TỊNH ĐỘ CƯ SĨ PHẬT HỘI VIỆT NAM
PHƯƠNG
PHÁP THỰC HÀNH
ĐẠO ĐỨC
THAY
LỜI TỰA
Mùng
6 tháng Chạp năm Bính Thân, nhằm ngày mùng 6 tháng Giêng dương lịch năm 1957,
là ngày đáng ghi chép trong lịch sử hoằng pháp của Giáo hội Tịnh Độ Cư Sĩ Phật
Hội Việt Nam. Ngày ấy Đức Tông sư Minh Trí chủ toạ phiên nhóm hằng tuần của Ban
Đạo Đức Trung ương, và cũng là ngày Đức Tông sư giảng giải phân minh hai chữ
Đạo Đức.
Chữ ĐẠO có hai nghĩa:
Nghĩa thứ nhứt phù hợp liên quan đến đời sống thực tế của nhơn loại. Cho
nên Cổ đức ví ĐẠO với con đường đi. “ĐẠO giả lộ dã.”
Đường, là đường lối phải noi theo, hầu đi đến nơi đến chốn; do ý nầy,
người ta nói: “Thinh Văn Đạo, Bồ Tát Đạo, vân vân...
Đường lại hàm súc những giềng mối, những phong tục tập quán, khiến nhơn
loại dù kết đoàn hợp lũ, sống chung lộn mà vẫn có thượng hạ tôn ty, cang thường
luân lý, trật tự kỷ luật phân minh. Như nói đạo cha con, đạo vợ chồng, đạo bằng
hữu là theo ý nghĩa nầy.
Đạo là đường lối phải theo, tức là theo lẽ phải, theo cái quang minh
chánh đại. Trong sách Trung Dung, Khổng Tử có nói: “ĐẠO giả dã, bất khả tu du
lị dã, khả lị phi ĐẠO dã.” Nghĩa là: Đạo thì không thể xa lìa, nếu xa lìa được
thì chẳng phải ĐẠO vậy.
Nghĩa thứ hai thuộc Hình nhi thượng học:
ĐẠO là nguyên lý của Vũ trụ vạn hữu, tức là cái khí Tiên Thiên của Trời
Đất (cái khí có trước Trời Đất). Do lẽ nầy, Ngài Trang Tử nói: ĐẠO sanh một,
một sanh hai, hai sanh ba, ba sanh vạn vật. Thế thì nguồn gốc của Vũ trụ vạn
hữu, cưỡng danh là ĐẠO.
Đức Lão Tử lại nói: “Đạo khả đạo phi thường Đạo, danh khả danh phi
thường danh.” Nghĩa là Đạo mà nói ra được, thì chẳng phải Đạo chơn thường, danh
mà kêu gọi được, thì không phải danh chơn thường. Đại ý Đức Lão Tử nói rằng:
Nín thinh thì thể chơn thường của Đạo vẫn như như, bằng nói ra hay đặt tên bày
hiệu, thì thể chơn thường đã biến rồi vậy. Biến, là con người mê chấp danh ngôn
của ĐẠO, chứ ĐẠO nào có biến thiên di dịch.
Văn cú trên đây là lời mở đầu của ĐẠO ĐỨC KINH. Mặc dù Đức Lão Tử chủ
trương lối tu yếm thế, chớ triết lý của Ngài vẫn đồng với triết lý của Đức NHƯ
LAI. Hai đấng vĩ nhân đều đồng quan niệm: cái nguồn cội của vạn vật, cưỡng danh
gọi là ĐẠO, CHƠN KHÔNG, NIẾT BÀN DIỆU TÂM, BỒ ĐỀ CHƠN TÂM, vân vân, không có
một tướng gì khá đặng, bặt đường tư tưởng nói năng. Đạo Lý uyên thâm, lời lẽ
lệch lạc, lời thốt, lý tán vậy.
ĐẠO có hai nghĩa, thì ĐỨC cũng như thế.
Theo thực tế, người có đức là người có tánh hạnh tốt lành, là người hay
cứu thế độ nhơn, tức là người thiệt hành hai chữ “NHƠN NGHĨA” của Nho giáo.
Chúng ta nên biết người có hành động đứng đắn đàng hoàng, nhứt cử nhứt
động đều giữ đúng LỄ, TRÍ, TÍN, cũng là người có Đức. Đó là Đức độ của một cá
nhơn.
Thánh Hiền xưa lại nói: “Thượng đức bất chấp đức.” Nghĩa là bực Đức cao
không hề cho mình có Đức. Đặng như vậy, mới đáng gọi là người Đạo Đức, là người
đức hạnh hoàn toàn theo giáo lý của Đức Từ phụ Bổn Sư.
Bởi vậy, hàng phật tử chúng ta, chẳng những tu tập về đức độ của cá nhơn
có tư cách, mà cũng tu tập về đức tánh từ bi bác ái nữa. Bởi vì, nếu chỉ tu đức
tánh từ bi mà không tu về đức độ, thì trong khi lập hạnh bố thí, thế nào cũng
thiếu tư cách. Nếu thiếu tư cách, thì người thọ thí phải tủi hổ buồn rầu. Làm
cho người khác buồn rầu tủi nhục trong cơn thọ thí, thì làm sao gọi là ban vui
(từ năng dữ lạc), cứu khổ (bi năng bạt khổ).
Theo Phật giáo, muốn có Đức thì phải lập hạnh, gọi là hạnh đức. Hạnh có
hai thứ: hạnh lợi ích cho người, thuộc về cứu thế độ nhơn; hạnh lợi ích cho
mình, thuộc về Đức độ, như diệt trừ thói xấu tật hư và tu các pháp giải thoát,
như Lục độ Ba-la-mật chẳng hạn.
Đạo Phật có muôn Hạnh để cho người tu hành lập được muôn Đức. Chỉ có đức
hạnh của hàng phật tử mới có thể phổ cập Đạo Đức trong thế giới, hầu xây dựng
một thế giới lành mạnh, an lạc, hoà bình.
Nói tóm lại, Đạo Đức rộng lắm, lớn lắm, bao trùm cả hai pháp: nhập thế
nhơn đạo và xuất thế Phật đạo. Nếu là bao trùm rộng lớn, thì người tu hành chơn
chánh, bất cứ đi, đứng, nằm, ngồi, ở chỗ nào, làm việc chi, cũng đều Đạo Đức
cả.
Đạo Đức là một món đáng tôn trọng và quí báu vô cùng. Nếu con người xa
lìa Đạo Đức rồi, thì không còn đáng tôn quí, kính trọng; nghĩa là không còn
xứng đáng là con người nữa. Cái nhơ của một vật ô uế còn có thể kham chịu và ít
hại hơn cái nhơ của con người không Đạo Đức.
II. ĐẠO TRONG CHỖ
NHỰT DỤNG THƯỜNG HÀNH
Tất cả nhơn loại trên mặt địa cầu nầy, nếu xa lìa Đạo Đức ngày nào, thì
khổ ngày nấy. Nói về cá nhơn, nếu xa Đạo một giờ, thì khổ một giờ, cho đến xa
lìa một ngày, một tháng, một năm và suốt đời, thì khổ đủ một ngày, một tháng,
một năm, một đời.
Cá nhơn như thế, thì gia đình, xã hội, quốc gia cũng vậy; xa Đạo Đức bao
nhiêu thì khổ bấy nhiêu. Đạo Đức đối với cá nhơn, đối với toàn thể gia đình, xã
hội như vậy, thì Đạo Đức rất liên quan đến chỗ nhựt dụng thường hành của nhơn
loại. Bất cứ giới nào: sĩ, nông, công, thương, bất cứ ở giai cấp nào, địa vị ra
sao, ở cửa công, hay sở tư, ở chốn quan trường hay trên đường thương mại, con
người luôn luôn phải có Đạo Đức.
Một anh thợ trong xưởng, cũng như chị đàn bà nấu bếp, cho đến cô đỡ, bà
giáo, ông tham, ông ký, anh nông phu, người quân nhân, kẻ buôn gánh, người bán
bưng, đều phải có Đạo Đức trong lúc ăn, ở, đi, đứng, ngồi, nằm, tiếp khách, làm
việc, vân vân...
III. CÁ NHƠN KHÔNG THỂ
XA LÌA ĐẠO ĐỨC
Con người sanh ra có tánh linh hơn muôn vật. Sở dĩ được như vậy, là vì
con người biết sử dụng trí não của mình một cách linh động, biết sử dụng lý trí
của mình để ăn ở đúng với Đạo Đức. Nhơn vật đạo đồng, nếu con người thiếu Đạo
Đức, thì người vật khác chi! Người khác vật về lý trí, chớ không khác về bản
năng.
Ngày nào mà nhơn loại hoàn toàn xa lìa Đạo Đức, không chịu ăn ở theo lý
trí, nghĩa là chỉ ăn ở theo bản năng thị dục, thì ngày ấy, đời khoa học văn
minh nầy, sẽ biến thành địa ngục. Trái lại, ngày nào con người hoàn toàn ăn ở
theo Đạo Đức, theo lý trí của mình, thì địa ngục sẽ biến thành thiên đường. Đó
là nước Cực Lạc của Phật A Di Đà tại thế gian vậy.
Người tu Phật, bất luận đi, đứng, nằm, ngồi, hành động, nói năng, tư
tưởng, không được phép xa lìa Đạo Đức. Nghĩa là luôn luôn ăn ở theo lý trí; tư
tưởng, hành vi, ngôn ngữ, đều phải trong sạch, khiến cho ba nghiệp thân, khẩu,
ý, chẳng những được thanh tịnh, mà lại trọn đủ mười điều lành.
Đạo Đức bao gồm sự thanh tịnh ở cõi lòng, mà cũng bao gồm nhân cách nữa.
Thế thì, người thiếu Đạo Đức, tức là người mê nhiễm, bị vật dục trần gian lôi
cuốn.
Người tu hành phải có đủ oai nghi trong bốn tướng: hành, trụ, toạ, ngoạ,
nghĩa là đi, đứng, nằm, ngồi gì cũng là Đạo Đức cả.
ĐI cũng
Đạo Đức, là đi đàng hoàng, không nhảy nhót, không vụt chạc, không chen lấn,
không giành lối đi, lỡ có đụng ai phải xin lỗi; biết nhường bước cho người tuổi
tác bịnh hoạn.
ĐỨNG
cũng Đạo Đức, nghĩa là đứng ngay thẳng, tề chỉnh, không phải chỗ không nên
đứng.
NẰM
cũng Đạo Đức, nghĩa là không nằm dọc nằm ngang, không hở hang trống trải, không
phải chỗ không dám nằm.
NGỒI
cũng Đạo Đức, nghĩa là ngồi tề chỉnh nghiêm trang, ngồi phải coi hướng, theo
tục xưa thường nói.
ĂN cũng
Đạo Đức, nghĩa là không khen ngon chê dở, vì ăn để nuôi sống, chớ không phải
sống để ăn.
NGỦ
cũng Đạo Đức, nghĩa là an nhiên tự tại, không dấy những điều hoan lạc, mà cũng
không khởi phiền não, nhứt là không nhắm mắt để toan tính mưu thần chước quỉ,
lợi mình hại người.
THƯƠNG
cũng Đạo Đức, nghĩa là tình thương của người chân chính tu Phật phải sáng suốt
rộng lớn, chớ để tình thương chật hẹp trói buộc nhận chìm trong biển trầm luân.
Thương làm sao cho kẻ xa người gần đều nên người Đạo Đức. Thương cách nào cho
tương lai của người người được xán lạn vui tươi.
GHÉT
cũng Đạo Đức. Người chân chính tu Phật hằng xét lỗi mình. Đối với thói đời đen
bạc, sự vu oan giá hoạ, người Đạo Đức tự cho mình nghiệp chướng sâu dày, đức
bạc mỏng manh. Thay vì cưu thù kết oán, lại gắng công tu tập, tác phước thiện
duyên, hầu cho kẻ xa người gần, kẻ oán người thân đều đẹp dạ thoả lòng.
Thánh nhơn đã dạy: “Trách kỷ mạc trách tha.” Chớ trách người, mà luôn
luôn trách lấy mình, đó là con đường giải thoát cho phật tử chúng ta vậy.
NÓI
cũng Đạo Đức. Sách có câu: “Khẩu bất đạo phi lễ chi ngôn,” nghĩa là miệng không
nói điều phi lễ, tức là không chửi rủa mắng nhiếc người, hoặc nói điều bất
chánh làm mất danh giá của người, dầu kẻ nghèo nàn kém học cũng đều có danh giá
cả. Đừng nói vọng ngữ, đừng nói hai lưỡi, đừng nói tục tĩu hoa nguyệt, đừng
chửi rủa.
NÍN
cũng Đạo Đức, nghĩa là có nhiều điều, tuy là sự thật, nhưng không nên nói ra
(hoạ tùng khẩu xuất), nói ra sanh đôi chối thù hiềm, hoạ sẽ lây đến mình. Nếu
miệng nín thinh mà lòng không sanh diệt, đó là bực Thánh vậy.
Nói tắt là nhứt cử, nhứt động của một người tu hành phải xứng với hai
chữ Đạo Đức. Bằng không, thì thiếu trang nghiêm, thiếu trang nghiêm thì bốn oai
nghi không có. Bốn oai nghi không có thì thói xấu tật hư và những tội lỗi tràn
tới, ba nghiệp thân, khẩu, ý dấy lên, chừng đó có giữ giới, có kềm chế cũng
không kịp.
IV. GIA ĐÌNH KHÔNG THỂ
XA LÌA ĐẠO ĐỨC
Gia đình là chỗ ăn ở chung đụng của một nhóm người. Có sự chung đụng tức
là có sự phiền hà trách móc, gấu ó lẫn nhau, nhiều khi sanh ra đánh đập đến mất
mạng. Thế thì, nếu có gia đình, thì trong gia đình cần phải có Đạo Đức để kềm
chế tánh hung hăng ích kỷ của mọi người. Mọi người phải nhịn nhục, nhẫn nại để
cho gia đình đầm ấm. Cũng như cá nhơn, gia đình không nên xa lìa Đạo Đức giờ
phút nào hết.
Chúng ta có thể xét biết, hoặc tưởng tượng một gia đình không Đạo Đức,
nó sẽ hỗn loạn như thế nào: vợ chồng đối kỵ nhau, cha con tranh biện, anh em
chống chọi, gia đình tất nhiên phải suy vi rời rã.
V. XÃ HỘI KHÔNG THỂ
XA LÌA ĐẠO ĐỨC
Trong một xã hội, Đạo Đức là điều tối cần. Một xã hội gồm nhiều giai cấp
hợp lại. Nếu có nhiều giai cấp, tất nhiên có nhiều địa vị, trình độ tiến hoá
bất đồng. Do chỗ bất đồng mà có mâu thuẫn về quyền lợi, về tinh thần cùng vật
chất. Phải biết rằng: mâu thuẫn là mầm tranh đấu bất an. Thế thì, bất cứ xã hội
nào, văn minh hay bán khai, đều cần có Đạo Đức cả. Thiếu Đạo Đức là thiếu lòng
nhân, thiếu lòng nhân thì sự hỗn loạn phát sanh vậy.
Đành rằng, mâu thuẫn không bao giờ chấm dứt; bởi vì, hết mâu thuẫn nầy,
phát sanh mâu thuẫn khác. Đó là luật tiến hoá; dứt mâu thuẫn là dứt sự tiến
hoá. Nhưng, phải làm thế nào cho sự mâu thuẫn đừng thiếu Đạo Đức, dầu có giải
quyết cũng giải quyết trong vòng Đạo Đức.
Một xã hội mà thiếu Đạo Đức, thì sanh ra gian tham, trộm cắp, cờ bạc,
điếm đàng, gây nhiều tội lỗi.
VI. QUỐC GIA KHÔNG THỂ
XA LÌA ĐẠO ĐỨC
Một nước mà không có Đạo Đức, nước ấy phải tiêu vong. Nước nào thiếu Đạo
Đức, thì nước ấy không còn thuần phong mỹ tục nữa; luân lý sẽ đổ nát. Vì nhận
thấy như thế, nên Chánh phủ hiện hữu đang xúc tiến bảo vệ nền luân lý cố hữu,
để giữ cho được thuần phong mỹ tục. Phải làm sao cho xứng đáng một dân tộc độc
lập, một dân tộc có bốn ngàn năm văn hiến.
Tân
dân độc lập cần tu đức,
Hưng phát từ bi bát chánh truyền.
Nghĩa là: người dân một nước độc lập hùng cường, phải tu Đức đặng trau
dồi các tánh tốt. Muốn trau dồi đức tánh tốt để xứng đáng với một dân tộc độc
lập, thì người dân cần phát động hưng khởi chủ nghĩa từ bi bác ái của Phật giáo
là thượng sách, là đắc chánh truyền.
Trai hiền
lành chẳng nhọc dạ lính quân,
Gái đức hạnh không thua cùng tha quốc.
Sở dĩ các quốc gia trên hoàn cầu ban hành pháp luật, là để ngăn ngừa nết
xấu tật hư của dân chúng trong xứ. Kinh nghiệm chỉ cho ta: Pháp luật càng bành
trướng thì nền Đạo Đức lại suy đồi. Trái lại Đạo Đức càng phát huy thì pháp
luật lại càng thu hẹp.
Như thế thì hùng cường cũng như nhược tiểu, các quốc gia cần phải kiến
thiết và phát triển trên nền tảng Đạo Đức. Văn minh ngày nay là văn minh khoa
học vật chất. Ước mong nhơn loại sớm theo đời văn minh Đạo Đức, thì nhơn loại
mới sớm thực hiện cảnh hoà bình hạnh phúc mà mọi người đều mong muốn.
KẾT LUẬN
Vấn đề Đạo Đức thật là lớn lao, bao trùm cả tư tưởng hành vi và lời nói
của con người, bao trùm cả vũ trụ vạn hữu. Vấn đề Đạo Đức thật là vấn đề sanh
tồn của nhơn loại. Nhơn loại muốn sống còn, muốn văn minh, phải tự có Đạo Đức.
Không phải khoa học là cái then chốt của văn minh, chính Đạo Đức mới là then
chốt vậy.
Ngày hôm nay quí Bà, quí Ông tuy gia công tu hành từ lâu, nhưng đối với
Đạo Đức chưa phải là đủ vậy. Tôi muốn nói: tự mình có Đạo Đức cũng còn thiếu
sót. Phải làm thế nào truyền bá Đạo Đức cho toàn thể gia đình hấp thụ, rồi từ
gia đình lan rộng ra xã hội, từ xã hội phổ biến đến quốc gia, từ quốc gia đến
quốc tế.
Đến nguơn chót, là nguơn tiến hoá chung, năm châu bốn biển hiệp một nhà,
thì người tu hành không thể nào tu một mình được. Phải làm sao cho tất cả nhơn
loại trên địa cầu đều lãnh thọ hai chữ Đạo Đức. Ta có Đạo Đức, kẻ khác nhứt
định phải có Đạo Đức. Nếu kẻ khác không Đạo Đức, chỉ có ta mà thôi, đó là ta tự
diệt vậy.
Đạo Đức, có thể đến với mọi người, vì nó chẳng phải là một tôn giáo, nó
không phân biệt tôn giáo nào hết, vì nó không có ranh giới như các giáo điều
của các tôn giáo.
Điều cần thiết là hôm nay, quí Bà, quí Ông học tập kinh, luật, luận nhà
Phật đây, là vì vấn đề Đạo Đức mà học, vì nhơn loại, vì thế giới mà học. Quí
Bà, quí Ông ngày nay tuy là số ít, nhưng đó là hạt giống. Mỗi hạt giống Đạo
Đức, có thể gặp duyên lành, sanh ra vô số bông trái Đạo Đức. Thế thì, nhân sanh
ra quả, quả trở lại làm nhân, nhân quả trùng trùng điệp điệp. Một ngày kia, thế
giới sẽ hưởng nhờ cái nhân Đạo Đức của quí Bà quí Ông đang gieo ngày nay vậy.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét