TỊNH ĐỘ CƯ SĨ PHẬT HỘI VIỆT NAM
PHÁP BỬU ĐÀN KINH
BIÊN GIẢNG
(Quyển một)
Môn nhân Pháp Hải đời Đường ghi chép
Đại sư Khế Tung biên tập, 1291
Cư sĩ Như Pháp biên giảng, 1991
PHẨM THỨ NHẤT
NÓI
VỀ HÀNH TRẠNG CĂN DO
1.
Thuở ấy, đại sư Lục Tổ Huệ Năng đi đến chùa Bửu Lâm mà trụ trì. Quan Thứ sử
Thiều Châu họ Vi tên Cừ hay đặng, bèn hiệp với các quan liêu, vô chùa Bửu Lâm
thỉnh đại sư vào châu thành, lại chùa Đại Phạm, lên diễn đàn thuyết pháp cho
đại chúng nghe.
2.
Đại sư lên pháp toà. Vi Thứ sử và các quan liêu trên ba chục người. Những người
giềng giống Nho học và các học viên trên ba mươi người. Cả thảy cùng nhau làm
lễ và yêu cầu Đại sư giảng nghe nghĩa lý cốt yếu của Phật pháp.
3.
Đại sư nói rằng: Này các ông thiện tri thức! Bồ đề là tánh cội gốc của mình,
vốn nó thật trong sạch (thanh tịnh). Nếu người tu hành nào biết dụng cái tâm bồ
đề ấy, thì sẽ được thành Phật chẳng sai.
4. Này các ông
thiện tri thức! Các ông hãy lóng nghe nguyên do sự tích của Huệ Năng này và
nghe ý nghĩa chỗ mà tôi đắc pháp.[1]
5. Nguyên, thân phụ
của Huệ Năng này xứ sở tại Phạm Dương. Ông đang làm quan kế bị mất chức, phải
bị đày qua huyện Tân Châu thuộc xứ Lãnh Nam làm người bá tánh.
6. Thân của Huệ
Năng này sanh ra đời, gặp việc chẳng may như vậy, thế mà chẳng bao lâu cha lại
mất sớm, chỉ còn một mẹ già goá bụa, đành rời bỏ Tân Châu, dời qua Nam Hải. Tại
đây, vì nghèo nàn thiếu thốn, nên Huệ Năng này phải cam chịu cực khổ, hằng ngày
đốn củi, gánh đi bán ở chợ đặng nuôi mẹ.
7. Thuở ấy có một
người khách mua củi và buộc tôi phải gánh ngay lại tiệm của y. Sau khi cất củi
xong, tôi vừa lấy tiền bước ra ngoài cửa, bèn thấy một người đang đọc kinh.
8. Huệ Năng này
chợt nghe lời kinh, bỗng nhiên mở tỏ, bèn hỏi ông ấy rằng: “Ông đọc kinh chi
vậy?”
9. Người ấy đáp:
“Kinh Kim Cang.”
10. Huệ Năng này
lại hỏi nữa rằng: “Ông ở đâu đi lại đây đọc kinh như vậy?”
11. Ông ấy đáp:
“Tôi ở chùa Đông Thiền, phủ Kỳ Châu, huyện Huỳnh Mai lại đây. Chùa ấy của Tổ sư
thứ năm là Hoằng Nhẫn Đại sư. Ngài là một vị thầy cả đang giáo hoá tại đó, đệ
tử của Ngài hơn ngàn người.”
12. “Tôi thường tới
chùa ấy lễ bái và nghe giảng kinh. Tôi vâng lời Ngài mà đọc kinh này. Ngũ Tổ
thường khuyên kẻ xuất gia và người tại gia cư sĩ, nên thọ trì kinh Kim Cang,
tức nhiên mình sẽ được thấy tánh thành Phật chẳng sai.”
13. Huệ Năng này
nghe nói như vậy, mới biết kiếp trước mình có duyên với Phật pháp. Lại nhờ ơn
ông ấy tặng cho mười lạng bạc, để cấp dưỡng sự ăn mặc của mẹ già và dặn dò bảo
phải đi qua huyện Huỳnh Mai, ra mắt Ngũ Tổ mà thọ giáo.
14. Huệ Năng này
sắp đặt cho mẹ già chu tất, bèn từ giã ra đi. Trải qua ba chục ngày đi bộ, mới
tới huyện Huỳnh Mai. Khi tới nơi, tôi bèn ra mắt Ngũ Tổ.
15. Tổ sư hỏi rằng:
“Người ở xứ nào? Đến đây có việc chi?”
16. Năng này đáp:
“Bạch Đại sư, đệ tử là thường dân ở Tân Châu, xứ Lãnh Nam. Đệ tử từ phương xa
lặn lội đến đây, xin đảnh lễ Đại sư, mục đích của đệ tử chỉ cầu làm Phật, chớ
không cầu việc chi khác.”
17. Tổ sư nói rằng:
“Ông là người xứ Lãnh Nam, lại là dân mọi, há có thể kham làm Phật được sao?”
18. Năng này đáp:
“Bạch Hoà thượng! Con người tuy phân biệt kẻ Nam người Bắc, nhưng mà Phật tánh
vốn bình đẳng, không có Nam Bắc. Tấm thân mọi này tuy đối với Hoà thượng chẳng
đồng, chớ Phật tánh vẫn đồng, đâu có gì sai khác.”
19. Ngũ Tổ còn muốn
chuyện vãn với Năng này một hồi nữa, nhưng vì đệ tử của Ngài lần lượt hội họp
hai bên tả hữu đang chờ nghe pháp. Ngài thấy vậy, bảo Năng này phải đi theo các
chúng mà làm việc ở đằng sau.
20. Khi ấy Năng này
bèn thưa rằng: “Bạch Hoà thượng! Tự tánh
của đệ tử thường sanh trí huệ, chẳng lìa tánh mình,(A) đó hẳn thiệt là ruộng phước, chẳng hay Hòa thượng sai đệ tử đi
làm việc chi?”
21. Tổ đáp: “Này
chú mọi kia! Căn tánh của người thật là lanh lợi. Chớ có nói nữa, hãy ra đàng
sau mà làm công việc đi.”
22. Năng này vâng lời, lui ra nhà sau. Tại đây có một thầy sai tôi bửa củi
và đạp chày giã gạo. Nhưng vì thân thể Năng này yếu, mỗi khi đạp chày giã gạo
phải đeo thêm một cục đá to vào mình, đầu chày mới dỏng lên. Làm như vậy được
trên tám tháng.
23. Có một ngày nọ, Tổ sư thấy Năng này, Ngài bèn nói rằng: “Tôi xét chỗ
hiểu biết của ông có thể trọng dụng được. Song vì tôi e có kẻ ác tâm làm hại
ông, nên tôi không thể chuyện vãn với ông lâu được. Vậy ông có biết chăng?”
24. Huệ Năng này thưa rằng: “Đệ tử cũng hiểu rõ ý thầy như thế, nên đệ tử
không dám chường mặt ra giảng đường, làm cho ai nấy không thể biết được.”
25. Một ngày kia, Tổ sư triệu tập tất cả các đệ tử mà dạy rằng: “Người đời,
sự sanh tử là một vấn đề lớn lao. Thế mà mấy ông ở đó cả ngày mải lo gieo trồng
ruộng phước, chớ chẳng chịu cầu thoát khỏi biển khổ sanh tử. Mấy ông nên biết
rằng, nếu tánh của mình còn mê, thì phước nào mà cứu mình cho thoát khỏi đường
sanh tử luân hồi cho được.”
“Các người hãy lui ra, dùng trí tuệ của mình mà suy xét, lấy trí bát nhã
trong tâm của mình, mọi người đều làm một bài kệ, đem trình cho tôi xem. Nếu
người nào tỏ ngộ được đại ý lớn, tôi sẽ giao phó và truyền y-pháp để làm Tổ thứ
sáu.”
26. “Hãy mau đi! Chẳng nên chậm trễ. Bằng ở đó lo lường mãi thì chẳng
trúng, không thể dùng được. Mấy ông phải biết rằng, hễ là người thấy tánh rồi,
dưới lời nói liền thấy, dầu cho gấp rút như việc múa đao xông ra trận, cũng vẫn
thấy được vậy.”
27. Đồ chúng sau khi nghe lời Tổ phân, bèn lui ra bàn tán với nhau rằng:
“Cả thảy chúng ta đây, chẳng cần phải gạn lòng dùng ý làm kệ trình Hoà thượng
chi cho vô ích. Bởi vì, sư Thần Tú là bậc thượng toạ và hiện nay ông đang làm
giáo thọ. Chúng ta đối với ông chẳng khác nào như thầy với trò, lẽ dĩ nhiên thế
nào sư Thần Tú cũng đắc pháp. Như thế, dầu chúng ta có lạm dụng mà làm kệ đi
nữa, chỉ uổng tâm lực mà thôi.”
28. Cả thảy nghe nói vậy, ai nấy đều yên lòng, cùng nhau nói rằng: “Hết
thảy chúng ta, sau này đều nương theo thầy Thần Tú mà học đạo, chớ có viết kệ
làm chi cho phiền lòng.”
29. Riêng về sư Thần Tú thì lại suy nghĩ rằng: “Sở dĩ tất cả huynh đệ chẳng
chịu làm kệ trình cho Tổ, bởi vì đối với họ, ta là giáo thọ, họ không làm kệ là
lẽ dĩ nhiên. Thế thì, ta phải làm kệ đặng trình lên cho Hoà thượng xem. Bằng
như ta không trình kệ, thì Hoà thượng do đâu mà hiểu chỗ kiến giải của ta thâm
sâu hay nông cạn.”
30. “Đó là cái lẽ rất chánh đáng buộc ta phải làm kệ. Nhưng nếu ta làm kệ
có ý để cầu pháp, ấy là một việc lành. Trái lại, nếu ta làm kệ có ý để cầu làm
Tổ, thì lại là một việc rất ác. Bởi vì, làm như thế chẳng khác nào ta đem lòng
phàm tục để tranh đoạt ngôi Thánh. Mà nếu ta không trình kệ, thì chung thân
chẳng đắc pháp.
Ôi! Khó thay! Khó thay!...”
31. Đằng trước giảng đường của Tổ, có dãy nhà ba gian. Dưới chái hiên dãy
nhà Nam lang, Ngũ Tổ tính rước quan Cung phụng[2]
là Lư Trân, đặng cậy vẽ giùm bức họa «Lăng Già biến tướng» và bức đồ hình của
năm vị Tổ, hầu truyền lại đời sau cúng dường.
32. Thần Tú đã làm kệ xong. Mấy phen muốn đem kệ trình cho Tổ xem, nhưng hễ
mỗi lần đi ngang qua trước phòng của Tổ sư, thì trong lòng hốt hoảng, mồ hôi
xuất ra dầm mình. Thần Tú nghĩ rằng: Không thể nào mình trình kệ cho đặng.
Trước sau, trọn bốn ngày như vậy, có cả thảy mười ba phen đem kệ đi trình, mà
không lần nào trình đặng.
Thần Tú mới suy nghĩ rằng: “Chi bằng ta đi lại đằng chánh hiên Nam lang,
trước giảng đường, chép đại vào vách bài kệ, khiến cho Hoà thượng xem thấy.
Thoảng như, sau khi Tổ xem mà khen hay, ta ra mặt lễ bái Tổ và nhận rằng bài kệ
ấy quả thật là của ta làm vậy. Bằng như công phu học Đạo của ta chẳng kham,
thật là rất uổng công cho ta mấy năm ở chùa, thọ lãnh cái lạy của kẻ khác. Thế
thì còn tu hành theo Đạo làm chi nữa.”
33. Đêm ấy, lối canh ba, Thần Tú chẳng cho ai hay biết, tay cầm đèn, tay
chép kệ lên vách Nam lang, hầu trình chỗ hiểu biết của mình.
34. Kệ rằng:
Thân thị bồ đề thọ,
Tâm như minh cảnh đài,
Thời thời cần phất thức,
Vật sử nhá trần ai.
(Thân là cây bồ đề,
Tâm như đài gương sáng,
Thường hằng lau chùi sạch,
Chớ để vướng trần ai.)(B)
35. Sư Thần Tú chép kệ rồi trở về phòng lập tức,
chẳng một ai hay biết chi cả. Khi ấy, sư Thần Tú lại nghĩ rằng: “Nếu rạng ngày
Tổ thấy kệ mà vui mừng, tức là ta có duyên với Đạo pháp vậy. Bằng như Ngài nói
kệ ấy chẳng được, thì ta còn mê, chưa tỏ ngộ đạo mầu; ấy chẳng qua do nghiệp
chướng đời trước quá ư nặng nề, nên đời này không thể đắc pháp. Ôi! Thật là ý
Thánh khó lường thay!”
Ở trong phòng, sư Thần Tú trằn trọc suốt đêm, mải
lo suy nghĩ mà nằm ngồi chẳng an, cả năm canh trường như vậy.
36. Tuy chưa thấy kệ của sư Thần Tú ra sao, nhưng
Ngũ Tổ vẫn biết Thần Tú chưa kham vào cửa Đạo, bởi Thần Tú chưa thấy tánh của
mình.
37. Sáng ngày, Ngũ Tổ đưa quan Cung phụng là Lư
Trân tới vách Nam lang để họa tượng. Bỗng Ngũ Tổ thấy bài kệ nơi đó. Ngài bèn
nói: “Thôi, chẳng cần vẽ vời làm chi cho thất công! Thật là làm nhọc lòng quan
từ xa lặn lội tới đây.”
38. “Bởi vì trong kinh Kim Cang có nói rằng: Phàm cái gì có hình tướng đều là giả dối
không thiệt.[3]
Thế thì, vẽ làm chi cho thất công. Vậy nên để dành bài kệ này cho người ta trì
tụng. Y theo bài kệ này mà tu hành, thì có lợi ích to lớn.”
Ngũ Tổ bèn bảo đệ tử thắp hương làm lễ cung kính,
đọc kệ này thế nào cũng được thấy tánh.
Trong môn nhơn đọc kệ, ai ai cũng đều khen hay.
39. Cũng trong ngày đó, tối lại, sang canh ba, Ngũ
Tổ cho dời Thần Tú vào phòng riêng hỏi rằng: “Kệ ấy phải giáo thọ làm chăng?”
40. Thần Tú thưa rằng: “Kệ ấy thật của đệ tử làm
ra. Song đệ tử không bao giờ dám manh tâm ước mong rằng sẽ chiếm được địa vị
Tổ. Cúi xin Hoà thượng thể lòng từ bi, xem đệ tử có chút ít trí huệ gì chăng?”
41. Ngũ Tổ đáp: “Giáo thọ làm kệ ấy chưa thấy được
bổn tánh. Kệ ấy chỉ mới đến gần cửa Đạo mà thôi, nghĩa là còn ở ngoài chớ chưa
vào trong được. Chỗ hiểu biết như thế mà cầu đạo Vô thượng bồ đề, thì chưa thể
đặng.”
42. “Bậc Vô thượng bồ đề, dưới một lời nói, liền
biết được bổn tâm mình, thấy được bổn tánh mình, vốn chẳng sanh chẳng diệt. Bất
cứ trong giờ khắc nào, mỗi niệm đều tự thấy lấy mình.[4]
Nếu tự thấy mình, thì dầu cho muôn pháp ngoại cảnh sáu trần sờ sờ trước mắt,
cũng không thể nào làm ngưng trệ đạo tâm của mình được.”
“Giáo thọ phải biết rằng, nếu một pháp mà chơn
thật, thì nhất thiết các pháp đều là chơn thật. Cho đến muôn cảnh cũng đều như
vậy, cũng là như như. Nếu cảnh như như, thì tâm cũng như như, tâm như như là
tâm chơn thật.(C) Chỗ thấy biết như thế, tức là cái
tánh Vô thượng bồ đề của mình vậy.”
43. “Giáo thọ hãy lui ra, suy nghĩ trong vài ngày
nữa, làm lại một bài kệ khác cho tôi xem. Nếu kệ của giáo thọ mà vào được cửa
Đạo, thì tôi sẽ phó truyền y pháp cho.”
44. Sư Thần Tú nghe dạy, làm lễ lui ra. Trải mấy
ngày mà làm kệ chẳng được, trong lòng hoảng hốt. Sư Thần Tú trong lòng chẳng
vui, mơ màng như sống trong mộng. Đi, đứng, nằm, ngồi không lúc nào an được.
45. Cách hai ngày sau, có một ông đạo nhỏ đi ngang
qua phòng giã gạo, vừa đi vừa cất tiếng đọc kệ. Huệ Năng này vừa nghe, liền
biết rằng kệ ấy thật chưa thấy bổn tánh.
Tuy Huệ Năng này chưa mang ơn của Tổ chỉ dạy lần
nào, song đã biết được ý kiến đại khái, bèn hỏi ông đạo nhỏ rằng: “Tụng kinh
chi đó vậy?”
46. Đáp: “Ông là người mọi, nên không ai cho ông
hay biết việc chi hết. Tổ sư có dạy rằng: ‘Người đời sanh tử là việc lớn…’ Vì muốn truyền y pháp, nên Ngài bảo các đệ tử
hãy làm kệ trình cho Ngài xem. Nếu ai tỏ ngộ được đại ý, thì Ngài phó y pháp
cho mà nối ngôi Tổ thứ sáu.”
47. “Sư Thần Tú là bậc Thượng tọa, sư có biên bài
kệ vô tướng trên vách Nam lang. Tổ sư khiến trong môn nhơn, tất cả ai ai cũng
phải đọc kệ ấy. Nhứt là y theo kệ đó mà tu hành, thì khỏi sa đọa vào con đường
ác. Hơn nữa, nếu y theo kệ ấy mà tu hành, thật là lợi ích một cách lớn lao
vậy.”
48. Huệ Năng này bèn nói: “Tôi cũng muốn đọc kệ ấy
đặng kết duyên về sau. Này ông đạo! Tôi đây đạp chày giã gạo trên tám tháng,
chưa hề đi đến trước giảng đường bao giờ. Vậy nhờ ông đạo dẫn tôi đi đến trước
bài kệ đặng lễ bái.”
49. Ông đạo nhỏ bèn dẫn tôi đến đó.
50. Huệ Năng này nói: “Tôi vốn không biết chữ, nhờ
ông đạo đọc giùm.”
51. Cũng trong khi đó, có quan Biệt giá ở Giang
Châu, tên là Trương Nhật Dụng, nghe vậy cất tiếng đọc lớn lên. Huệ Năng này
nghe xong liền nói: “Tôi cũng có một bài kệ, cúi xin quan Biệt giá biên giùm ra
đây luôn thể, tôi rất đa tạ.”
52. Quan Biệt giá buông miệng nói rằng: “Chà! Người
cũng biết làm kệ nữa sao? Thật là một chuyện chưa từng có vậy.”
53. Huệ Năng này nói rằng: “Muốn học đạo Vô thượng
Bồ đề, chớ khá khinh dễ kẻ sơ học. Quan nên biết rằng: Tuy người ở bực dưới,
nhưng cũng có kẻ có trí bực cao. Trái lại, người ở bực cao, cũng có kẻ chẳng có
ý trí chút nào.”
54. Quan Biệt giá nói: “Người hãy đọc kệ đi, tôi sẽ
chép giùm cho. Nếu người mà đắc pháp, xin độ tôi trước. Hãy nhớ lời, chớ bỏ
quên.”
55. Huệ Năng này bèn đọc rằng:
Bồ
đề bổn vô thọ,
Minh
cảnh diệc phi đài,
Bổn
lai vô nhất vật,
Hà
xứ nhá trần ai?
(Bồ đề vốn không thọ,
Gương sáng cũng không đài,
Nguyên không phải một vật,
Chỗ nào vướng trần ai?)
56. Sau khi bài kệ chép rồi, tất cả đồ chúng đều
thất kinh. Ai nấy đồng khen ngợi, ca tụng với nhau rằng: “Lạ thay! Lạ thay!
Thật là chẳng nên thấy hình dạng bề ngoài mà đánh giá người. Nếu bọn ta mà sớm
biết được, thì bấy lâu nay chúng ta đâu có dám sai khiến một vị Bồ tát xác phàm
làm công việc quá ư nhọc nhằn.”
57. Ngũ Tổ ở trong liêu, nghe đồ chúng xôn xao,
Ngài bước ra, thấy đồ chúng quái lạ kinh dị, sợ e có kẻ chủ mưu khủng bố ám
hại, vội vã lấy chiếc giày bôi chà hết bài kệ mà nói rằng: “Bài kệ này cũng
chưa được thấy tánh.” Cả đồ chúng đều cho là phải.
58. Qua ngày sau, Tổ lên đến phòng giã gạo. Ngài
thấy Huệ Năng này cột tảng đá vào mình đạp chày giã gạo, bèn nói rằng: “Cha
chả! Người học đạo, vì pháp quên mình quá đỗi như vậy ư?” Ngũ Tổ lại hỏi: “Gạo
giã trắng chưa?”[5]
59. “Bạch Hoà thượng, gạo trắng đã lâu, nhưng còn
chờ cái sàng.”[6]
60. Sau khi Năng này đáp lời, Tổ cầm gậy, gõ xuống
cối ba lần, rồi bỏ đi không nói gì cả.
61. Huệ Năng này tức nhiên lãnh hội được ý chỉ của
Tổ. Bởi vậy, sang canh ba, tôi bèn lén lén vào phòng riêng của Tổ.
62. Tổ sư chỗi dậy, lấy áo cà sa che kín, phía
ngoài dòm vô không thể thấy được. Kế đó Tổ giảng kinh Kim Cang cho Huệ Năng này
nghe. Đến câu: “Ưng vô sở trụ
nhi sanh kỳ tâm” (nghĩa là Nên
sanh tâm không có chỗ trụ). Vừa dứt câu, Huệ Năng này liền tỏ ngộ một
cách rốt ráo (đại ngộ), hiểu biết cả thảy các pháp không lìa tánh của mình. Khi
ấy Huệ Năng này bèn thốt rằng:
Chẳng dè tánh của mình vốn thanh tịnh,
Chẳng dè tánh của mình vốn chẳng sanh diệt,
Chẳng dè tánh của mình vốn đầy đủ các pháp,
Chẳng dè tánh của mình vốn không lay động,
Chẳng dè tánh của mình hay sanh muôn pháp. (D)
63. Ngũ Tổ biết Huệ Năng này đã tỏ ngộ được bổn
tánh, bèn nói rằng: “Chẳng biết được bổn tâm của mình học đạo vô ích. Bằng như
biết được bổn tâm, thấy được bổn tánh của mình, mới gọi là bậc Trượng phu, là
Thầy của cõi Trời, cõi Người, tức là Phật vậy.”
64. Canh ba, thọ lãnh giáo pháp, người người đều
chẳng hay biết. Khi đó Tổ sư bèn truyền pháp Đốn giáo và Y-pháp rồi nói rằng:
“Ông làm Tổ thứ sáu, tự mình hãy khéo hộ niệm lấy đạo tâm. Nhứt là phải phổ độ
khắp chúng hữu tình, lưu để đời sau, chẳng nên để cho đứt mất.”
65. Nay, hãy nghe kệ của tôi đây:
Hữu tình lai hạ chủng,
Nhơn địa, quả huờn sanh,
Vô tình diệc vô chủng,
Vô tánh diệc vô sanh.
(Có tình gieo giống xuống
Nhờ đất, trái mới
sanh
Không tình thì không giống
Không tánh thì không sanh.)
66. Ngũ Tổ nói thêm rằng: “Ngày xưa Đạt Ma Tổ sư
mới đến xứ Trung Hoa này, thiên hạ không biết Ngài là người thế nào, nên chẳng
ai tin hết. Bởi lý
do đó Ngài mới truyền cái Y (áo) để làm bằng cớ lấy đức tin. Từ đó, đời này
truyền qua đời kia, đời kia truyền qua đời nọ, ấy là đời đời thừa hưởng phép
tắc, thế thế dùng truyền tâm, để cho mình tự tỏ ngộ, tự hiểu biết lấy.
67. Thuở xưa, các Phật chỉ truyền bổn thể mà thôi. Về sau, các vị đại sư
mật truyền bổn tâm cho nhau. Ngày nay, cái áo này là mối manh của sự tranh
giành. Thế thì, tới phiên ông, chớ có lưu truyền lại nữa. Nếu như ai cãi lời mà
còn lưu truyền áo này, thì mạng người ấy như chỉ mành treo chuông. Bây giờ ông
hãy lập tức đi khỏi chỗ này cho kịp, kẻo có kẻ mưu hại.”
68.
Huệ Năng này nghe nói như vậy, bèn thưa rằng: “Bạch Thầy! Chẳng biết đệ tử phải
đi xứ nào?”
69.
Tổ đáp: “Gặp huyện Hoài Tập thì dừng lại đó, còn gặp huyện Tứ Hội thì phải ẩn
tàng.” [7]
70.
Huệ Năng này canh ba thọ lãnh được y pháp bèn thưa rằng: “Đệ tử gốc gác người
miền Nam, chẳng thông thạo núi non hiểm trở xứ này. Đêm khuya tăm tối, sông
ngòi mù mịt, làm thế nào ra vàm sông cho đặng?”
71.
Tổ đáp: “Ông chớ có lo làm chi. Tôi sẽ đích thân đưa ông ra khỏi chỗ này.” Ngũ
Tổ dắt Huệ Năng này đi tới trạm Cửu Giang, tại đây có sẵn thuyền để ra vô vàm
sông. Tổ bảo Huệ Năng xuống thuyền ngồi, rồi Tổ cầm chèo.
72.
Huệ Năng này thấy vậy giành chèo và thưa rằng: “Xin Thầy ngồi yên, để cho đệ tử
chèo mới phải.”
73.
Tổ đáp: “Lẽ ra thì tôi độ ông mới phải hơn.”
74.
Năng này đáp: “Bạch Thầy! Lúc mê thì thầy độ, khi ngộ tự độ lấy mình.[8]
Đệ tử sanh chốn biên thuỳ, tiếng nói không được chính như người ở kinh, lại
mông ơn Thầy truyền pháp. Ngày nay, đệ tử tỏ ngộ rồi, thì phải dùng tánh của
mình mà độ lấy.”
75.
Tổ nói: “Như vậy, như vậy. Từ đây về sau, pháp Phật do ông truyền bá thạnh hành
lớn lao. Khi ông đi được ba năm, thì tôi sẽ qua đời. Ngay bây giờ, ông hãy đi
đi. Nỗ lực qua cho được phương Nam. Song, chớ vội nói pháp. Bởi vì theo cơ
duyên, pháp Phật lúc này chẳng phải lúc mở ra.”
76.
Huệ Năng này bèn từ giã Tổ sư, cất bước lên đường, giục giã qua hướng Nam. Đi
săng sái như vậy trọn hai tháng mới tới non Đại Lãnh.
*
77.
Ngũ Tổ trở về chùa, trọn mấy ngày chẳng ra giảng đường. Đồ chúng hoài nghi, vào
phòng hỏi: “Bạch Hoà thượng! Hoà thượng có chút bịnh hoạn hay có buồn việc chi
chăng?”
78.
Tổ đáp: “Tôi không có bịnh chi hết. Nhưng y pháp đã về hướng Nam rồi.”
79.
“Bạch Hoà thượng! Chẳng biết ai có duyên được Hoà thượng truyền thọ vậy?”
80.
“Huệ Năng chớ ai.” Khi ấy đồ chúng mới chưng hửng. Vì họ đinh ninh rằng thầy
giáo thọ của họ thế nào cũng đắc pháp.
81.
Những kẻ muốn thâu đoạt y pháp lối vài trăm người, tức tốc nhắm hướng Nam rượt
theo. Trong bọn này có một thầy sãi cầm đầu, tên là Trần Huệ Minh, trước kia
vốn là một vị tướng quân hàng tứ phẩm, tánh tình nóng nảy. Huệ Minh cố tình
đuổi theo, quyết bắt cho được, nên lướt lên đi trước, cầm đầu mọi người. Vì thế
mà Huệ Minh đuổi theo kịp.
82.
Huệ Năng này không thể trốn tránh đi đâu cho kịp, bèn để y pháp trên hòn đá mà
nói rằng: Món này là vật của Phật Tổ lưu truyền để làm bằng cớ cho người ta
tin, nếu chẳng phải người được truyền thọ thì há dùng sức mạnh mà thâu đoạt
được sao?” Nói rồi bèn chui vào bụi rậm mà ẩn mình.
83.
Trong khi ấy Huệ Minh chạy vừa đến, thấy y mừng rỡ, vội vàng đưa tay chụp y
xách lên. Nhưng cái y vẫn nằm yên nơi gộp đá. Huệ Minh dùng sức kéo thế nào
cũng chẳng lên, dường như dính liền với đá. Huệ Minh thất kinh, liền tỉnh ngộ
nói rằng: “Ông hành giả! Tôi vì cầu pháp mà lại đây, chớ chẳng phải vì y mà
đến, xin hành giả lượng biết cho!”
84.
Năng này nghe vậy, bèn từ trong bụi rậm chui ra, bước lên phiến đá mà ngồi. Huệ
Minh bước tới đảnh lễ và thưa rằng:
85.
“Xin hành giả xuống ơn, nói pháp cho tôi nghe.”
86.
Năng này đáp: “Nếu ông vì cầu pháp mà đến đây, thì hãy tịnh lòng dẹp bỏ hết các
duyên, chớ sanh một niệm. Ông hãy lẳng lặng, dứt hết những điều lo nghĩ nơi
lòng, thì tôi hẹp gì mà chẳng nói cho ông nghe.”[9]
Để
cho Trần Huệ Minh định thần, tỉnh táo lại một chút. Giây lát, Năng này mới nói:
“Chẳng nghĩ lành, chẳng nghĩ dữ,
chính trong lúc ấy, cái đó là Bổn lai diện mục của thượng toạ Huệ Minh vậy.”(E)
87.
Huệ Minh nghe nói pháp, hốt nhiên đại ngộ, liền hỏi rằng: “Ngoài lời nói kín
đáo của hành giả đây, còn có ý kiến gì kín đáo nữa chăng? Xin dặn dò tươm tất
để cho kẻ học đạo này dễ bề hành đạo.”
88.
Năng này đáp: “Chỗ tôi nói với ông đó, chẳng phải chỗ kín. Nếu ông tự biết phản
chiếu (soi xét trở lại lòng mình), thì ông mới biết rằng: cái chỗ kín ấy nó ẩn
tàng rất kín đáo nơi lòng của ông vậy.”
89.
Huệ Minh nói: “Minh này tuy ở Huỳnh Mai học đạo, nhưng thật ra chưa tỏ ngộ được
bổn lai diện mục của mình. Ngày nay mang ơn hành giả chỉ dạy, chẳng khác nào
như người kia uống nước, lạnh hay nóng tự mình biết lấy. Vậy thì, kể từ ngày
nay, hành giả là thầy của tôi vậy.”
90.
Năng này biết Huệ Minh đã khai ngộ, bèn nói rằng: “Nếu thượng toạ được như vậy,
thì chúng ta đồng thờ một thầy Huỳnh Mai. Vậy từ đây, thượng toạ hãy khéo hộ
niệm lấy đạo tâm của mình.”
91.
Minh rằng: “Bạch Thầy! Sau này đệ tử nên đi về phương nào để hoằng hoá Phật
pháp?”
92.
Năng này đáp: “Gặp Viên Châu thì dừng, đến Mông Sơn thì lưu lại đó mà hoằng
pháp lợi sanh.”
93.
Huệ Minh khi ấy làm lễ giã từ, trở xuống chân núi.
94.
Cũng trong khi ấy, đồng bọn vừa mới chạy đến chân núi, Huệ Minh bèn nói rằng:
“Này mấy huynh! Tôi trèo lên tới đảnh, tìm kiếm khắp nơi mà chẳng gặp. Vậy
chúng ta hãy chia nhau đi nhiều nẻo khác, hoạ may bắt gặp.” Bọn chúng tưởng
thật như vậy, nên y lời.
95. Về sau, Huệ Minh đổi tên lại là Đạo Minh, vì chữ Huệ
trùng với thầy của mình.
*
96.
Này các ông thiện tri thức! Sau khi Năng này về đến Tào Khê, lại bị bọn ác tìm
tòi một lần nữa. Khi ấy Năng này buộc lòng phải theo những người thợ săn ở
huyện Tứ Hội mà ẩn mặt.[10]
Huệ
Năng này phải ẩn như vậy mười lăm năm trường, có lúc tuỳ duyên phương tiện mà
giảng nói Phật pháp cho mấy người thợ săn nghe.
97.
Những người đi săn thường bảo Năng này giữ miệng lưới. Mỗi lần tôi thấy loài
vật sa vào lưới, đều thả ra hết. Khi gần đến bữa ăn, thì Năng lấy rau gởi vào
nồi luộc thịt. Có người thấy vậy hỏi, Năng này trả lời rằng: “Tôi chỉ ăn rau
luộc bên thịt đó thôi.”
98.
Một ngày kia, cơ duyên hoằng hoá Phật pháp đã đến, Năng này bèn nghĩ rằng:
“Không nên chung lộn với thợ săn mà ẩn núp nơi đây nữa, phải đi ra mở đạo cho
chúng sanh nhờ ngọn đuốc của nhà Phật.”
99.
Khi ấy Năng này lần ra đến Quảng Châu, tại chùa Pháp Tánh, gặp Ấn Tông pháp sư
đang giảng kinh Niết Bàn. Trong lúc ấy, gió thổi lá phướn lay động. Thấy vậy,
có một thầy sãi nói “Gió động.” Một thầy khác cãi lại “Phướn động.”
100.
Hai bên cãi vã chẳng dứt, không ai chịu nhịn. Huệ Năng này thấy vậy bèn bước
tới nói rằng: “Chẳng phải gió động, và cũng chẳng phải phướn động, ấy là tâm
của hai ông động.”
101.
Nghe nói như thế, cả thảy đều ngạc nhiên kinh hãi.
102.
Ấn Tông pháp sư bước tới mời Năng này lên chiếu ngồi, rồi gạn hỏi những nghĩa
lý cao siêu.
103.
Thấy lời nói của Năng này giản dị, nghĩa lý xác thật, chẳng cần phải dựa theo
văn tự, Ấn Tông pháp sư bèn cật vấn rằng: “Tôi định chắc hành giả chẳng phải là
bậc tầm thường. Từ lâu, tôi đã nghe thiên hạ đồn y-pháp của Tổ Huỳnh Mai đã về
phương Nam. Vậy, có phải hành giả đây là người đã đắc pháp chăng?”
104.
Năng này đáp: “Chẳng dám.”
105.
Ấn Tông bèn làm lễ ra mắt và xin trình y-pháp cho đại chúng xem làm bằng và tín
hướng.
106.
Sau khi xem y-pháp xong, Ấn Tông lại hỏi: “Tổ sư Huỳnh Mai di chúc, phú pháp
chỉ dạy cặn kẽ pháp lý như thế nào, xin Ngài từ bi giảng giải cho biết với.”
107.
Năng này đáp: “Chỗ chỉ dạy vốn không, duy
luận Kiến tánh, chẳng luận Thiền định và Giải thoát.”
108.
Ấn Tông lại hỏi: “Tại làm sao chẳng bàn luận đến pháp Thiền định và Giải
thoát?”
109.
Năng này đáp: “Bởi vì pháp
Thiền định và pháp Giải thoát chẳng phải là cái pháp để làm Phật (chẳng phải Phật thừa). Pháp tu thành Phật là pháp chẳng hai.”(F)
110.
Ấn Tông hỏi tiếp: “Thế nào gọi là pháp môn chẳng hai?”
111.
Đáp: “Pháp sư đang giảng kinh Niết Bàn, đó là hiển minh[11]
nghĩa lý Phật tánh, đó là pháp môn chẳng hai (của Phật thừa).
112.
“Kìa như Ngài Cao Quí Đức Vương Bồ tát bạch với Phật rằng: Những người phạm bốn
tội nặng, năm tội nghịch và những người nhứt xiển đề[12]
có dứt mất căn lành và không còn Phật tánh chăng?
113.
“Đức Thế Tôn giảng rằng: Căn lành có hai thứ, một là thường, hai là vô thường,
còn Phật tánh thì chẳng phải thường, mà cũng chẳng phải vô thường, nên chẳng
dứt mất. Đó là Pháp Môn Chẳng Hai.
Đối
với căn lành (thiện căn) lại có hai thứ: một là lành, hai là chẳng lành, còn
Phật tánh thì chẳng phải lành, chẳng phải chẳng lành, nên gọi là Pháp Môn Chẳng
Hai.
114.
“Cũng như năm uẩn và mười tám giới, kẻ phàm phu phân biệt cho là hai món khác
nhau. Còn người trí đã tỏ ngộ, biết rằng cái tánh của nó chẳng phải hai; cái
tánh chẳng hai đó là Phật tánh. Ấy là lý nghĩa của pháp môn chẳng hai vậy.”
115.
Ấn Tông pháp sư nghe Năng này giảng nói Phật pháp, người hết sức vui mừng, chắp
tay nói rằng: “Thế thì tôi giảng kinh Niết Bàn có khác chi gạch ngói. Còn Ngài
biện luận nghĩa lý đích xác tinh vi như vàng ròng.”
Do
nhơn duyên luận bàn Phật pháp trên đây mà Ấn Tông pháp sư xuống tóc cho Năng
này và tình nguyện tôn làm thầy.
*
116.
Này các ông thiện tri thức! Huệ Năng này đắc pháp tại Đông Sơn, sanh mạng như
treo tơ mành. Ngày nay được cùng sứ quân, các quan liêu và tăng ni, đạo tục,
cùng nhau hội họp như vầy, âu cũng là tiền duyên luỹ kiếp. Đó chẳng qua là
nhiều kiếp về trước đã từng cúng dường chư Phật và đồng gieo căn lành. Ngày
nay, có duyên lành mới nghe nguyên nhơn đắc pháp của môn Đốn giáo vậy.
117.
Các ông thiện tri thức! Các ông nên biết rằng giáo pháp này là của các bậc
Thánh đời trước truyền lại. Thế thì biết rằng chẳng phải do trí của Huệ Năng
này bày đặt ra. Cho nên, trước khi muốn nghe pháp Đốn giáo, quí vị phải tịnh
tâm mới được. Sau khi nghe pháp rồi, phải phá trừ chỗ nghi hoặc[13]
của mình thì cùng với Thánh nhơn đời trước chẳng khác vậy.
118.
Tất cả đại chúng nghe pháp rồi, đều hoan hỉ làm lễ lui ra.
* * * * * *
CHÚ
GIẢI
(A)
Tự tâm của đệ tử thường phát sanh trí huệ, chẳng lìa tánh mình… (đệ tử tự tâm
hằng sanh trí huệ bất ly tự tánh…)
Tánh là
thể, trí huệ là dụng. Lục Tổ nói trí huệ chẳng lìa tánh mình, tức là nói dụng
chẳng lìa thể. Thể sanh ra dụng, dụng sanh ra tướng. Trí huệ là cái dụng tướng
Bồ đề, cái dụng tướng này không bao giờ lìa thể tánh được. Thể, Tướng, Dụng,
tuy ba mà một, tuy một mà ba. Dụng tướng của các pháp tuy sanh diệt vô thường,
nhưng thể tánh của các pháp vốn như như bình đẳng, bất sanh bất diệt.
(B) – Thân là cây Bồ đề:
Bồ đề
là gì mà sư Thần Tú gọi là cây Bồ đề và thí dụ cái thân của con người như cây
Bồ đề?
Bồ đề
dịch là Giác, nguyên tiếng Phạn là Bô-đi (bodhi). Giác nghĩa là
hiểu biết sáng suốt, là tỉnh thức hoàn toàn, là hiểu biết một cách đích xác
toàn thể toàn dụng của các pháp vốn như như bình đẳng, chẳng sanh chẳng diệt.
Bồ đề
có nhân có quả. Trong khi tu nhân thì phải tu cả thảy pháp lành, tức đắc quả Vô
thượng Bồ đề (Tu nhứt thiết thiện pháp, tức đắc A-nậu đa-la tam-miệu
tam-bồ-đề). Quả Vô thượng Bồ đề, là quả Vô thượng chánh đẳng chánh giác như
trong Kim Cang đã nói.
Bồ đề thọ: Là cây Bồ đề. Chỉ chúng sanh đang tu hành, tức là
đang trồng giống Bồ đề (đang gieo nhân).
Bồ đề hoa: Là bông Bồ đề, cũng gọi là hoa giác. Chỉ người tu
mới tỏ ngộ đạo mầu. Hoa giác nên trồng, lửa lòng nên tắt (gần kết quả).
Bồ đề quả: Trái Bồ đề. Ám chỉ những bực chứng quả, tức là đắc
đạo (đã kết quả).
Bồ đề tâm: Hay là Bồ đề diệu minh chơn tâm, là
tâm Bồ đề, là Chơn tâm, là tâm Chơn như, là Trí huệ thật tướng, là Như Lai tự
tánh, là Di Đà tự tánh, v.v…
Nói tóm
lại, Bồ đề diệu minh chơn tâm, là cái tâm toàn giác, sáng suốt vô cùng,
tức là Phật huệ chớ không có gì lạ. Bồ đề là Giác, Giác là Bồ đề, hoặc nói cách
khác, Phật là Giác, Giác là Phật (Phật là Bồ đề, Bồ đề là Phật). Vì lẽ ấy mới
có câu: Phật dã Giác giả (Phật là đấng Giác ngộ sáng suốt).
Trong
giáo lý Đại thừa, không có ai dùng tiếng Bồ đề thọ như sư Thần Tú đã dùng. Trái
lại, đức Lục Tổ Huệ Năng đã chỉ đúng cái Chơn tâm Phật tánh.
Trong
phẩm thứ nhất, mới lên diễn đàn, đức Lục Tổ nói: «Này các ông thiện tri thức!
Bồ đề là tánh cội gốc của mình, vốn nó thật thanh tịnh, nếu người tu hành nào
biết dùng cái lòng Bồ đề ấy, thì sẽ thành Phật chẳng sai.»
Chính
Ngũ Tổ cũng có giải thích danh từ Bồ đề cho sư Thần Tú nghe là tâm Chơn như.
Ngũ Tổ nói: «Bậc Vô thượng Bồ đề, dưới một lời nói, liền biết được bổn tâm,
thấy được bổn tánh mình, vốn chẳng sanh chẳng diệt. Bất cứ trong giờ khắc nào,
mỗi niệm đều tự thấy lấy mình. Nếu tự thấy lấy mình, thì dầu cho ngoại cảnh sáu
trần sờ sờ trước mắt, cũng không thể nào làm ngưng trệ tánh giác của mình được.
Giáo thọ phải biết rằng, nếu một pháp mà chơn thật, thì nhất thiết các pháp đều
là chơn thật. Cho đến muôn cảnh cũng đều như vậy, cũng là như như. Nếu cảnh như
như thì tâm cũng như như, tâm như như là tâm chơn thật (là tâm Bồ đề).»
Đành
rằng: Hễ nói Bồ đề hoa, Bồ đề quả được, thì cũng có thể nói Bồ đề thọ được vậy.
Nhưng phải biết rằng: nếu nói Bồ đề thọ, thì nó có nghĩa là còn đang trồng cây
Bồ đề, tức là đang gieo nhân, chớ chưa đơm hoa kết quả. Tức là còn làm chúng
sanh đang tu hành (trau dồi), cũng như đang lau chùi như Thần Tú đã nói.
Bởi vậy
câu thứ ba, Thần Tú mới nói: «Thường hằng lau chùi sạch.» Câu này làm nổi bật
cái chỗ đang dụng công tu hành của một nhân địa phàm phu chưa kiến tánh.
Phải
biết rằng: Nếu đang tu hành, tức là còn ở nhân địa phàm phu, chưa chứng quả
Thánh, thì làm sao đắc pháp, ai dám truyền y-pháp cho. Vì vậy Ngũ Tổ mới nói
với Thần Tú rằng: «Kệ của giáo thọ làm đó, tỏ rằng giáo thọ chưa minh tâm kiến
tánh.»
–
Tâm như đài gương sáng:
Tâm mà
thí dụ như cái đài gương sáng chưa phải là trật. Sở dĩ người có nghiên cứu biết
được nó không rốt ráo, chẳng đúng với chơn lý Đại thừa, là tại câu thứ ba và
câu thứ tư mà ra.
Nếu cái
tâm mình mà sợ nó vướng trần ai, đó là cái tâm ô nhiễm, cho nên mới hằng lau
chùi sạch. Nếu sư Thần Tú tỏ ngộ được Bồ đề diệu minh chơn tâm vốn chẳng nhơ
chẳng sạch, chẳng thêm, chẳng bớt (bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm), thì
ông đâu có sợ nó vướng trần ai, đâu cần phải lau chùi hằng ngày, hằng giờ.
Phải
biết rằng: Chúng sanh tu, là tu cái tâm vọng (trau dồi cái lòng giả dối), chớ
cái tâm chơn như, tâm bồ đề, vốn nó làu làu trong sạch, đâu có nhiễm trần mà
phải tu. Thế mà sư Thần Tú nói tu cái tâm Bồ đề, có phải là sai chăng? Bởi vì
Thần Tú ví thân như Bồ đề thọ, tâm Bồ đề như gương sáng.
Tóm
lại: Câu thứ nhất, sư Thần Tú nhận có thân, câu thứ hai nhận có tâm. Hai câu ấy
tỏ rằng sư Thần Tú chấp có thân tướng và tâm tướng, tức là sự tu
học của Thần Tú còn ở trong vòng pháp tướng, chưa chứng ngộ được pháp
tánh.
Chấp có
thân tướng, tức là chấp cái thân ngũ uẩn giả hiệp làm thân của mình. Còn chấp
có tâm tướng, tức là chấp cái bóng duyên sáu trần lưu ở trong não, làm cái tâm
của mình. Hai cái chấp này, tỏ ra một người còn mê, chớ chưa ngộ, đúng với lời
nói: «… vọng nhận tứ đại vi tự thân tướng, lục trần duyên ảnh ví tự tâm tướng.»
Bát Nhã
Tâm Kinh có nói: «… Vô sắc, thọ, tưởng, hành, thức, vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý. Vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới…»
Nghĩa là, không có năm uẩn, không có sáu căn, tức là không có thân. Không có
sáu trần, tức là không có cảnh. Không có sáu thức, tức là không có Tâm. Không
có mười tám giới, tức là không có Thân, Tâm và Cảnh vật.
– Thường hằng lau chùi sạch:
Đó là
Thần Tú nhận có ta tu hành, tức là còn kẹt ngã tướng (tướng ta). Có ngã tướng
thì có phiền não chướng.[14]
Nếu có tướng ta, thì có tướng người, tướng chúng sanh, tướng thọ giả.
Nhận có
ta tu hành, lẽ tất nhiên nhận có pháp để tu. Nếu nhận có pháp để tu, đó là chấp
pháp vậy. Còn chấp pháp thì còn sở tri chướng,[15]
nghĩa là còn mắc kẹt sáu trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Kẹt sáu trần,
tức nhiên còn chấp có sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý). Có sáu căn, sáu
trần, lẽ dĩ nhiên có sáu thức (nhãn thức: mắt biết thấy, nhĩ thức: tai biết
nghe, tỷ thức: mũi biết ngửi, thiệt thức: lưỡi biết nếm, thân thức: thân biết
cảm xúc, ý thức: ý biết tưởng niệm).
Nếu kẹt
đủ mười tám giới (sáu căn, sáu trần, sáu thức) thì đoạ vào muôn sự muôn vật, ấy
là thân xuất gia mà tâm không xuất gia, chẳng làm được Tổ là phải.
Người
đã tỏ ngộ tâm bồ đề, dầu cho lìa mười tám giới cũng còn có sự hiểu biết, chính
cái hiểu biết ấy mới thật là toàn giác (tâm bồ đề).
Sư Thần
Tú còn chấp pháp, tức là còn chấp danh và tướng của các pháp.
Danh là giả danh, là cưỡng danh. Tướng là huyễn tướng. Tướng giả dối (không
phải chơn như thật tướng) là tướng sanh diệt vô thường, chưa tỏ ngộ được bản
tánh thường trụ diệu minh của tâm Bồ đề.
Sư Thần
Tú còn trụ theo pháp tướng, nên không rõ pháp tánh, nghĩa là sư
Thần Tú còn mê chấp theo hiện tượng sanh diệt vô thường của các pháp, nên chưa
tỏ ngộ (chưa thấu triệt) được bản thể như như bất biến, vốn sáng suốt không cần
phải lau chùi như sư đã nói.
Như như
là không biến đổi, không biến đổi là thường trụ, thường trụ tức là chẳng sanh
chẳng diệt, chẳng sanh chẳng diệt là sáng suốt, là toàn giác, tức là diệu minh.
Nên biết rằng: Thường trụ là chứng tỏ bản thể như như bất động, chớ chẳng phải
an trụ cảnh giới không không, hoặc mê chấp cái tướng không sanh không diệt
trong lúc an thần định trí của thiền định, rồi cho mình đã chứng được chơn tâm
thường trụ diệu minh. Đây là một cái lầm to của phần nhiều những người tu thiền
định, gọi là «định vọng.»
Nếu ai
tu thiền định mà còn lầm lạc như vậy thì hãy dùng câu sau đây mà thức tỉnh lại:
«Tùng theo chỗ diệt hết tất cả những sự thấy, nghe, biết, hiểu, mà bên trong
còn chấp giữ cảnh giới thanh nhàn, thí dụ như đối diện với sáu trần, lòng mình
vẫn còn lưu lại cái phản ảnh[16]
phân biệt muôn vật.» (Kinh Thủ Lăng Nghiêm: Tùng diệt nhất thiết Kiến, Văn,
Giác, Tri, nội thủ ư nhàn, dụ như pháp trần phân biệt ảnh sự.)
– Chớ để vướng trần ai:
Câu này
tỏ rằng sư mới thấy được cái vọng tâm mê nhiễm trần thế, chớ chưa thấy cái bản
thể như như bất động của Bồ đề diệu minh chơn tâm.
Bằng cớ
là ban đêm, Ngũ Tổ cho dời sư vào liêu nói rằng: «Bậc Vô thượng bồ đề, dưới một
lời nói, liền biết được bổn tâm mình, thấy được bổn tánh mình, vốn chẳng sanh
chẳng diệt.»
Tâm Bồ
đề là thường trụ, là diệu minh, là diệu tịnh, là diệu giác, vốn nó chẳng sanh
chẳng diệt (bất sanh bất diệt), chẳng nhơ chẳng sạch (bất cấu bất tịnh). Cái
tâm này ở nơi Phật không thêm, ở nơi chúng sanh cũng chẳng bớt, dầu làm Phật
dầu làm chúng sanh, cũng vẫn một thứ như nhau chẳng khác. Thế thì nó đâu có
nhiễm một pháp trần nào mà phải sợ, phải nói rằng ‘chớ để vướng trần ai.’
Người nói như thế là người chưa tỏ ngộ tâm Bồ đề, mong gì làm Tổ. Bằng như nói
rằng câu thứ tư để chỉ cái tâm phiền não, thì phải biết rằng phiền não tức bồ
đề, không hơn không kém.
GIẢI THÍCH THÊM BÀI KỆ CỦA LỤC TỔ
Bồ
đề vốn không thọ,
Gương
sáng cũng không đài,
Nguyên
không phải một vật,
Chỗ
nào vướng trần ai?
Đây mới
thật là bài kệ Vô tướng. Vô tướng không có nghĩa là «trống không.» Nếu hiểu vô
tướng là trống không, thì sai chơn lý Đại thừa. Vô tướng có bốn nghĩa: Một, là không chấp tướng có,
tướng không, tướng chẳng có chẳng không, cũng có cũng không v.v… Hai, là chẳng an trụ tướng có
tướng không, tướng chẳng có chẳng không. Ba,
là thấu triệt thể tánh của của pháp là chơn không bất không (hay chơn không
diệu hữu). Bốn, là thấu suốt
các pháp vốn viên dung bình đẳng không sai biệt.
Bài kệ
của Lục Tổ Huệ Năng phá pháp tướng, hiển rõ pháp tánh như sau đây:
– Câu
thứ nhất, phá thân tướng.
– Câu
thứ nhì, phá tâm tướng.
– Câu
thứ ba, phá pháp tướng.
– Câu
thứ tư, hiển tánh, vạch rõ tâm bồ đề là tâm thanh tịnh. Ấy là cái tâm như như
bất động, vốn nó không phải là một vật, nên không câu nhiễm trần thế. (Cũng như
nguyên tử, tuy nó cấu tạo vật chất, sanh sống trên vật chất mà không bị vật
chất câu nhiễm, khác nào hoa sen sống trong bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn, trái
lại còn thơm là khác).
Nếu ai
có nghiên cứu và lãnh hội được Bát Nhã Tâm Kinh, mới biết rằng câu thứ nhất,
Lục Tổ phá thân tướng. Câu thứ nhì phá tâm tướng là đúng với Bát Nhã Tâm Kinh.
Câu thứ
nhì, sư Thần Tú thí dụ tâm bồ đề như cái gương có đài. Phải biết rằng muốn dùng
một pháp nào để thí dụ cái tâm bồ đề, lời nói phải cho khéo, nhất là thí dụ ấy
đừng đọa vào hai bên biên kiến[17]
và đừng lọt vào pháp tướng. Tâm bồ đề là tâm toàn giác, nó không phải màu xanh,
vàng, đỏ, đen, trắng, nếu nói nó in tợ một vật gì cũng không trúng (phi thanh,
huỳnh, xích, hắc, bạch, thuyết tợ như vật tất bất trúng).
Tâm bồ
đề, nói có cũng trật, nói không cũng chẳng nhằm, nói cũng có cũng không, chẳng
có chẳng không, v.v… cũng chẳng nhằm, bởi nó ra ngoài các pháp đối đãi, nếu
dùng những danh từ tương đối để chỉ nó, hoặc để so sánh thí dụ đều trật cả.
Vì
những lẽ trên đây, muốn ngộ nhập đúng chơn lý, đúng thật tướng của tâm bồ đề,
chỉ có mặc nhận nó mà thôi, chớ không thể mô tả, diễn giải hay suy nghĩ cho
đúng được. Nhưng, mặc nhận không có nghĩa là nín thinh, rồi tưởng tượng trong
lòng mà cho là trúng. Là vì, nó dứt đường ngôn ngữ, bặt chỗ nghĩ lường (ngôn
ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt).[18]
Do lẽ
này, đức Lục Tổ phá tâm tướng của sư Thần Tú để hiển minh tâm thể, chớ không mô
tả như sư Thần Tú.
Câu thứ
ba, Thần Tú nhận có pháp để trau dồi (để tu hành), nên nói rằng: «Thường
hằng lau chùi sạch.» Phải biết rằng khi nói tu hành (trau dồi) là nói cái
món nào, cái vật gì nó bất toàn kìa. Chí ư, tâm bồ đề là tâm toàn giác, toàn
minh, toàn thiện, tận mỹ, bản lai vốn là trong sạch vắng lặng và soi sáng
(thanh tịnh, tịch diệt và quang chiếu), chẳng những nói tu hành cũng trật, mà
nói chứng đắc cũng không trúng.
Bài kệ
của Lục Tổ có hai ý: Một, là
Lục Tổ đã tỏ thông tâm bồ đề. Tâm này vốn không nhơ không sạch, nên không cần
lau chùi nó. Hai, là Lục Tổ
đã qua được bờ giác (đáo bỉ ngạn ba-la-mật-đa), đến chỗ vô tu vô chứng. Khi mê
còn tu hành, cũng như khi bịnh thì còn uống thuốc, lúc hết bịnh thì không cần
dùng thuốc nữa, nếu uống mãi càng thêm mang bịnh chớ không ích gì.
(C) Nếu một pháp mà chơn thật, thì nhất thiết các
pháp đều là chơn thật, cho đến muôn cảnh cũng đều như vậy, cũng là như như. Nếu
cảnh như như, thì tâm cũng như như, tâm như như là tâm chơn thật (là bồ đề diệu minh chơn tâm).
Muốn
giải thích câu này một cách rốt ráo cho xứng với cái giá trị cao siêu tuyệt vời
của Ngũ Tổ, chỉ có lời nói của đức Thế Tôn trong kinh Viên Giác mà thôi:
«Viên
Giác là tròn sáng, không còn khuyết điểm chỗ nào. Ấy là cái tâm thanh tịnh (tâm
bồ đề). Hễ tâm thanh tịnh thì thấy sắc trần thanh tịnh. Sự thấy thanh tịnh thì
con mắt thanh tịnh. Con mắt thanh tịnh thì cái biết của con mắt (nhãn thức)
cũng thanh tịnh. Cái biết thanh tịnh thì tiếng nghe (thinh trần) cũng thanh
tịnh. Nghe thanh tịnh thì lỗ tai cũng thanh tịnh. Lỗ tai thanh tịnh thì cái
biết của lỗ tai (nhĩ thức) cũng thanh tịnh, v.v…»
Nói tắt
là hễ tâm thanh tịnh, thì sáu căn, sáu trần, sáu thức đều thanh tịnh cả.
Lời của
Ngũ Tổ so với kim ngôn của đức Thế Tôn, tuy có khác, nhưng ý nghĩa vẫn đồng.
Nếu ai còn phân biệt tâm khác với cảnh, cảnh chẳng phải tâm, thì không thể liễu
ngộ được chơn lý toàn tâm tức cảnh, toàn cảnh tức tâm. Do lẽ đó mà biết rằng:
Hễ tâm như như thì cảnh cũng như như. Tâm như như là tâm chơn thật, là trí huệ
thật tướng, là bồ đề niết bàn vậy.
(D) – Chẳng dè tánh mình vốn thanh tịnh (Hà
kỳ tự tánh bổn tự thanh tịnh):
Câu này chỉ rõ tâm bồ đề vốn sẵn
thanh tịnh, không ô nhiễm, nó không cần phải đợi trau dồi (tu hành) mới trong
sạch. Trong sách Phật nói nó không có tướng bị tu (bị trau dồi sửa đổi).
– Chẳng dè tánh mình vốn chẳng sanh diệt
(Hà kỳ tự tánh bổn bất sanh diệt):
Câu này chỉ rõ tâm bồ đề vốn sẵn
như như bất động, không sanh không diệt, nghĩa là xưa vốn không sanh nay cũng
không diệt, xưa như sao nay như vậy. Tự tánh của chúng sanh trước sau như vậy.
Tự tánh (tâm bồ đề) như thế, không
phải đợi tới thiền định nó mới như như chẳng động. Tự tánh không vì làm chúng
sanh mà nó mê nhiễm. Cũng như vàng, tuy bị làm ra xuyến, nhưng tánh vàng vẫn
còn nguyên. Cũng như nước, tuy duyên với gió mà sanh ra sóng, sanh ra bọt, sanh
ra muôn hình vạn trạng, mà tánh nước còn nguyên không thay đổi. Đem một cục
vàng vào lửa đốt, các chất khác cháy tiêu, hoặc hao tán, nhưng tánh vàng vẫn
còn nguyên vẹn, lại càng tốt là khác.
– Chẳng dè tánh mình vốn nó đầy đủ (Hà
kỳ tự tánh bổn tự cụ túc):
Câu này chỉ rõ tâm bồ đề vốn đầy
đủ muôn pháp, nhưng vì chúng sanh mê lầm, cái mê lầm ấy nó phủ vây tâm bồ đề,
nên tuy nó có đủ muôn hạnh, muôn đức mà không thể phát hiện ra được. Nếu ai tỏ
ngộ mới thực chứng biết rằng tánh mình vốn sẵn đầy đủ.
– Chẳng dè tánh mình vốn không lay động
(Hà kỳ tự tánh bổn vô động diêu):
Câu này tỏ rằng tâm bồ đề vốn
thường trụ, vốn như như bất động. Phàm phu vì mê lầm, nên chỉ thấy cái hiện
tượng sanh diệt vô thường của các pháp luôn luôn biến đổi, chẳng thấy được cái
bản thể thường trụ bất sanh bất diệt, rỗng rang vắng lặng. Cái bản thể thường
trụ ấy, là chơn tâm, là tâm bồ đề, là tâm như như (không cần phải dùng đại định
để rèn đúc nó thành như như).
– Chẳng dè tánh mình hay sanh muôn pháp
(Hà kỳ tự tánh năng sanh vạn pháp):
Câu này chỉ rõ bồ đề diệu minh
chơn tâm tuy như như bất động, nhưng hay tuỳ duyên mà sanh ra các pháp. Tuy
sanh ra các pháp mà tánh như như của nó không biến đổi (Tuỳ duyên mà bất biến,
bất biến mà tuỳ duyên).
Cũng như vàng, nếu đủ nhơn duyên
thì sanh ra nào là xuyến, nhẫn, bông tai, dây chuyền, v.v… nhưng tánh vàng
không vì đó mà biến đổi.
GIẢI THÍCH BÀI KỆ CỦA NGŨ TỔ
– Có tình gieo giống xuống (Hữu
tình lai hạ chủng).
Câu này đại ý nói rằng: Người nào
có đức tin mới gieo giống Phật được. Kinh Hoa Nghiêm có nói: «Đức tin là cội
gốc của Đạo, hay phát sanh công đức. Đức tin hay nuôi lớn các căn lành, đức tin
có năng lực làm cho người mau thoát khỏi đường ma, đức tin hay làm cho người tu
hành được thành tựu quả bồ đề.»
– Nhờ đất, trái bèn sanh (Nhơn
địa, quả huờn sanh).
Câu này đại ý nói: Một khi đã gieo
giống rồi, thì nhờ nhơn duyên kiếp trước và kiếp này, bèn được thành tựu bồ đề.
Cũng như hạt giống gieo xuống nhờ đất (làm duyên) trái mới sanh. Hai chữ huờn
sanh có nghĩa là sanh trở lại, vì hạt giống ấy đã có gieo rồi, nghĩa là
tiền căn đã có tu tập rồi, nhưng vì công đức chưa viên mãn nên chẳng kham làm
Phật. Ngày nay, đối với những hạt giống như vậy, nếu gặp nhơn duyên lớn (những
vị Phật ra đời) thế nào cũng kết quả đại bồ đề (đại giác: Phật) chắc chắn chẳng
sai.
Đành rằng, hễ là hạt giống, thì nó
có tánh năng sanh, nhưng nếu giống ấy không gặp nhơn duyên thì không kết quả.
Tu cũng do nhơn duyên, thành Phật cũng nhơn duyên, cái gì cũng là nhơn duyên
tất cả. Nói cho đủ chữ là nhơn duyên quả, còn nói tắt là nhơn quả, hay là nhơn
duyên.
– Không tình thì không giống (Vô
tình diệc vô chủng).
Người vô tình là nói người không
tin có luật nhơn quả. Người như vậy, dầu cho hiền lành, cũng khó mà thành Phật.
Hoạ chăng, đời đời kiếp kiếp về sau, nhờ nhân duyên gì tân tạo, mới mong kết
quả Phật.
Vô tình, cũng ví với loại vô tri
vô giác như gạch ngói, nên nói không tình thì cũng không giống. Nghĩa là người
không đức tin, không thể gieo giống được.
– Không tánh thì không sanh (Vô
tánh diệc vô sanh).
Không tánh tức là không có tánh
tình (đã giải thích ở trước). Nhưng không tánh còn có nghĩa là những người tu
hành căn tánh thấp hèn, không tin mình có tánh Phật. Cho nên, chúng sanh dầu có
sẵn Phật tánh, nghĩa là có sẵn tâm bồ đề vốn thanh tịnh tịch diệt và quang
chiếu, nhưng vì thói ô nhiễm mê lầm quá mạnh mẽ, nên mặc dầu mình là giòng
giống Như Lai mà không tự biết, nên không dám làm Phật.
(E) Chẳng nghĩ lành, chẳng nghĩ
dữ, chính trong lúc ấy, cái đó là bổn lai diện mục của thượng toạ Huệ Minh vậy.
(Bất tri thiện, bất tri ác,
chính dữ ma thời, ná cá thị Minh thượng toạ bổn lai diện mục).
Bổn
lai diện mục: Bổn là gốc, vốn có sẵn từ đời nào tới giờ, lai
là lai lịch, lai xứ. Bổn lai là gốc tích sẵn có từ trước. Diện là mặt, mục là
mắt, tức là mặt mày. Bổn lai diện mục là ý nói gốc tích mặt mày sẵn có từ vô
thỉ. Bổn lai diện mục là một danh từ dùng để chỉ bản tánh Như Lai chớ không có
gì lạ. Vô thỉ nghĩa là không biết có từ bao giờ, dầu cho lúc sơ khai hỗn độn,
định phân âm dương trời đất, cũng không thể cho là vô thỉ được. Thế thì biết
rằng, vô thỉ là không đầu, không đuôi, vô thỉ vô chung, không mối manh gì tầm
cho ra buổi đầu tiên nhằm thuở nào, lúc nào, bao lâu. Nói đến vô thỉ, phải hiểu
rõ nó vô chung, vô cùng, vô tận.
Đức Lục Tổ nói với Trần Huệ Minh rằng: “Đừng suy nghĩ thiện, và cũng đừng suy nghĩ ác, chính trong thời khắc
ấy, cái đó là Bổn lai diện mục hiện tiền vậy.” Nên biết rằng: Chẳng những
không nghĩ đến thiện ác mà thôi, cho đến các pháp thuộc về tương đối (đối đãi)
như: phải quấy, nên hư, tốt xấu, chơn vọng, mê ngộ, khen chê, động tịnh, nhơ
sạch, v.v… cũng không nhớ không nghĩ đến, mới đúng ý nghĩa của Đức Lục Tổ nói.
Nếu còn nghĩ đến một pháp nào, dầu cho cái pháp ấy cao sâu cách mấy
chẳng hạn, tức là còn vọng động. Cảnh giới này, phải xả bỏ tất cả những niệm,
dầu là chánh niệm. Trong lòng lúc ấy trống không nhưng cũng không được nhớ nghĩ
hay an trụ vào cảnh giới trống không. Cho đến, cũng không được niệm Phật, hoặc
niệm bổn tánh chơn như, ấy là lúc Bổn lai diện mục hiện tiền.
Giờ phút của Bổn lai diện mục hiện ra, cũng như mặt nhựt hiện rõ chơn
thể, không còn chút mây che áng, dầu là mây hồng. Cũng như thế, nếu còn một tí
niệm tưởng, dầu là niệm tưởng Phật, tức là còn vọng động vậy.
Nếu ai dùng công phu điều tức, hoặc dùng phương pháp chi khác để huờn
hư, nghĩa là cố gắng làm cho lòng mình trống không, thì lại càng che lấp bổn
lai diện mục, hay là bổn lai diện mục giả hiệu chớ chẳng phải thiệt.
Còn dùng một pháp nào để nhờ pháp ấy làm cho lòng mình trống không, đó
là còn dụng tâm, còn khởi tâm, tức là còn vọng, bởi tâm còn duyên với một pháp,
thì chẳng phải là Bổn lai diện mục.
Đây, chúng ta hãy nghe lời nói của Lục Tổ dặn dò Huệ Minh thì rõ những
lời giải thích ở trên. Lục Tổ bảo Huệ Minh rằng: “Nếu ông vì lòng cầu pháp mà
đến đây, thì hãy tịnh lòng, dẹp bỏ hết các duyên, chớ sanh một niệm tưởng gì
ráo. Ông hãy lẳng lặng, dứt hết những điều lo nghĩ nơi lòng, thì tôi hẹp gì mà
chẳng nói cho ông nghe.”
Sau khi dặn dò như thế, Lục Tổ làm thinh giây lâu, chờ cho Huệ Minh tỉnh
táo định thần, dẹp bỏ các duyên, chính trong lúc lòng của Huệ Minh không còn
khởi một niệm, chừng đó Lục Tổ mới chỉ cái bổn lai diện mục cho Huệ Minh.
Nhưng, Lục Tổ còn sợ Huệ Minh hiểu lầm, không khởi vọng, thì cũng khởi chơn,
nên dặn thêm như vầy: “Đừng nghĩ thiện, đừng nghĩ ác,” nghĩa là đừng
nghĩ tất cả hai bên (biên kiến).
(F) Chỗ chỉ dạy vốn không, duy luận kiến tánh, chẳng luận tới thiền định
và giải thoát. Bởi vì, thiền định và giải thoát là chẳng phải cái pháp để làm
Phật (chẳng
phải Phật thừa). Pháp tu thành Phật là pháp chẳng hai. (Chỉ thọ tức vô,
duy luận kiến tánh, bất luận thiền định, giải thoát. Vị thị nhị pháp, bất thị
Phật pháp. Phật pháp thị, bất nhị pháp môn).
Đoạn này, nhiều sách dịch sát với nguyên văn quá, làm cho người xem khó
hiểu. Nếu dịch sát theo chữ, thấy nó như vầy: “Chỗ chỉ dạy vốn không, duy
luận kiến tánh, chẳng luận thiền định và giải thoát. Bởi vì thiền định và giải
thoát là chẳng phải pháp Phật. Pháp Phật là pháp chẳng hai.” Có sách lại để nguyên hai chữ “Phật
pháp” không chịu đảo chữ “pháp” ra trước, lại càng khó hiểu hơn nữa.
Nếu dịch “Thiền định và giải thoát là chẳng phải Phật pháp,” thì phần
nhiều người xem sách có thể lầm tưởng Lục Tổ chê pháp thiền định và giải thoát
là pháp của ngoại đạo hay của tông phái nào chớ chẳng phải của đạo Phật.
Thật ra thì Lục Tổ nói rằng: “Pháp thiền định và giải thoát chẳng phải
dành để cho bậc tu thành Phật.” Hẳn nhiên như vậy, nếu còn ở đó lo tầm đường
giải thoát, còn ở đó tu tập thiền định, là bậc sơ cơ, hoặc trung thừa, đâu phải
là bậc Nhứt thừa thật tướng (Phật thừa).
Vả chăng, pháp thiền định và giải thoát dành để cho người còn ô nhiễm
trần thế tu tập, chớ hàng Phật thừa, chỉ cầu minh tâm kiến tánh mà thôi. Chính
cái pháp môn chẳng hai, mới là cái pháp tu thành Phật. Đại ý của Lục Tổ muốn
nói như thế.
— Thế nào gọi là pháp môn chẳng
hai?
— Nghĩa là cái pháp không có hai tướng đối đãi, tức là pháp Trung Đạo đệ
nhất nghĩa đế vậy. Không nên lầm tưởng pháp môn chẳng hai là pháp môn có một
không hai. Pháp môn có một không hai, chữ Hán gọi là “pháp môn độc nhất vô
nhị.” Còn pháp môn chẳng hai, gọi là “pháp môn bất nhị” hay “bất nhị pháp môn.”
Pháp môn chẳng hai, là chẳng có hai
tướng đối đãi, chẳng trụ vào hai bên biên kiến, tức là pháp môn Tuyệt đãi Trung
đạo vậy. Thế thì, phải hiểu pháp môn chẳng hai là chẳng có một mà cũng chẳng có
hai. Trái lại, pháp môn có một không hai là pháp môn còn ở trong vòng tương
đối, mặc dầu nó mệnh danh là độc nhứt.
Xem lại lời giảng pháp môn chẳng
hai của đức Lục Tổ giải cho pháp sư Ấn Tông thì rõ. Nhứt là xem lại đoạn
chú giải về bổn lai diện mục thì hiểu rành pháp môn chẳng hai là gì.
*
LỜI BÀN THÊM
Một vị Tổ sư danh tiếng như đức Lục Tổ Huệ Năng, không lẽ lên pháp toà
thuyết pháp, lại trình bày chỗ dở của Thần Tú. Chúng ta là phàm phu mà còn
chẳng có thái độ đó thay, có lý nào một vị đại sư lại đi phạm một việc nhỏ nhen
như vậy. Chính trong lúc giải thích hai bài kệ, để cho độc giả hiểu rõ hầu ngộ
nhập đúng chơn lý, mà chúng tôi còn sợ độc giả hiểu lầm rằng dịch giả có ý bênh
vực Lục Tổ, nên hết sức dè dặt trong khi viết.
Sa môn Pháp Hải trong khi biên chép, hữu ý để hở cái đề cao thầy của
mình chớ không có gì lạ. Làm như vậy, nếu ai xem Pháp Bửư mà thiếu nhận xét,
thế nào cũng chê Lục Tổ kém đức hạnh. Pháp Hải vô ý làm cho thầy mình mang
tiếng chẳng lành.
Chúng ta thử nghĩ: Pháp Hải làm sao biết được trong lòng sư Thần Tú mà
viết như thế này: “Thần Tú làm kệ xong, mấy phen muốn đem kệ trình cho Tổ xem,
nhưng hễ mỗi lần đi ngang qua trước phòng của Tổ sư, thì trong lòng hốt hoảng,
mồ hôi xuất ra dầm mình.”
Cũng như học trò của Thần Tú, vì muốn cho thầy mình có y pháp mà cả trăm
người cầm gậy hèo đuổi theo Lục Tổ Huệ Năng, làm cho sư Thần Tú mang tiếng ác
muôn đời. Nếu sư Thần Tú xúi bảo học trò của mình rượt theo Lục Tổ, thì sư đâu
có nói được câu này: “… Nếu ta làm kệ mà có ý để cầu làm Tổ, thì là một việc
ác. Bởi vì, làm như vậy chẳng khác nào đem lòng phàm tục để tranh đoạt ngôi
Thánh.”
Những kẻ học đạo đời sau này, bênh vực thầy mình một cách vô lý, hãy xem
gương trên đây, hầu tránh cho thầy của mình khỏi mang tiếng ngàn đời.
Pháp Hải còn để hở vài chỗ sai lầm nữa. Đại để như sư Thần Tú ở trong
phòng suốt đêm trằn trọc lo nghĩ nằm ngồi chẳng an, ngủ nghê chẳng được, v.v…
và v.v…
Dầu có thật như vậy đi nữa, Lục Tổ cũng không lẽ thuật lại trên pháp
toà, là chỗ để thuyết pháp, chẳng phải chỗ để chê người khen mình.
Không lẽ chúng tôi chép hết ra đây, xin độc giả xem lại phẩm thứ nhứt
thì rõ, còn rất nhiều chỗ Pháp Hải chê đè sư Thần Tú và đề cao Lục Tổ.
=======================
=======================
PHẨM
THỨ HAI
NÓI
VỀ BÁT NHÃ (TRÍ HUỆ)
1. Qua ngày sau, Vi Sử quân thỉnh Đại sư lên pháp toà. Khi ấy Đại sư nói
cùng đại chúng rằng: Này các ông thiện tri thức! Các ông hãy tịnh tâm đặng niệm
câu “Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật-đa.”(1)
2. Các ông! Trí huệ Bồ đề Bát-nhã, người đời ai ai cũng có. Nhưng vì
lòng mê muội nó che lấp trí ấy, thành thử dầu có tu hành cũng ít kẻ nhận thấy
được trí huệ Bát-nhã vốn có sẵn ở trong tánh mình. Vậy thì, người tu hành phải
nhờ bậc đại thiện tri thức (bậc trí huệ trong đạo hữu) chỉ bảo mới mong kiến
tánh được.
Các ông nên biết rằng, trong đời tuy có chia ra kẻ ngu người trí, chớ
Phật tánh vẫn không khác. Chỉ vì kẻ mê người ngộ chẳng đồng, cho nên mới có sự
phân biệt giữa kẻ ngu và người trí khác nhau. Ngày nay tôi thể theo pháp Ma-ha
bát-nhã ba-la-mật-đa này mà giảng giải cho các ông nghe, khiến cho ai nấy đều
được trí huệ.
3. Này các ông thiện tri thức! Người tu hành trọn ngày miệng niệm
bát-nhã. Nhưng không có mấy người hân
hạnh được biết đến tự tánh bát-nhã. Những người như vậy, chẳng khác nào miệng
tuy nói ăn, mà thật sự thì chẳng có nuốt được miếng nào vào bụng. Thế thì làm
sao no được. Làm như vậy tức là nói suông, dầu cho muôn kiếp ngàn đời cũng
chẳng được kiến tánh, thật không ích lợi chi hết.
4. Này các ông thiện tri thức! Ma-ha bát-nhã ba-la-mật-đa là tiếng Phạn,
dịch ra chữ gọi là Đại trí huệ đáo bỉ ngạn, tức là trí huệ lớn đến bờ bên kia.
Trí huệ lớn đến bờ bên kia, là pháp môn tu niệm do lòng làm chớ chẳng phải do
miệng niệm.[19]
Miệng niệm mà lòng không chịu làm theo, khác nào như huyễn như hoá, như sương
mù, như chớp giăng. Nếu như miệng niệm mà lòng làm theo, thì lòng và miệng
tương ưng với nhau. Bổn tánh của mình là Phật, lìa tánh ra, không có Phật nào
khác nữa.
5. Thế nào gọi là Ma-ha? Ma-ha là
lớn, nghĩa là tâm lượng rộng lớn như hư không, chẳng có bờ mé, không có vuông,
tròn, lớn, nhỏ; cũng không xanh, vàng, đỏ, trắng; cũng không có trên, dưới,
vắn, dài; cũng không mừng giận, không phải quấy, không lành dữ, không đầu đuôi.
Cho đến các cõi Phật hoá độ cũng đồng như hư không. Cái diệu tánh của người đời
vốn không, chẳng có một pháp nào khá đặng. Tánh chơn không của mình cũng y như
vậy.
6. Này các ông thiện tri thức! Chớ
khá nghe tôi nói “không” rồi đem lòng chấp không.(2) Bằng như để tâm trống không, lẳng lặng ngồi thiền, tức là chấp
trước cái không của tánh vô ký.[20]
7. Các ông thiện tri thức! Hư không thế giới hay bao hàm muôn vật sắc
tướng. Nào là mặt nhựt, mặt nguyệt, tinh tú, địa cầu, núi sông, suối nguồn, khe
rãnh, cỏ cây, rừng bụi, kẻ ác, người lành, pháp dữ, pháp lành, thiên đường, địa
ngục, cả thảy biển lớn, những núi Tu di… tất cả đều ở trong cái KHÔNG đó. Cái
tánh chơn không của người đời cũng y như vậy.
8. Này các ông thiện tri thức! Tánh chơn không của mình bao hàm muôn
pháp như thế đó, nên gọi là Đại. Các ông nên biết rằng: Cả thảy muôn pháp đều
đựng chứa ở trong tánh của mọi người. Bằng như thấy tất cả kẻ dữ người lành,
mà lòng chẳng chấp chẳng bỏ và cũng chẳng nhiễm đến, lòng mình lồng lộng rỗng
rang vắng lặng tợ hư không, nên kêu là Đại.(3)
9. Các ông thiện tri thức! Kẻ mê miệng nói, còn người trí thì lòng làm.
Kẻ mê thì để tâm trống không, lẳng lặng ngồi thiền, trăm việc đều dứt bỏ, chẳng
thèm suy nghĩ đến.[21]
Kẻ mê làm như vậy, rồi tự xưng mình lập hạnh ma-ha. Những người tu hành như
thế, không nên gần họ và cũng không nên chuyện vãn với họ, vì họ còn chấp tà
kiến.
10. Này các ông thiện tri thức! Tâm lượng rộng lớn, châu biến khắp pháp
giới, hễ dùng tới thì làu làu phân minh, còn đem ra ứng dụng, thì rõ biết cả
thảy. Cả thảy tức là một, một tức là cả thảy, lui tới tự do, tâm thể không ngăn
trệ, ấy gọi là trí bát nhã vậy.
11. Thiện tri thức! Cả thảy trí bát nhã đều do trong tánh của mình
sanh ra, chẳng phải do phía ngoài vào, chớ khá dùng lầm ý thức, mới gọi là dùng
đúng chơn tánh của mình.(4)
Một cái chơn, cả thảy đều là chơn, tâm nghĩ lường chuyện lớn đừng theo
đạo nhỏ. Miệng chớ trọn ngày thuyết về
lý Không, mà lòng chẳng tu theo hạnh ấy. Nếu chỉ nói suông mà không thực hành
thì có khác nào kẻ phàm phu tự xưng là quốc vương, mà trọn chẳng đặng vua, thì
chẳng phải môn đệ của tôi.
12. Các ông thiện tri thức! Thế nào gọi là bát nhã? Bất cứ nơi nào,
bất cứ trong lúc nào, niệm niệm chẳng ngu, thường ăn ở theo trí huệ, tức là
hạnh bát nhã vậy.
13. Phải biết rằng: Nếu lòng mình sanh một
niệm ngu thì bát-nhã tuyệt. Trái lại, nếu lòng mình sanh một niệm trí, thì
bát-nhã sanh.(5)
Người đời vì mê, nên không thấy được tánh bát-nhã của mình. Ngoài miệng
cứ nói bát-nhã, nhưng trong lòng thường mê muội, lại nói mình hay tu hạnh
bát-nhã. Niệm niệm nói không, nhưng chẳng hiểu thế nào là chơn không.(6) Bát-nhã không có hình tướng, chính
tâm trí huệ của mình tức là bát-nhã vậy.
14. Này các ông thiện tri thức! Thế nào gọi là ba-la-mật?
Ba-la-mật là tiếng Tây Thiên Trước, dịch là «Đáo bỉ ngạn» nghĩa là đến bờ bên
kia. Giải nghĩa ra, thì gọi là đã xa lìa được lòng sanh diệt. Bằng như chấp
trước cảnh vật bên ngoài, thì tâm sanh diệt dấy lên, chẳng khác nào như nước mà
có sóng dậy ba đào, tức là bờ bên này. Trái lại, nếu lìa cảnh được, thì tâm
không sanh diệt, ví như nước hay lưu thông, tức là bờ bên kia, nên gọi là
ba-la-mật.
15. Này các ông thiện tri thức! Người mê miệng niệm ba-la-mật mà trong
lúc niệm, lòng còn sái quấy. Bằng như miệng niệm mà lòng làm theo, đó là chơn
tánh hiện. Ngộ được pháp môn này, tức là bát-nhã vậy. Ai tu theo hạnh này, gọi
là hành bát-nhã, ai không tu theo hạnh này, tức là kẻ phàm phu. Một niệm tu
hành hạnh bát-nhã, thân này sánh bằng Phật.
16. Các ông thiện tri thức! Phàm phu tức Phật, phiền não tức bồ đề.
Niệm trước mê, tức phàm phu, niệm sau giác ngộ tức Phật. Niệm trước say đắm
trần cảnh tức phiền não, niệm sau lìa cảnh tức bồ đề.(7)
17. Các ông thiện tri thức! Ma-ha bát-nhã ba-la-mật rất cao trôi, rất
tột bậc, rất đệ nhứt, không trụ, không đi, cũng không lại. Chư Phật trong ba
đời (quá khứ, hiện tại, vị lai) đều do trong đó mà ra. Thế thì người tu hành
theo đại thừa, phải dùng đại trí huệ đến bờ kia để đánh dẹp ngũ uẩn, đánh dẹp
phiền não trần lao. Tu hành được như vậy, nhứt định sẽ thành Phật, vì hoá ba
độc (tham, sân, si) thành giới, định, huệ.
18. Này các ông thiện tri thức! Môn tu hành này, do một pháp bát-nhã mà
sanh ra tám vạn bốn ngàn trí huệ. Vì sao được như vậy? Bởi vì người đời có tám
vạn bốn ngàn trần lao. Các ông nên biết rằng: do trần lao phiền não che lấp
gương trí huệ. Bằng không có trần lao phiền não che lấp, thì trí huệ hiển hiện
và không lìa tự tánh của mình vậy.
Nếu ai tỏ ngộ được pháp môn này, thì lòng không còn chấp vào niệm, không
nhớ nghĩ chấp trước những điều đúng sai lành dữ. Không cần phải trừ khử vọng tưởng bởi vì
chính nó cũng hàm chứa bổn tánh chơn như. Ai tu theo pháp môn này, thì phải
biết dùng tánh chơn như của mình bằng cách lấy trí huệ soi xét, đối với nhứt
thiết các pháp chẳng lấy chẳng bỏ, tức là người ấy thấy tánh thành Phật vậy.
19. Này các ông thiện tri thức! Muốn ngộ nhập một cách sâu xa thể tánh
của các pháp và bát-nhã tam muội (tức trí huệ chánh định), thì phải tu hạnh
bát-nhã ba-la-mật, nhứt là thọ trì Kim Cang bát-nhã, thì sẽ đặng thấy tánh
chẳng sai. Phải biết rằng, công đức kinh ấy vô lượng vô biên, ở trong kinh ấy
khen ngợi rất rõ ràng, không thể nói ra hết đây được. Pháp môn (Kim Cang) đó
dành để cho bậc tối thượng thừa, tức là Phật vì người thượng căn đại trí mà nói
ra vậy.
20. Đối với kinh ấy, kẻ tiểu căn hạ trí không bao giờ sanh lòng tin. Là
sở dĩ sao? Bởi vì, cũng như rồng lớn, đổ xuống một trận mưa to nơi cõi Diêm phù
đề, làm cho thành quách, xóm làng đều trôi tất cả. Chẳng khác nào lá táo chịu
chẳng nổi sức nước chảy xiết, phải trôi lăn theo dòng. Trái lại, dầu có mưa to
nơi biển cả, cũng chẳng thấy nước có thêm có bớt.
21. Bậc thượng thừa, hay bậc tối thượng thừa một khi nghe giảng nói Kim
Cang, tâm liền mở tỏ, ngộ giải lý mầu, tự biết bổn tánh của mình vẫn có trí bát
nhã, và tự mình dùng trí huệ mà quán chiếu lấy, chớ không cần mượn đến văn tự.
Chẳng khác nào nước mưa, không phải do trời mà có, rồng cũng có năng lực làm
mưa vậy, khiến cho cả thảy chúng sanh và cây cỏ, nào là loài hữu tình, loài vô
tình, thảy đều gội nhuần mưa móc. Trăm sông ngàn rãnh đều chảy vào biển cả,
hiệp làm một thể. Trí bát nhã ở nơi bổn tánh của chúng sanh cũng y như vậy.
22. Này các ông thiện tri thức! Những người tiểu căn tiểu trí, một khi
nghe pháp Đốn giáo, chẳng khác nào như cây cỏ gốc rễ nhỏ, phải trận mưa to, cả
thảy đều ngã rạp, không thêm được sức lớn. Những người căn trí nhỏ nghe pháp
Đốn giáo cũng y như vậy.
23. Cái trí bát nhã vốn sẵn có ấy, của người ngu cũng như của kẻ trí,
không có chi sai khác. Nhưng cớ sao người ngu nghe pháp Đốn giáo lại chẳng được
tỏ ngộ? Ấy chẳng qua tại nghiệp lực tà kiến điên đảo che lấp quá ư nặng nề. Lại
thêm phiền não vấn vương quá ư sâu dày, chẳng khác nào như vừng mây lớn che lấp
mặt nhựt, nếu không có trận dông thổi tan mây mù, thì ánh quang minh của mặt
nhựt làm sao chiếu tỏ được.
Các ông nên biết rằng: Trí bát-nhã không có lớn nhỏ, nhưng vì tự tâm của
chúng sanh mê, ngộ chẳng đồng, nên có rộng hẹp sâu cạn khác nhau. Kẻ ngu mê
chấp cái thấy ở ngoài tâm mà tu hành cầu Phật bề ngoài, nên chưa tỏ ngộ được tự
tánh, đó là bậc tiểu căn tiểu trí vậy.(8)
24. Bằng như ai tỏ ngộ được pháp môn Đốn
giáo, không mê chấp theo sự tu hành sắc tướng bề ngoài, chỉ do nơi trong tâm
mình hằng phát sanh chánh kiến,[22]
thì các thứ phiền não trần lao không thể xâm chiếm được, đó là kiến tánh vậy.(9)
25. Này các ông thiện tri thức! Bất cứ trong tâm hay ngoài thân,
chẳng nên lưu giữ (trụ chấp) một pháp trần nào, lui tới tự do, đừng cho dính
mắc. Cần nhứt là hãy phá trừ tâm chấp trước thì tất nhiên trong lòng thông suốt
không còn một pháp trần nào ngăn ngại. Tu được cái hạnh phá chấp ấy, đối với
kinh Kim Cang Bát-nhã vốn không sai khác.(10)
26. Các ông thiện tri thức! Các ông nên biết rằng: tất cả kinh điển cùng
là các thứ văn tự, nào đại thừa, nào tiểu thừa, mười hai bộ kinh, đều vì người
mà làm ra, nhờ có trí huệ trong tự tánh mới xây dựng được như vậy. Nếu không có
người đời, thì muôn pháp cũng chẳng có. Thế thì biết rằng: muôn pháp gốc tại
nơi người mà kiến tạo, tất cả kinh sách cũng do nơi người mà giảng nói ra.
27. Nhơn vì trong loài người có kẻ phàm người trí. Kẻ phàm học đạo phải
hỏi người trí, người trí vì kẻ phàm mà thuyết pháp. Nếu kẻ phàm khai tâm tỏ
ngộ, thì đồng với người trí chẳng khác.
28. Này các ông thiện tri thức! Nếu chẳng tỏ ngộ, thì Phật là chúng
sanh. Trái lại, nếu một niệm mà được tỏ ngộ rồi, thì chúng sanh tức là Phật
vậy. Thế thì biết rằng: muôn pháp đều do tự tâm. Thế sao người tu hành chẳng do
nơi tâm mà khai ngộ bổn tánh chơn như của mình, lại đi mê chấp sắc tướng bề
ngoài! Há có phải là mê lầm chăng?
29. Trong kinh Bồ tát giới có nói rằng: “Tự tánh của ta nguyên vốn thanh tịnh, bằng ai biết được tự tâm, thấy
được tự tánh thì người ấy được thành Phật.” Kinh Tịnh Danh có nói: “Tức thời rỗng không,[23] hoàn lại cội lòng.”[24]
Các ông thiện tri thức! Hồi còn
ở với thầy tôi là Ngài Hoằng Nhẫn đại sư, tôi vừa nghe giảng kinh Kim Cang một
lượt, tâm liền tỏ ngộ, thấy được tự tánh chơn như, nên ngày nay tôi dùng giáo
pháp ấy mà truyền bá, khiến cho người đời sau học đạo chóng tỏ ngộ đạo bồ đề,
tự soi chiếu lấy tâm và tự thấy lấy tánh mình.
30. Nếu tự mình chẳng tỏ ngộ, thì nhứt định phải tìm bậc đại thiện tri
thức, là người đã tỏ ngộ hiểu rõ pháp tối thượng thừa chỉ bảo giùm cho con
đường chánh. Bậc thiện tri thức ấy, có nhơn duyên lớn và đủ phương tiện chỉ
giáo cho mình được thấy tánh. Các ông nên biết rằng: Tất cả các pháp lành đều
nhờ thiện hữu tri thức mà phát khởi ra.
31. Chư Phật trong ba đời, mười hai bộ kinh ở trong tánh của mình vốn
sẵn đầy đủ. Nhưng nếu mình chẳng tỏ ngộ được tự tánh, thì phải cầu đến thiện
hữu tri thức chỉ bảo cho. Trái lại, nếu tự mình tỏ ngộ được, thì chẳng cần đến
thiện hữu tri thức. Không nên cố chấp rằng: phải có thiện hữu tri thức và nhờ
họ để giải thoát giùm cho mình. Nếu nghĩ như vậy, thật là lầm to, thật là phi
lý.
32. Là bởi cớ sao? Bởi vì trong tâm của mình vốn sẵn sự tỏ ngộ, đó là
thiện hữu tri thức vậy. Bằng như dấy tâm tà mê, vọng niệm điên đảo thì dầu có
cầu bậc thiện hữu tri thức ở ngoài chỉ dạy cũng không thể cứu vãn được.
33. Nếu như ai phát khởi tâm trí huệ để quán chiếu (soi xét) pháp lý
chơn chánh, thì trong một nháy mắt, tất cả vọng tưởng đều tiêu vong. Còn như ai
tỏ ngộ được tự tánh, thì một niệm tỏ ngộ, ấy là đã đến địa vị Phật vậy.
34. Này các ông thiện tri thức! Nếu biết dùng trí huệ để quán chiếu, thì
trong ngoài đều sáng suốt, thấy rõ bổn tâm mình. Nếu rõ biết bổn tâm, thì
biết nó là nguồn gốc giải thoát vậy.(11)
Nếu biết được sự giải thoát, thì đó là bát nhã tam muội (trí huệ chánh định).
Bát nhã tam muội tức là Vô niệm (không còn vọng niệm).
35. Thế nào gọi là Vô niệm? Nếu thấy tất
cả pháp trần mà lòng không nhiễm tới, gọi là vô niệm. Trong khi ứng dụng lòng
mình tiếp xúc khắp hết thảy các chỗ, các nơi, nhưng mà không dính mắc trụ chấp
một nơi nào, một chỗ nào, một pháp gì.(12)
Do sự ứng dụng tuỳ duyên ấy, nên lòng mình được thanh tịnh, khiến cho
sáu thức ứng ra sáu căn, hiện ra sáu trần, tuyệt nhiên không ô nhiễm, không xen
tạp, tới lui tự do, lòng mình thông dụng không ngăn trệ, đó là trí huệ chánh
định (bát nhã tam muội). Được như vậy, gọi là giải thoát, gọi là hạnh vô niệm.
Các ông phải biết rằng, vô niệm, không có nghĩa là dứt hết sự tưởng
niệm. Nếu dứt mất hết thảy những sự tưởng niệm, tức là tự mình bị pháp trói
buộc, gọi là còn mê chấp một bên vậy
(còn biên kiến).(13)
36. Này các ông thiện tri thức! Nếu tỏ ngộ được pháp vô niệm như trên
đây, thì muôn pháp đều không. Nếu tỏ ngộ được pháp vô niệm thì thấy được cảnh
giới của chư Phật. Nếu tỏ ngộ pháp vô niệm, thì đến địa vị Phật.
37. Các ông thiện tri thức! Người đời sau, nếu ai được cái pháp của tôi
nói ra đây, tức là cái pháp môn Đốn giáo này, hiệp với người đồng thấy, đồng
làm, và phát nguyện thọ trì chẳng khác nào thờ Phật, người ấy trọn đời chẳng
lui sụt, quyết sẽ chứng nhập Thánh vị. Từ xưa đến nay, tuy âm thầm truyền thọ
(mặc truyền), nhưng cặn kẽ rành rẽ, chẳng ai đặng phép giấu giếm chánh pháp.
38. Nếu như, gặp những kẻ bất đồng ý kiến, chẳng cùng một hạnh tu với
mình, nghĩa là họ tu về môn khác, thì chẳng nên truyền phó, sợ e làm hại người
ấy, trọn chẳng ích gì. Bởi vì, kẻ ngu không hiểu rõ, trở lại kích bác pháp môn
này, làm cho cả trăm kiếp y bị dứt mất hạt giống Phật.[25]
39. Này các ông thiện tri thức! Tôi có một bài tụng vô tướng, mọi người
nên thọ trì. Kẻ tại gia và người xuất gia cứ tu theo đó; nếu tự mình chẳng chịu
hành theo, chỉ ghi nhớ cho có chừng, thật là mất công vô ích.
40. Hãy nghe bài Tụng Vô Tướng(14) của tôi đây:
Nói thông tức là
tâm thông,
Cũng như mặt nhật hư không chói
loà,
Chỉ truyền kiến tánh phát ra,
Là môn xuất thế đạo tà dẹp
ngay.
Pháp không đốn tiệm vậy vay,
Kẻ mê người ngộ, chậm mau sự
thường,
Pháp môn kiến tánh diệu phương,
Những người trí nhỏ[26]
dễ thường mó tay.
Pháp nói tuy có biệt sai,
Hiệp nhứt một lý chẳng hai đâu
là,
Phiền não mờ tối trong nhà,
Thường dùng trí huệ chiếu ra tỏ
tường.
Tà đến phiền não vấn vương,
Chánh lại phiền não hết phương
vẫy vùng,
Chánh tà hai tướng chớ dùng,
Ấy là thanh tịnh đại hùng vô
dư.
Bồ đề gốc tánh như như,
Khởi tâm tức vọng, tánh như đâu
còn.
Tịnh
tâm trong vọng là hơn,
Chánh
tâm thanh tịnh không còn chướng ba.[27]
Người
đời theo đạo vậy mà,
Có
chi ngăn ngại lựa là hồ nghi,
Lỗi
mình tự thấy một khi,
Hợp
cùng đạo lý có gì khác nhau.
Loài
sắc tướng vẫn có đạo,
Nó
với ta có phòng não[28]
chi nhau,
Lìa
đạo tìm đạo phương nào,
Trọn
đời cửa đạo tìm vào được đâu.
Lăng
xăng đời trót bể dâu,
Rốt
lại áo não cơ cầu hại thân,
Muốn
tìm thấy mối đạo chân,
Thì
phải làm-chánh đạo chân đó là.
Tự
mình tâm đạo cách xa,
Mò
lần bóng tối, ai mà chỉ cho.
Thiệt
người tâm đạo dặn dò,
Chẳng
thấy lỗi người đắn đo lòng mình.
Còn
như thấy lỗi bất bình,
Lỗi
mình không tránh vô tình gây ra,
Người
quấy mình chớ chê bai,
Chê
là mình đã đi vay lỗi người.
Ghét
thương hai tướng chớ màng,
Ngay chơn an nghỉ thanh nhàn là
hơn,
Có lòng muốn độ chúng nhơn,
Hãy dùng phương tiện thiệt hơn
tỏ bày.
Đừng để kẻ kia nghi ngờ,
Ấy là thiện xảo hiện thời tánh
chơn,
Phật pháp ở tại thế nhơn,
Lìa đời cầu giác chẳng hơn
người mù.
Bồ đề tại thế khá tu,
Bỏ đời tìm đạo như mù rờ voi,
Chánh kiến xuất thế khá noi,
Tà kiến nhập thế hãy soi lại
lòng.
Chánh tà đánh dẹp cho xong,
Bồ đề tự tánh nơi lòng hiển
nhiên,
Kệ này Đốn giáo khá biên,
Cũng tên là đại pháp Thiền nêu
lên.
Kẻ mê luỹ kiếp bỏ quên,
Người ngộ nghe đến thấy liền
bổn tâm.
41. Này các ông thiện tri thức! Ngày nay tôi ở chùa Đại Phạm, nói pháp
môn Đốn giáo này, nguyện khắp cùng chúng sanh trong pháp giới, nghe rồi liền
kiến tánh thành Phật.
42. Khi ấy Vi Sử quân cùng các quan liêu, kẻ đạo người tục nghe đại sư
thuyết pháp, người nào cũng tỉnh ngộ, cùng nhau đồng làm lễ và khen rằng: “Hay
thay! Nào dè xứ Lãnh Nam lại có Phật ra đời.”
* * * * * *
CHÚ GIẢI
(1) Ma-ha Bát-nhã ba la mật đa:
Hán Việt là: Đại Trí huệ đáo bỉ ngạn, dịch nghĩa là “Trí huệ lớn đến bờ
bên kia.”
Ma-ha tuy dịch là “đại” (lớn), nhưng chữ “đại” không hết nghĩa. Cái trí huệ tu
chứng rốt ráo viên mãn, nó thuộc về tuyệt đối. Như vậy, chữ “đại” đứng trước
nó, lẽ tất nhiên cũng phải tuyệt đối, tức là sự rộng lớn vô cùng, vô tận, vô
biên, dầu cho hư không thế giới cũng không thể lớn bằng. Hư không ngậm chứa
biết bao nhiêu thế giới, có thể nói là nhiều đến vô lượng, vô biên. Thế mà
trong kinh Phật nói: “Hư không sanh trong chơn giác, chẳng khác nào lùm mây
sánh với bầu trời rộng lớn bao la, thật là kỳ diệu lạ lùng.”
Bát-nhã: dịch
là trí huệ. Trí huệ có nhiều thứ:
Huyễn trí bát nhã: Trí huệ tu chứng của nhị thừa, còn huyễn chớ chưa
phải thiệt.
Thiệt trí bát nhã: Trí huệ tu chứng của đại thừa, đến chỗ thiệt tướng.
Căn bản trí bát nhã: Trí huệ cội gốc, chúng sanh đều có.
Quán chiếu bát-nhã: Trí huệ quan sát, xét soi,...
Hậu đắc trí bát-nhã: Trí huệ sau khi tu chứng.
Sanh không bát-nhã: Trí huệ vô ngã (vô ngã trí).
Pháp không bát-nhã: Trí huệ phá pháp chấp.
Chơn không bát-nhã: Trí huệ chơn không diệu hữu.
Vô sanh diệt bát-nhã: Trí huệ không sanh không diệt.
Vô trước bát-nhã: Trí huệ không chấp trước.
Vô sở trụ bát-nhã: Trí huệ không chỗ trụ.
Vô sở đắc bát-nhã: Trí huệ không có chỗ đặng.
Vô xả vô thủ bát-nhã: Trí huệ không lấy không bỏ.
Bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm bát-nhã: Trí huệ không nhơ, không
sạch, không thêm, không bớt.
Vô tướng bát-nhã: Trí huệ không tướng.
Phi tướng bát-nhã: Trí huệ chẳng có tướng gì cả.
Tức sắc tức không bát nhã: Trí huệ có mà không, không mà có.
Vô sở trụ tướng bát-nhã: Trí huệ không trụ nơi tướng.
Vô pháp khả đắc bát-nhã: Trí huệ không một pháp nào khả đặng.
Vô tranh bát-nhã: Trí huệ không tranh không chấp.
Tịch tịnh tướng bát-nhã: Tướng thanh tịnh tịch diệt của trí huệ, v.v…
Tóm lại, tu được một môn trí huệ thì phát sanh vô lượng trí huệ khác.
Ba-la-mật-đa:
Đọc tắt là ba-la-mật. Hán Việt gọi là đáo bỉ ngạn, nghĩa là “đến bờ bên kia.”
Người ta thí dụ: Mé bên này là “bến mê,” mé bên kia là “bờ giác.” Người được
đến bờ bên kia, là bậc thánh giải thoát.
Ba-la-mật, nguyên là một câu tục
ngữ của Ấn Độ, khi làm xong một việc gì, họ gọi là ba-la-mật. Ba-la-mật cũng có
nhiều nghĩa khác nhau. Về đại thừa Phật học, thì ba-la-mật có nghĩa là rốt ráo,
viên mãn, cứu cánh, giải thoát, không trụ không chấp, không năng không sở, vô
tướng, vô tác (không có cái làm trong cõi lòng). Một vị Bồ tát khi tu chứng rốt
ráo sáu độ ba-la-mật, thì vị Bồ tát ấy hoàn toàn đồng hoá với tam luân thể
không (ta, người và pháp đều không, ba cái ấy cũng không nhưng chẳng chấp
không).
(2) Chớ khá nghe tôi nói không,
rồi đem lòng chấp không. Bằng như để tâm trống không, lăng xăng ngồi thiền, tức
là chấp trước cái không của tánh vô ký.
Những người chưa từng học hỏi giáo
lý đại thừa, hoặc có học mà chưa tỏ ngộ, trong khi xem sách, hoặc nghe người ta
nói không, liền kích bác rằng: cái gì cũng có tất cả chớ chẳng có cái gì không
v.v… Hoặc có người nghe nói không, liền chấp không, chẳng có gì hết. Hai hạng
trên đây, nên gần thiện hữu tri thức, có ngày cũng được tỏ ngộ nghĩa lý đại
thừa.
Trong lúc tham thiền, sau một hồi
quán lý (suy xét), thường sanh ra tánh vô ký và hôn trầm.[29]
Hoặc giả, có người không quán lý, cứ ngồi trơ trơ như cột nhà, đó là chấp trước
tánh vô ký. Nếu không phải vì ngồi lâu, vì chấp trước tánh vô ký, thì tại định
nhiều hơn huệ (quán trí) mà sanh ra cảnh giới không không. Nếu định
nhiều hơn huệ lẽ tự nhiên phải lọt vào cảnh giới vô ký, kế đó là hôn trầm. Trái
lại, nếu huệ nhiều hơn định sẽ sanh ra tà kiến (hiểu biết sai chơn lý).[30]
(3) Bằng như thấy tất cả kẻ dữ
người lành, mà lòng chẳng chấp, chẳng bỏ và cũng chẳng nhiễm đến, lòng mình
lồng lộng rỗng rang vắng lặng tợ hư không, nên gọi là Đại (ma-ha).
Đây là những lời của Tổ dạy môn đệ
trong lúc xử thế tiếp vật, trực tiếp với tất cả ngoại cảnh sáu trần. Đối với
hoàn cảnh chung quanh chẳng riêng gì kẻ dữ người lành, cho đến món ăn thức
uống, chỗ ở, đồ dùng, v.v… không nên có lòng lựa chọn món này, chán chê món
khác, trừ phi cái gì có hại mới lựa chọn mà thôi.
Nếu còn lấy (thủ) có nghĩa là lòng
còn ưa thích. Nếu còn bỏ (xả) tức là lòng còn chán chê. Nếu còn lấy tức là còn
chấp có, còn bỏ tức là còn chấp không.
Nếu còn lấy tức là còn ngã chấp,
vì còn chiều theo ý thích của cái ta. Còn bỏ cũng còn ngã chấp, vì vật ấy, món
ấy không vừa ý thích của cái ta.
Nếu còn lấy, tức là còn pháp chấp.
Không chấp pháp thì đâu còn pháp nào nữa mà lấy. Còn bỏ cũng là còn chấp pháp,
là vì nếu không có pháp, thì cần gì xả bỏ.
Nếu còn lấy còn bỏ, đó là còn kẹt
hai bên biên kiến, nghĩa là còn quay cuồng trong các pháp tương đối hay còn gọi
là các pháp nhị nguyên. Một bên tốt, một bên xấu, một bên nhiều, một bên ít,
một bên nhẹ, một bên nặng, v.v… Vì còn mê chấp sai biệt các pháp đối đãi như
vậy, mới chọn lấy pháp này, xả bỏ pháp kia.
Nếu còn lấy còn bỏ là chưa hoàn
toàn minh tâm kiến tánh, vì còn kẹt ngã–pháp, còn biên kiến, chẳng rõ được toàn
thể đại dụng của các pháp.
Nói tóm lại, từ miếng ăn thức
uống, kẻ lạ người quen, kẻ dữ người lành, vật tốt vật xấu, chỗ cực chỗ sướng,
chỗ sang chỗ hèn, v.v… mà còn lấy còn bỏ, đều là do hành tướng của ngã chấp và
pháp chấp mà ra. Trong lúc hoà quang hỗn tục (tức là lúc hoà đồng với mọi cảnh
mọi vật), mà còn thấy mình khác hơn cảnh vật, khác hơn mọi người, đó là cái
nguyên động lực của ngã chấp hiện hành rất tế nhị. Trong lúc hoà quang hỗn tục
mà còn thủ còn xả, đó là hành tướng thô thiển của pháp chấp hiển hiện.
Đối với các pháp, dầu Đạo hay Đời,
có lấy có bỏ tức là còn thương cái này, còn ghét cái kia. Còn thương ghét tức
là còn khổ còn vui. Có khổ có vui là có sân hận, tức là còn vô minh, đó là phàm
phu tục tử chớ chẳng phải bực thánh giải thoát. Hễ ưa thì chấp thủ, còn ghét
thì xa lìa xả bỏ, rồi từ thói xấu này sanh ra tật hư nọ, tật hư nọ sanh ra bệnh
chứng khác, v.v…
Thực hành được cái tâm bình đẳng
không lấy không bỏ, thì tất cả thói xấu tật hư đều tiêu vong, lại chứng được
Trung đạo đệ nhứt nghĩa, lòng được rỗng rang vắng lặng thanh tịnh, như vậy Tổ
cho là Ma-ha (Đại).
(4) Cả thảy trí bát nhã đều do
trong tánh của mình sanh ra, chẳng phải do phía ngoài vào, chớ khá dùng lầm ý
thức, mới gọi là dùng đúng chơn tánh của mình.
Bổn tánh sanh ra trí huệ, tức là
Thể sanh ra Dụng vậy. Người tu hành sử dụng trí huệ mỗi người mỗi khác. Sở dĩ
có sai biệt là do căn trí cao thấp bất đồng. Kẻ thì dùng Quán chiếu bát-nhã để
phá phiền não và đoạn trừ các thói xấu tật hư. Người thì dùng Sanh không
bát-nhã để phá tướng ta, tướng người, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, hầu
chứng được sanh không chơn như. Có vị lại dùng Pháp không bát nhã dẹp trừ phá
chấp, để chứng Pháp không chơn như. Có ông lại dùng Thiệt trí bát nhã đặng ngộ
nhập đúng chơn lý, đúng Thiệt tướng, v.v…
Nói tóm lại, chúng sanh có tám vạn
bốn ngàn trần lao, thì Phật có tám vạn bốn ngàn môn trí huệ để tu hành.
Những người kiến tánh chưa rốt
ráo, đạo tâm còn non nớt, trí huệ còn phôi thai, hãy nghe lời dạy bảo của đức
Lục Tổ là “chớ dùng lầm ý thức.” Bởi vì khi trí huệ còn phôi thai, đạo
lực chưa được kiên cố, thường bị ý thức xen vào, rồi lầm tưởng là trí huệ, rất
hại cho sự tu hành.
Thế thì hằng ngày phải cố gắng ăn
ở theo lý trí, đừng xuôi theo ý thức vậy. Trong khi đó, nhờ giới luật và sức hộ
niệm đạo tâm phù trợ, thế nào cũng ít lầm lỗi. Muốn phân biệt trí huệ và ý thức
để khỏi dùng lầm ý thức, chẳng có cách nào hay hơn là phân tách cho được các
thứ bát nhã chuyên về phá ngã chấp, pháp chấp; nếu cái nào không có công dụng
tu chứng trong các thứ bát nhã, đó là ý thức hiện hành.
(5) Bất cứ ở chỗ nào, bất cứ ở
trong lúc nào, niệm niệm chẳng ngu, thường ăn ở theo trí huệ, tức là hạnh bát
nhã. Nếu lòng mình sanh một niệm ngu, thì bát nhã tuyệt. Trái lại, nếu lòng
mình sanh một niệm trí thì bát nhã sanh.
Bất cứ đi đứng, nằm ngồi, chỗ nào
thời khắc nào, niệm niệm chẳng ngu, nghĩa là những điều nghĩ nhớ trong tư tưởng
đừng cho nhiễm một mảy hồng trần. Nếu có một niệm tưởng mê đắm, đó là một niệm
ngu. Một niệm ngu sanh ra, các niệm ngu khác nối nhau, niệm này sanh niệm kia,
niệm kia sanh niệm nọ, làm cho trí bát nhã không đường trổ mặt, gọi là bát nhã
tuyệt. Trái lại, nếu lòng mình sanh một niệm trí, trí huệ này dẫn trí huệ kia,
trí huệ kia dắt trí huệ nọ, trí huệ nó mở trí huệ khác nữa. Cứ thế mà trí huệ
lan rộng, đến chỗ đại trí huệ quang minh.
Người không tu huệ, trí bát nhã bị
che lấp giờ này qua giờ kia, ngày này qua ngày nọ. Có thể trí huệ bị chôn vùi
cả kiếp cũng không biết chừng. Trái lại, người biết tu huệ, thì trí bát nhã bị
che lấp trong vài phút là cùng.
(6) Niệm niệm nói không, nhưng
không hiểu thế nào là chơn không.
Chơn không, chẳng phải là không
hẳn chẳng có gì hết. Cũng chẳng phải tiêu diệt cái hữu hình ra cái vô hình, mà
gọi là cái không của đại thừa. Nhiều khi người ta chỉ nói “Không,” chẳng nói
chơn không, người tỏ ngộ cũng hiểu đó là chơn không bất không.
Chơn không có nhiều nghĩa:
1. Các pháp tuy có, nhưng thể tánh
của nó hằng không, gọi là tánh không (thể tánh hằng không, vị chi tánh không).
2. Cái Có và cái Không nương nhau
mà đặt tên ra, bổn tánh chơn như chẳng phải có chẳng phải không. Bổn tánh chơn
như chỉ là một cưỡng danh thôi.
3. Đương có mà không, đương không
mà có (đương sắc tức không, đương không tức sắc).
4. Có với không bình đẳng.
5. Có với không viên dung.
6. Có tức là không, không tức là
có.
7. Có chẳng khác gì không, không
chẳng khác gì có.
8. Không là có, có là không (tức
sắc tức không).
9. Hễ nói chơn không, thì bất cứ
vật chất hay tinh thần cũng chơn không, nghĩa là vụ trụ vạn hữu đều là chơn
không tất cả.
10. Chơn không là Trung đạo đệ
nhứt nghĩa.
11. Chơn không là Trung đạo tuyệt
đối (Tuyệt đối trung) chẳng phải Trung đạo tương đối (Đối thiên trung), v.v....
Nói tóm lại, chơn không là chỗ tu
chứng rốt ráo viên mãn của đạo vô thượng bồ đề. Cái không của Đại thừa có nhiều
nghĩa trên đây, chẳng thể chấp có hoặc chấp không, hoặc chấp cũng có cũng
không, chấp chẳng phải cũng có, chẳng phải cũng không... đều sai nghĩa viên
dung bình đẳng.
(7) Niệm trước ngu mê tức phàm
phu, niệm sau giác ngộ tức Phật, niệm trước say đắm trần cảnh tức phiền não,
niệm sau lìa cảnh tức bồ đề (giác, cũng gọi là Phật).
Người tu hành chưa hoàn toàn thanh
tịnh, tâm niệm thỉnh thoảng có sai quấy, có mê nhiễm ngoại cảnh sáu trần (sắc,
thinh, hương, vị, xúc, pháp). Nếu trong lòng khởi ra một niệm sai lầm hoặc đắm
cảnh, thì đó là ngu mê, là phiền não, phải lập tức chận đứng nó lại và đổi ra
cái niệm giác ngộ, nghĩa là đánh thức lòng mình bằng cách suy nghĩ chánh lý.
Niệm trước là tâm chúng sanh u mê,
say đắm trần cảnh tức phàm. Niệm sau là tâm Phật, đánh dẹp niệm trước tức
thánh. Phàm là mê, thánh là giác. Phàm là chúng sanh, thánh là Phật. Phàm hay
thánh, chúng sanh hay Phật, chỉ khác nhau có một niệm mê hay ngộ thôi.
Những người chưa hoàn toàn thanh
tịnh, lúc khởi niệm mê, lúc khởi niệm giác (lúc niệm Phật, lúc niệm chúng
sanh). Đó là tâm còn sanh, còn dùng diệt mà dứt sanh. Sanh rồi diệt, diệt rồi
sanh, đó là tâm sanh diệt. Trái lại, những bậc hoàn toàn thanh tịnh, tâm niệm
cũng còn khởi, nhưng vì tuỳ duyên mà khởi. Nếu lòng không còn niệm nào khởi ra
được, đó là cây khô cá chết, chồi khô giống lép.
Cái khởi của bậc thanh tịnh trong
sự ăn, mặc, ở đều tuỳ duyên. Trái lại, cái khởi của phàm phu trong sự ăn, mặc,
ở do mê nhiễm sai khiến. Biết được cái khởi của tâm chúng sanh, rồi dùng tâm
Phật đánh dẹp, đó là người kiến tánh sơ bộ. Vọng với chơn không phải hai thể,
biết được vọng, thì vọng tức chơn. Trái lại, chấp chơn thì chơn trở thành vọng.
Ở giai đoạn này, người kiến tánh sơ bộ nên biết cho được vọng, và dẹp trừ cái
vọng ấy, nhứt là đừng chấp chơn, thì hoàn toàn minh tâm kiến tánh.
Đức Lục Tổ có nói: “Bằng như ai tỏ
ngộ được pháp môn Đốn giáo, không mê chấp theo sự tu hành bề ngoài, chỉ do nơi
trong tâm mình hằng phát sanh chánh kiến, thì các thứ phiền não trần lao không
thể xâm chiếm được, đó là kiến tánh vậy.”
(8) Kẻ ngu mê chấp cái thấy ở
ngoài tâm mà tu hành, cầu Phật bề ngoài, nên chưa tỏ ngộ được tự tánh, đó là
bực tiểu căn, tiểu trí.
Tu hành tuy có nhiều bậc, nhưng
thật ra thì có hai hạng mê và ngộ. Kẻ mê thì thích âm thinh sắc tướng bề ngoài;
ưa tụng kinh hê ha, trống, mõ, chuông, đẩu; ưa hồng y bá nạp; chuông Phật lớn,
Phật nhỏ; chùa nghèo, chùa giàu. Nghĩa là kẻ mê thích rùm beng bề ngoài, bỏ
quên tánh Phật bên trong của mình thật đáng tiếc.
Phẩm Bát-Nhã, Lục Tổ cho chúng ta
biết được sự thật ở trong các chùa thời xưa, sư nào cũng chuyên tụng kinh Kim
Cang Bát Nhã một cách lão thông. Nhưng, không có được một người nào tỏ ngộ được
tự tánh bát nhã, toàn là nói suông ngoài miệng mà thôi. Đối với trí bát-nhã mà
học bề ngoài, cũng như đối với Phật mà chạy theo ngoại cảnh như người đời nay,
thật là uổng công, uổng tiền và uổng thì giờ biết bao! Tâm mình là Phật, còn
tìm Phật ở ngoài, có khác nào đã ở sông mà đi tìm nước, đã ở non mà lại đi tìm
đá, đã ở bãi sa mạc mà còn đi tìm cát, có phải là mê chăng?
(9) Song bất cứ ai, dù ở căn tánh
nào, nếu nghe được và ngộ được pháp môn Đốn giáo, không mê chấp theo sự tu hành
sắc tướng bề ngoài, chỉ do trong tâm mình, hằng phát sanh chánh kiến, thì các
thứ phiền não trần lao không thể xâm chiếm được, đó là kiến tánh vậy.
Đây là một phương pháp hành đạo
đặc biệt cho những người mới kiến tánh lần đầu tiên chưa được rốt ráo. Hoặc
giả, nếu ai chưa kiến tánh, hay không hiểu phương pháp làm cho mình được kiến
tánh, hãy xem lời nói trên đây của đức Lục Tổ mà làm theo, thì sẽ được minh tâm
kiến tánh. Muốn làm theo lời chỉ dạy của Lục Tổ, trước hết phải hiểu rõ “Chánh
Kiến” là gì.
Chánh là chơn
chánh, là lẽ phải. Kiến, là tri kiến, tức là sự hiểu biết,
sự nhận thức, sự suy nghĩ, sự xét đoán. Muốn có chánh kiến, phải làm theo những
điều dưới đây:
Một, là thường
suy nghĩ chơn chánh. Hai, là thường nghiệm tầm chánh lý trong khi xem
kinh. Ba, là nghe nhiều trong các diễn đàn và trong khi thảo luận để
trao đổi ý kiến về Phật pháp để mở rộng tầm kiến thức. Bốn, là trau dồi
tâm tánh, chừa bỏ thói xấu tật hư. Nếu thói xấu tật hư còn dẫy đầy, đó là kẻ
tà, làm sao có kiến thức chơn chánh. Năm, là trừ các thói mê nhiễm, lần lần
trở nên thanh tịnh. Nếu còn mê nhiễm trần cảnh, thì khó mà có một kiến thức
chơn chánh. Sáu, là phải phá ngã chấp (phá chấp có ta) để cho có sự hiểu
biết khách quan. Nếu còn chấp ngã, tức là còn chủ quan, khó mà có một kiến thức
bình đẳng vô tư được. Bảy, là phải phá pháp chấp cho tâm trở nên hoàn
toàn thanh tịnh, không bị vật dục lôi cuốn. Nếu để cho vật dục lôi cuốn thì
không có sự hiểu biết chơn chánh.
Bất cứ người tu hành nào cũng vậy,
phải có sự học hỏi và trau dồi tâm tánh, mới có sự hiểu biết chánh lý đúng với
Phật pháp. Nếu bất thông hiểu, lại thêm mê nhiễm trần thế, cùng là thói xấu tật
hư dẫy đầy, thì sự hiểu biết toàn là tà kiến điên đảo, không thể tu học pháp
môn Đốn giáo được.
Đã rõ tà kiến, chánh kiến là thế
nào rồi, bây giờ thực hành theo lời Lục Tổ đặng minh tâm kiến tánh. Tổ nói: “Không
mê chấp theo sự tu hành sắc tướng bề ngoài, chỉ do trong tâm mình hằng phát
sanh chánh kiến, thì các thứ phiền não trần lao không thể xâm chiếm được, đó là
kiến tánh vậy.” Lời nói trong câu này, chẳng có gì khó hiểu, một khi đã
hiểu thế nào là chánh kiến (xin xem lại chỗ giải thích một niệm ngu thì
bát-nhã tuyệt, một niệm trí thì bát-nhã sanh, để thêm sự hiểu biết ở đây).
(10) Bất cứ trong tâm hay ngoài
thân, chẳng nên lưu giữ (trụ chấp) một pháp trần nào, lui tới tự do, đừng cho
dính mắc. Cần nhứt là hãy phá trừ cái tâm chấp trước thì lẽ tất nhiên trong
lòng thông suốt, không còn một pháp trần nào ngăn ngại. Tu được hạnh phá chấp
ấy, đối với kinh Kim Cang Bát-nhã vốn không sai khác.
Cả thảy vạn sự vạn vật gồm trong
sáu món trần (lục trần) làm thành một hoàn cảnh bao bọc thân tâm con người. Kẻ
mê thì cho tâm chẳng phải cảnh, cảnh chẳng phải tâm, nghĩa là họ phân biệt tâm
với cảnh riêng biệt khác nhau. Vì phân biệt khác nhau, nên đem tâm chấp cảnh và
bị cảnh đeo níu chi phối. Do lẽ ấy, tất cả chúng sanh đều bị ngoại cảnh lục
trần xô đẩy, trói buộc một cách mạnh mẽ gắt gao còn hơn ở trong tù. Đó là do
lưu giữ (trụ chấp) hình dáng bóng ảnh ngoại trần vào trong tâm. Hễ cảnh vừa ý,
thì vui sướng, còn cảnh trái nghịch, lại sanh khổ tâm.
Nói tắt là, tất cả phiền não vấn
vương, tất cả thói xấu tật hư, tất cả hạnh phúc giả nguỵ, tất cả tội lỗi ghê
gớm v.v… đều do tâm đeo níu (chấp trước) ngoại cảnh lục trần mà ra. Người tu
hành không được tự do giải thoát, nguyên nhân cũng tại chấp cảnh mà ra. Bởi vậy
đức Lục Tổ bảo: “Bất cứ trong tâm hay ngoài thân chẳng nên trụ
chấp một mảy trần nào, thì tự nhiên lui tới tự do, không còn bị dính mắc một
pháp trần nào nữa.”
Tâm trụ vào những chuyện lo nghĩ
bên trong, tâm chấp trước cảnh vật bên ngoài. Thế thì, tâm mắc kẹt, mà thân
cũng không đường thoát, làm sao gọi là lui tới tự do.
(11) Nếu biết rõ bổn tâm, thì biết
nó là nguồn gốc giải thoát vậy.
Phật pháp là bất định pháp, sự
giải thích cũng như sự thuyết pháp, không thể nhất luật, chỉ tuỳ cơ duyên, tuỳ
câu văn, tuỳ người nghe pháp mà nói. Trước kia đức Lục Tổ nói với pháp sư Ấn
Tông rằng: “Ngũ Tổ không chỉ dạy pháp thiền định và giải thoát, chỉ luận bàn
kiến tánh mà thôi.” Đó là Lục Tổ biết trình độ tu học của Ấn Tông pháp sư
đã đến mức có thể tỏ ngộ được, nên Tổ mới nói như vậy. Trái lại, ở đoạn này Lục
Tổ lại chỉ cái nguồn gốc giải thoát là bổn tâm, nghĩa là Lục Tổ có chỉ dạy pháp
giải thoát. Khi giải thích thế nào là Vô Niệm, Tổ cũng đã chỉ dạy pháp giải
thoát một cách rành mạch hơn nữa.
Ngoài ra, đến phẩm Định Huệ, Lục
Tổ cũng có chỉ dạy pháp thiền định nữa. Chẳng phải tự mâu thuẫn lấy mình, ấy là
tuỳ duyên hoá độ. Cho nên, trước kia nói không chỉ dạy pháp thiền định và giải
thoát, sau lại chỉ dạy hai pháp ấy.
Tuy nhiên pháp thiền định và giải
thoát của Tổ dạy, không đi lần từ thấp lên cao. Ngài chỉ dạy Nhứt thừa. Thiền
là tự tánh thanh tịnh thiền, hay thiền ba-la-mật, chẳng cần phải ngồi giờ này
sang giờ kia. Tu thiền mà còn ngồi thì chưa rốt ráo. Bất cứ đi, đứng, nằm, ngồi
gì cũng là thiền; ở đâu, chỗ nào, làm việc chi cũng là thiền, đúng với lời nói “Nhật
dụng vô phi đạo, tâm an tức thị thiền.” Nghĩa là các việc dùng hằng ngày,
như ăn mặc ở v.v… toàn là đạo cả, trong lòng an ổn tự tại đó là thiền. Thiền mà
còn ngồi để quán lý, còn dùng trí huệ để tu chứng, đó là còn đang tầm chơn học
giác, chưa phải là tự tánh thanh tịnh thiền.
Còn pháp giải thoát, Tổ chỉ ngay
cái bổn tâm bổn tánh mình, là nguồn gốc giải thoát. Bởi vì, tự tánh bổn lai vô
nhứt vật, tự tánh bổn lai thanh tịnh tịch diệt. Nó đã thanh tịnh, không cấu
nhiễm một vật, vốn tự do, tự tại, vô ngại, đâu có bị trói buộc hồi nào mà cởi
mở (giải thoát) cho nó. Đó là Tổ chỉ dạy pháp giải thoát của nhứt thừa thiệt
tướng vậy.
(12) Thế nào là Vô niệm? Nếu thấy
tất cả pháp trần mà lòng không nhiễm tới, gọi là Vô niệm. Trong khi ứng dụng
lòng mình tiếp xúc khắp hết thảy các chỗ các nơi, mà lòng không dính mắc (trụ
chấp) một nơi nào, một chỗ nào, một pháp gì.
Thế nào gọi là vô niệm? Tự hỏi,
rồi tự trả lời.
Chỗ trả lời của Tổ cho biết rằng:
Vô niệm là không vọng niệm tạp tưởng, tức là không ô nhiễm ngoại cảnh sáu trần.
Tâm không duyên với các pháp, nên không có tâm vọng niệm, đó là pháp vô niệm
của Lục Tổ.
Trong khi ứng dụng, lòng mình tiếp
xúc khắp hết thảy các chỗ các nơi, nhưng mà không dính mắc trụ chấp một nơi
nào, một chỗ nào, một pháp gì. Phải biết rằng: Hễ thanh tịnh rồi, thì lòng
người học đạo cũng như cái gương soi, bất cứ bóng ảnh nào hiện trong đó, rồi
cũng lìa đó chớ không dính mắc. Sở dĩ được như vậy là do phá cái chấp trước
ngoại cảnh lục trần. Nhưng làm sao phá tâm chấp trước, để cho lòng mình trở nên
thanh tịnh như gương soi, vô tình hiện ảnh mà cũng vô tình lìa ảnh. Muốn được
như vậy, phải ra công tu hành phá pháp chấp. Muốn phá pháp chấp để cho tâm
không còn mê nhiễm sắc tướng, lẽ tức nhiên là phải nhờ đến sự giác ngộ.
Người tu hành nào giác ngộ được
muôn sự muôn vật trần cảnh là giả tạm, là mộng ảnh, là hình bóng dưới nước, là
tiếng vang... thì người ấy phá được tâm chấp pháp, lòng không còn mê đắm trần
cảnh nữa, đó là thanh tịnh. Người tu hành đã thanh tịnh rồi, hằng ngày đối với
ngoại cảnh sáu trần, chỉ tuỳ duyên, chớ chẳng phải bị trần duyên câu thúc. Nếu
còn tuỳ duyên, tức là còn tưởng niệm, chớ chẳng phải dứt mất tất cả sự tưởng
niệm. Những sự ăn mặc ở, đi đứng, làm việc, tiếp khách, buôn bán v.v… là những
điều mượn giả làm thiệt (tá giả vi chơn) cũng gọi là dĩ huyễn độ chơn. Người
biết lửa đỏ (người tỏ ngộ), dùng lửa đỏ không phỏng tay. Trái lại, kẻ không
biết lửa đỏ (kẻ mê), dùng lửa thì bị phỏng cùng mình. Mê với ngộ tuy khác,
nhưng hai đàng cũng còn nhu dụng hằng ngày với nhau. Tuy nhiên, một đàng (người
ngộ) thì tự do tự tại giải thoát, còn một đàng (kẻ mê) thì trầm luân khổ hải.
Nói tắt là: nếu không thanh tịnh thì không thể nào tuỳ duyên được, nghĩa là
không thể thực hành lời nói của Tổ được.
(13) Vô niệm, không có nghĩa là
tuyệt dứt hết thảy sự tưởng niệm. Nếu mà dứt mất hết thảy những sự tưởng niệm
tức là mình bị pháp nó trói buộc, gọi là còn mê chấp một bên vậy.
Đã giải thích nghĩa lý vô niệm ở
trên, Tổ sợ còn có người chưa hiểu rõ, nên kế đó Tổ nói thêm: “Nếu mà tiêu
diệt hết các niệm tưởng, đó là tự mình bị pháp nó trói buộc.” Tu pháp nào,
bị pháp đó trói buộc là lẽ dĩ nhiên. Thế thì chẳng nên chấp các pháp đang tu
hành hay sao? Muốn trả lời câu hỏi này cho đúng, phải biết mình đang tu hành ở
bậc nào. Bậc thấp thì trả lời rằng: còn đau bại mà bỏ gậy, thế nào cũng té. Bậc
cao thì nói: Hết đau bại mà còn chấp gậy, thì bị gậy nó trói buộc. Bực rốt ráo
thì nói rằng: bịnh của chúng sanh không thiệt có, như hoa đốm giữa hư không,
sanh tử vốn không, Niết bàn như mộng, có gì mà tu mà chứng.
(14) Tụng Vô Tướng:
Nói
không tức là tâm không,
Cũng
như mặt nhật hư không chói loà.
Chỉ
truyền kiến tánh phát ra,
Là
môn xuất thế đạo tà dẹp ngay.
Từ ngày, nơi Pháp hội Linh Sơn,
Đại phạm Thiên Vương dưng hoa sen vàng lên đức Thế Tôn, Ngài cầm hoa mỉm cười,
làm thinh chẳng nói chi cả. Trong Pháp hội, chẳng một ai hiểu vì sao đức Thế
Tôn cười. Riêng chỉ có một ông Đại Ca Diếp biết được, nên cũng mỉm cười theo.
Đức Thế Tôn bèn nói rằng: “Này các vị tỳ kheo! Ta có Chánh Pháp Nhãn Tạng Niết
Bàn diệu tâm, đáng truyền trao cho Ma-ha Ca Diếp.” Đó là cái do lai Thiền Tông
Đốn Giáo xuất thế chỉ dạy pháp môn kiến tánh, bởi với pháp môn này, nếu tâm
chưa thông thì không bao giờ nói thông được, nói thông được tức là tâm đã tỏ
thông rồi vậy.
Pháp
không Đốn–Tiệm vậy vay,
Kẻ
mê người ngộ chậm mau sự thường.
Pháp
môn kiến tánh diệu phương,
Những
người trí nhỏ dễ thường mó tay.
Pháp không có mau chậm, do kẻ mê
người ngộ nên có chậm mau, đó là cái lẽ dĩ nhiên. Kiến tánh là một pháp môn chỉ
thẳng lòng người thấy tánh thành Phật. Pháp môn này dành cho bực thượng căn
thượng trí, kẻ hạ căn hạ trí khó thể tu học được.
Pháp
nói tuy có biệt sai,
Hiệp
nhứt một lý chẳng hai đâu là.
Phiền
não mờ tối trong nhà,
Thường
dùng trí huệ chiếu ra tỏ tường.
Do căn cơ trình độ của chúng sanh
bất đồng, nên Phật pháp mới có sai biệt khác nhau, chia ra nào Tiệm giáo, Đốn
giáo, Huyền giáo, Mật giáo, Hiển giáo... nhưng đến chỗ rốt ráo, chỉ có một lý
nhứt tâm mà thôi. Nếu người nào chưa được hoàn toàn thanh tịnh, thỉnh thoảng
phiền não xâm nhập cõi lòng, hãy dùng trí huệ mà quán xét, tự nhiên phiền não
phải lui.
Tà
đến phiền não vấn vương,
Chánh
lại phiền não hết phương vẫy vùng.
Chánh
ta hai tướng chớ dùng,
Ấy
là thanh tịnh đại hùng vô dư.
Tà, là tà kiến, là những điều hiểu
biết sai lầm không đúng chơn lý. Chánh, là chánh kiến, là sự hiểu biết chơn
chánh. Khi nào tà kiến vấn vương, lập tức dùng chánh kiến để giác ngộ nó. Người
tu hành bất cứ theo pháp môn nào, một khi phiền não xâm chiếm cõi lòng thì phải
có ánh huệ để soi chiếu. Làm được như vậy cũng gọi là kiến tánh, nhưng chưa
được rốt ráo. Đến lúc không dùng giác để chống với mê, mới là hoàn toàn thanh
tịnh cho. Khi đã được thanh tịnh rồi thì không chấp giữ chánh kiến, tức không
chấp giữ những chơn lý đã giác ngộ. Được như vậy là bậc đại hùng đại lực, bậc
chứng quả Niết bàn.
Bồ
đề gốc tánh như như,
Khởi
tâm tức vọng tánh như đâu còn.
Tâm bồ đề là gốc tánh vốn như như,
chẳng phải đợi tu hành mới như như. Tâm bồ đề như vậy, nếu khởi tâm, dầu là
khởi tâm chơn, tâm thanh tịnh, tâm tịch diệt... chẳng khác nào cái gương soi
rất trong sạch mà cứ lau chùi mãi, thành ra bị sự lau chùi trói buộc thân tâm.
Tâm bồ đề đâu có sanh diệt mà khởi
tâm muốn làm cho nó như như.
Tâm bồ đề đâu có uế trược mà khởi
tâm muốn làm cho nó thanh tịnh.
Tâm bồ đề đâu có vọng mà khởi tâm
muốn làm cho nó chơn.
Tâm bồ đề đâu có mê mà khởi tâm
muốn làm cho nó trở nên giác.
Càng khởi tâm, càng làm cho tánh
như chẳng còn là bởi cái lẽ như vậy. Chẳng còn là tại thói mê của mình che lấp
nó, chẳng phải nó diệt mất, chẳng khác nào mây che lấp mặt nhựt, chớ chẳng phải
mặt nhựt biến mất. Rõ ràng, siêu khởi chơn như tổng thị tà (khởi tâm chơn như
để siêu thoát, toàn là tà kiến cả thảy).
Tịnh
tâm trong vọng là hơn,
Chánh
tâm thanh tịnh không còn chướng ba.
Nhiều người lầm tưởng rằng: Tâm
vọng, tâm chơn khác nhau. Tâm mê, tâm giác khác nhau... cho nên họ bỏ tâm vọng
để cầu tâm chơn, hoặc bỏ tâm mê để cầu tâm giác. Ôi! lìa mê mà cầu giác, lìa
động mà cầu tịnh, đều là tà kiến điên đảo cả. Muốn có chơn, thì cứ ở nơi vọng
mà tìm xứ sở của nó, hành tướng của nó, biết được nó, hiểu được nó, đó là chơn.
Nếu chạy đi tìm cái chơn ở đâu khác, chẳng khác nào tìm lông rùa sừng thỏ. Bởi
vậy Tổ mới nói: Tịnh tâm ở trong vọng là đắc sách hơn hết. Khi cái tâm đã tịnh
rồi, tức là cái tâm chơn chánh không còn có ba chướng nữa.
Người
đời theo đạo vậy mà,
Có
khi ngăn ngại lựa là hồ nghi.
Lỗi
mình tự thấy một khi,
Hợp
cùng lý đạo có gì khác nhau.
Người đời nếu muốn học đạo thì
đừng có hồ nghi bông lông thành ra ngăn ngại đạo tâm. Hễ tìm thấy được lỗi
mình, đó là hiệp với lý đạo. Bởi vì pháp môn kiến tánh, giải nghĩa theo thường
tình, thì người tu hành tự thấy tánh nết hư hèn của mình mà trau dồi sửa đổi
chớ không có gì lạ.
Loài
sắc tướng vẫn có đạo,
Nó
với ta có phòng não chi nhau.
Lìa
đạo tìm đạo nơi nao,
Trọn
đời cửa đạo tìm vào được đâu.
Muôn loài vạn vật đều có đạo, ấy
là con đường dịch chuyển và tiến hoá chung của vạn hữu vũ trụ. Theo sắc tướng
sai biệt bề ngoài của các pháp, thì vật này kỵ với món kia, món kia chẳng hạp
với vật nọ, rồi sanh ra có sự chướng ngại não loạn lẫn nhau. Nếu biết tuỳ
thuận chúng duyên vô trở ngại thì đâu có xung khắc. Theo pháp tánh thì vạn
vật là đồng nhứt thể, vạn vật với ta đâu có sai biệt. Lìa vạn vật ra mà tầm đạo
chẳng khác nào lìa đạo mà tìm đạo, trọn đời cửa đạo tìm vào được đâu.
Lăng
xăng đời trót bể dâu,
Rốt
lại áo não cơ cầu hại thân.
Muốn
tìm thấy mối đạo chân.
Thì
phải làm-chánh đạo chân đó là.
Những người lìa đạo mà tìm đạo,
lăng xăng trót một đời toàn làm những việc cơ cầu, rốt lại rồi nó não hại thân
mà đạo cũng chẳng thấy. Muốn thấy mối đạo chân, nghĩ lại chẳng có gì khó, vì hễ
làm chánh, đó là đạo chơn vậy.
Tự
mình tâm đạo cách xa,
Mò
lần bóng tối ai mà chỉ cho.
Thiệt
người tâm đạo dặn dò,
Chẳng
thấy lỗi người, đắn đo lòng mình.
Nếu tự mình không chịu làm chánh
tức là tự mình cách xa với đạo rồi. Đã xa cách với đạo thì có khác nào mò lần
bóng tối đâu. Bởi vì, tu hành mà đạo tâm không có, thử hỏi đạo đâu hiện đến với
những người lòng dạ khô khan, thiếu lòng từ bi bác ái?
Bằng ai là người có đạo tâm (nghĩa
là người đang vui vẻ thực hiện chủ nghĩa từ bi bác ái) khá nghe lời Tổ dặn dò:
Chẳng nên thấy cái lỗi của người khác rồi cứ đắn đo trong lòng mãi.
Còn
như thấy lỗi bất bình,
Lỗi
mình không tránh vô tình gây ra.
Người
quấy mình chớ chê bai,
Chê
là mình đã đi vay lỗi người.
Nếu chẳng chịu tìm xét những cái
lỗi của mình, cứ bươi móc cái lỗi của người, hoặc thấy cái lỗi của người rồi
sanh tâm bất bình, đó là mình vô ý tạo ra nghiệp tội. Cũng có người hễ thấy cái
lỗi của kẻ khác thì cứ chê bai này nọ, đàm tiếu nói đi nói lại, làm cho ý
nghiệp và khẩu nghiệp của mình dấy lên. Đó là mình gỡ bớt cái nghiệp của người
khác đem sang sớt qua cho mình, chưa kể cái phản động lực nó dội lại thân mình
bằng những thứ xấu xa mà mình chê bai kẻ khác. Nhiều khi nó dội lại còn mạnh
hơn mình nói xấu người khác.
Ghét
thương hai tướng chớ màng,
Ngay
chân an nghỉ thanh nhàn là hơn.
Còn chê bai là còn ghen ghét,
nghĩa là vẫn còn đủ thất tình lục dục, còn đủ các thói xấu tật hư của hai tướng
đối đãi. Bởi vậy Tổ mới chỉ dạy phải đánh dẹp tất cả các tướng đối đãi ấy. Được
như vậy, trong khi nằm ngay chân an nghỉ, chẳng có thứ gì làm cho bận lòng, đó
mới thật đúng nghĩa an nhàn, chẳng phải ở không mà gọi là an nhàn.
Có
lòng muốn độ người nào,
Phải
dùng phương tiện thiệt hơn tỏ bày.
Đừng
để kẻ kia nghi ngờ,
Ấy
là thiện xảo hiện thời tánh chơn.
Nếu có lòng muốn độ người nào tu
hành, hoặc giả muốn nâng cao trình độ tu học của ai, không nên cho người đó
biết ý muốn của mình. Nếu biết được ý muốn của mình, động lòng tự ái, họ bèn
lánh xa. Nếu không lánh xa, họ giả vờ nghe lời mình chớ không thiệt tình. Phải
khéo léo dùng phương tiện mới mong thành công. Bằng như phương tiện của mình
vụng về, làm cho họ ngờ vực, tưởng mình có ý dụ dỗ hoặc lập tâm lợi dụng họ,
càng rắc rối thêm nữa. Hễ khéo léo dùng phương tiện, đó là chơn tánh hiện vậy.
Phật
pháp ở tại thế nhơn,
Lìa
đời cầu giác chẳng hơn người mù.
Bồ
đề tại thế khá tu,
Bỏ
đời tìm đạo như mù rờ voi.
Giáo pháp nhà Phật không có ở trên
non cao động cả, không có ở những chỗ thanh vắng. Bởi vì đạo Phật chủ trương
nhập thế tích cực cứu đời, chẳng phải yếm thế. Lìa đời cầu giác, bỏ đời tìm
đạo, chẳng khác nào tìm lông rùa sừng thỏ.
Chánh
kiến xuất thế khá noi,
Tà
kiến nhập thế hãy soi lại lòng.
Chánh
tà đánh dẹp cho xong,
Bồ
đề tự tánh nơi lòng hiển nhiên.
Muốn ra khỏi thế gian, phải tu
pháp chánh kiến, bằng không bị tà kiến điên đảo, dù có công phu phước đức cũng
chỉ lẩn quẩn trong ba cõi dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Những người tu
hành chưa hoàn toàn thanh tịnh, còn sót chút ít phiền não, thế nào cũng còn
dùng chánh kiến để tu trì. Sau khi dùng qua rồi, không nên trụ chấp. Giờ khắc
nào đánh dẹp được phiền não, tiếp theo đó cũng dẹp chánh kiến luôn, không thể
chấp giữ như những bậc còn thấp được. Những người chưa thanh tịnh, hễ chánh
kiến lui thì tà kiến đến liền, cứ thế mà trì kéo một thời gian. Trái lại, những
người có ít chút thanh tịnh, dầu có dẹp chánh, cái tà cũng chẳng dễ gì hiện ra
liền. Bởi chủng tử mê lầm lần lần bị bứng gốc. Lúc nào đánh dẹp cả chánh kiến
và tà kiến, lúc đó tánh bồ đề nơi lòng mình hiển hiện vậy.
Kệ
này Đốn giáo khá biên,
Cũng
tên là đại pháp Thiền nêu lên.
Kẻ
mê luỹ kiếp bỏ quên,
Người
ngộ nghe đến thấy liền bổn tâm.
Tổ nói kệ và bảo môn nhơn biên
chép để dành mà đọc và làm theo. Kệ này thuộc pháp môn Đốn giáo, cũng tên là
đại pháp Thiền. Kẻ mê dầu có chép cũng không học hỏi gì được, chán rồi bỏ quên.
Trái lại người tỏ ngộ, hoặc thấy, hoặc nghe người khác đọc, liền minh tâm kiến
tánh.
=======================
=======================
[3] Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng. Nhược
kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai. (Phàm cái gì có tướng đều là giả
dối, bằng thấy cả thảy tướng mà chẳng phải tướng, tức thấy đặng bổn tánh Như
Lai.)
[4] Mỗi niệm tưởng, mình đều biết nó là chánh
hay tà, chơn hay vọng, phải hay quấy, v.v… đó là tự thấy lấy mình.
[15] Sở tri chướng: là còn bị các pháp ngoại
cảnh làm chướng ngại. Nghĩa là làm cho tâm vướng theo đó mà sanh mê lầm.
[16] Ảnh là hình ảnh, bóng ảnh, tức là cái bóng
của sáu trần phản chiếu (rọi lại) trong chơn tánh. Chẳng khác nào hình ảnh của
vạn vật chiếu trong gương.
[18] Tâm hành nghĩa là hành vi động tác của
tâm. Xứ là
chỗ, là nơi. Nếu tâm còn duyên theo chỗ nào, vấn đề gì để quán xét, thì cái tâm
ấy còn trụ vào một pháp, tức còn vọng, chưa phải chơn. Tâm hành xứ diệt nghĩa
là tâm vọng và cái chỗ của tâm trụ chấp (cái tướng của tự tâm) cũng không còn.
[19] Cũng
như những người ngoài miệng nói tu, mà lòng không chịu sửa đổi thói xấu tật hư,
dù tu ngàn đời muôn kiếp cũng chẳng thành công.
[22] Chánh kiến: Chánh là chơn chánh, kiến
là kiến thức, là sự thấy biết chơn chánh. Sự kiểu, sự làm, sự suy nghĩ, sự luận
lý… đúng với chơn lý, gọi là chánh kiến.
[28] Phòng
não (phương não): Ta với loài sắc tướng đồng một bản thể chơn như. Thế thì
ta có đạo, nó cũng có đạo. Ta với nó đâu có nghịch lẫn nhau, đâu có phương hại não loạn nhau.
[30] Sau khi tham
thiền, muốn dùng đến phương pháp huờn hư để tiến sâu vào cảnh giới đại định,
thì phải biết rằng, một khi tâm trí của mình xa lìa các duyên, tự nhiên cảnh
giới huờn hư sẽ hiện tiền. Nhiều người chẳng hiểu như thế, lại để tâm duyên
theo cảnh giới trống không, nghĩa là họ an trụ vào cái không không, rồi cho
mình đã được huờn hư, đã được vào cảnh giới đại định. Đó là một sự lầm to. Đã
dụng tâm đeo níu theo cái không, rồi lầm tưởng tâm mình đã không, chớ chẳng dè
làm như vậy là chấp không cảnh giới, cũng gọi là khô định, như cây khô cá chết,
trái với pháp tu của đại thừa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét