biết nó dùng
để làm gì không hề sai. Do Danh mà thông đạt được hình tướng của cây dù. Kế đó
ta thông suốt Danh là giả danh, vì cây dù không tự đặt mình tên đó, chỉ do
người đời tạm đặt ra thôi. Thế thì cây dù là một giả danh, nó chẳng phải chơn
danh chơn nghĩa. Bởi vì, nhìn qua các bộ phận trong cây dù, không có bộ phận
nào tên dù cả. Như thế, “dù” há chẳng phải là một giả danh ư?
Cũng như cái “nhà” là một giả danh, một cưỡng danh, vì
các món dựng lập ra cái nhà không có món nào tên nhà. Gộp các món không phải
nhà ấy rồi đặt tên cái nhà. Như thế, nhà là một giả danh, một từ rỗng tuếch.
Đến đây, chúng ta thấy các pháp không có thật danh,
không có thật tướng, chỉ toàn là vọng tưởng.
Vượt qua ba pháp Danh, Tướng, Vọng tưởng, đừng mê chấp,
hành giả đạt được Chánh trí và Như như. Song Chánh trí và Như như
cũng không thật, cũng là giả danh hay cưỡng danh thôi. Tỏ lý năm pháp trong
kinh Lăng Già Tâm Ấn, sẽ hướng dẫn hành giả thoát ly giả danh, giả tướng bao
vây.
Thêm một pháp nữa: Trong kinh Lăng Già và trong Duy
Thức Học có nói về Ba Tự Tánh, có thể hướng dẫn hành giả khỏi sa vào trận đồ
hình danh sắc tướng.
BA TỰ TÁNH TRONG KINH LĂNG GIÀ
VÀ TRONG DUY THỨC HỌC
1. Biến kế sở chấp tự tánh
là Vọng tưởng chấp trước đối với Y tha khởi tự tánh.
2. Y tha khởi tự tánh:
là các pháp trần, là đối tượng bị chấp trước. Đây là tâm với cảnh. Biến kế là
tâm, Y tha là cảnh sở duyên, nó là ngoại lục nhập, là hình danh sắc tướng.
3. Viên thành thật tự tánh:
là Chơn-như. Khi ta đứng trước Y tha khởi, tánh biến kế của ta lúc đó thanh
tịnh không chấp trước đối tượng sở duyên. Khi ấy, Y tha khởi chính là
Chơn-như chớ chẳng phải hình danh sắc tướng phá rối nội lục nhập.
Không thể tàn phá nội lục nhập, vì nó là pháp tướng vốn
tịch diệt. Nếu tàn phá Y tha khởi (hình danh sắc tướng) thì Chơn-như cũng không
còn. Y tha khởi ví như sóng. Viên thành thật ví như nước. Nếu sóng (Y tha khởi)
bị huỷ diệt, thì nước (Viên thành thật) cũng không còn.
Trên đây là lấy tâm thanh tịnh để hoá giải hình danh
sắc tướng, khiến cho cả hai đều thanh tịnh vô nhiễm.
Đến đây, chúng ta thấy các pháp ngoại duyên trần cảnh
(ngoại lục nhập) nó thanh tịnh hay bất tịnh đều do hành giả. Người đời vác tiền
đi hưởng lạc, nào ăn uống, nào sắc dục, v.v... đó là tại cảnh hay tại tâm?
Chính mình vác tiền đi mua vui mà lại đổ lỗi cho lục trần nó hấp dẫn mình. Đổ
lỗi như thế là trốn trách nhiệm, không chịu thừa nhận hành vi si dại mê nhiễm
của chính mình gây tạo.
Hai bài giảng về vô ngã vô pháp (xem chương trước, chỗ
trích dẫn kinh văn), Đức Thế Tôn chỉ tuyên bố xác nhận không thật có ngã, có
pháp chớ không giảng giải lý nghĩa vì sao không thật có ngã, có pháp.
Vì sao không thật có ngã, có pháp? Chúng tôi chỉ tìm
hiểu và viết ra phần nào thôi, phần còn lại là thuộc về người học đạo tự tìm
hiểu lấy.
(Xin xem tiếp quyển 2)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét