TỊNH ĐỘ CƯ SĨ PHẬT HỘI
VIỆT NAM
LỄ BÁI LỤC PHƯƠNG
GIÁO LÝ CHƠN GIẢI
LỄ thành tỏ
ngộ máy thiền gia,
BÁI Phật cầu
về chín phẩm hoa.
LỤC tự gìn
lòng thông mối đạo,
PHƯƠNG mầu dành để độ ta
bà.
Lễ
bái lục phương nghĩa là: lễ lạy sáu hướng. Lễ lạy sáu hướng phát sanh ở
núi Kê-túc, thành Vương-xá (Rajāgrila), xứ Ấn Độ, vào thế kỷ thứ sáu trước kỷ
nguyên.
Tổ sư là đức Thi-Ca-La-Việt (Çigala), ngài
là người cùng thời với Đức Phật Thích Ca.
Nguyên lý của triết học Lễ bái lục phương
là để dạy người tu trừ lục căn, diệt lục trần, hành lục độ, cầu phát hiện lục
thông, đặng thoát vòng lục đạo.
Cái chủ nghĩa của Lễ bái lục phương là
cốt để phấn khởi lòng người, đặng mau bước lên con đường đạo đức, cùng để hoá
dục người được tánh hiền lương trong sạch, tỉnh táo, khắc kỷ, quả quyết, tinh
tấn, kiên nhẫn, rộng lượng, thương người. Còn về phần ở đời, phú quí không nên
ham, vinh huê chẳng nên đoái, phải làm lành lánh dữ, mở rộng lòng nhơn, thương
người, thương vật.
Tóm lại, học thuyết của đức
Thi-Ca-La-Việt điều hoà tất cả hai thuyết nhập thế và xuất thế, hạp với trình
độ của mọi người: già trẻ, gái trai, sang hèn đều có thể tu theo được cả.
Xin nhắc lại nguyên tích của đức
Thi-Ca-La-Việt hành Lễ bái lục phương như vầy:
Khi đức Thích Ca thành đạo rồi, trước hết
Ngài thâu phục năm anh em Kiều-Trần-Như ở tại vườn Lộc-Uyển, xứ Ba-nại-la, là
môn đệ của Ngài khi trước và thâu luôn ông Gia-Trứ làm đệ tử. Ông Gia-Trứ là
người giàu có mà lại đương lúc mê sa tửu sắc. Sau lại thâu ba anh em Ca Diếp
(Kacya-pa). Kế Phật nhớ lại lúc trước có hứa với vua Tần-Bà-Ta-La (Bimbisara) ở
tại Vương-xá thành, đến khi thành đạo, Ngài sẽ đến độ vua. Phật sang Vương-xá
thành thì vua hết lòng cung kỉnh tiếp rước và dâng cảnh rừng Trúc Lâm, xây Tinh
xá cho Phật ở thuyết pháp.
Buổi kia, Phật đi khất thực nơi núi
Kê-túc, thấy con ông trưởng giả là Thi-Ca-La-Việt (Çigala) gở đầu, rửa mặt và
súc miệng, mặc áo quần sạch sẽ, lạy hướng đông, hướng tây, hướng nam, hướng
bắc, hạ phương và thượng phương, mỗi hướng bốn lạy.
Phật liền vào nhà hỏi rằng: “Ngươi lạy
sáu hướng là phép chi? Ngươi có hiểu rõ không?” Đức Thi-Ca-La-Việt đáp rằng:
“Bạch Phật, tôi lạy sáu hướng đặng cầu cho gia quyến tôi đặng bình an, khỏi bị
ma quỉ khuấy phá. Lúc cha tôi còn sanh tiền, dạy tôi thường bữa giữ tứ thời,
lạy sáu hướng, tôi cứ đinh ninh theo lời cha dạy, đến nay tôi không dám trái
mạng.”
Phật nói: “Ngươi có lòng cầu khẩn cho gia
quyến đặng bình an, điều đó phải lắm; ngươi vâng theo lời cha mẹ dạy bảo, việc
ấy rất tốt. Nhưng không phải cúng kiến cùng vái lạy mà gia đình khỏi tai hoạ
được, cần yếu là ngươi phải làm các việc lành, thi ân bố đức, thì mới có thể
lánh được những tai nạn.
Ngươi không hiểu ý nghĩa của “Lễ bái lục
phương” là chi, để ta giải rõ cho ngươi tường, hầu có hành theo Chánh pháp,
cùng tuyên truyền cho người thông hiểu. Lễ bái lục phương gồm cả nhơn đạo và
Phật đạo, trước hết ngươi phải giữ đạo làm người, lo tác phước thiện duyên,
cùng lập công bồi đức cho tròn nhơn đạo; sau lại hành theo Phật đạo là phải
diệt dứt lòng phàm, trau dồi tâm tánh của mình. Muốn trau tâm tánh thì phải trừ
lục căn, diệt lục trần, hành lục độ, phát lục thông, mới đặng siêu phàm nhập
thánh, trực vãng Tây phương.”
Đức Thi-Ca-La-Việt nghe đặng mấy lời của
Phật mới biết hành Lễ bái lục phương là một phương pháp diệu mầu, để độ người
thoát vòng luân hồi lục đạo, vượt qua biển ái sông mê, tới bến Bồ đề, tức là
thành Phật.
Đức Thi-Ca-La-Việt liền quì xuống chắp
tay bạch Phật rằng: “Cầu Phật chỉ dạy phân minh cho tôi được rõ lễ lạy mỗi
hướng, tôi nguyện vâng theo lời Phật dạy.”
Phật nói: Ngươi hãy nghe cho rõ những lời
của ta giải theo mỗi hướng:
I.
Lạy hướng Đông, ấy là con thảo thờ cha mẹ có năm điều:
1. Là con phải giữ tròn hiếu đạo;
2. Là lúc cha mẹ đau ốm phải săn sóc thuốc thang điều trị;
3. Là phải cung phụng từ chén cơm, bát nước cho song thân;
4. Là phải biết ơn cha mẹ mười tháng cưu mang, ba năm bồng
ẳm, bú sữa, mớm cơm;
5. Là phải giữ tròn phận sự làm con cho
cha mẹ vui lòng đẹp dạ.
Bổn phận cha mẹ thương
con có năm điều:
1. Là phải dạy con trung hiếu vẹn toàn;
2. Là phải cho con gần người hiền nhơn trí giả;
3. Là phải dạy con học tập kinh luật cho mở mang trí hoá;
4. Là đến tuổi cặp kê thì phải liệu chừng gả cưới;
5. Là gia sản, tiền của phải chia cho đồng.
II. Lạy hướng
Tây, là chồng đối với vợ có năm điều:
1. Là chớ có ỷ quyền áp chế;
2. Là tiền bạc thâu xuất bình quyền;
3. Là chẳng đặng làm điều đãng phóng, trai gái, cờ bạc, rượu
trà;
4. Là đối với vợ phải dùng câu nhơn từ đức hạnh;
5. Là phải dạy vợ điều phải lẽ ngay, dắt
dìu vào đường đạo đức.
Bổn phận làm vợ thờ
chồng có năm điều:
1. Là phải cung kỉnh chồng, chẳng nên dễ duôi khinh bạc;
2. Là phải cần kiệm, chẳng nên lãng phí bạc tiền, cùng giữ
câu tam tùng tứ đức;
3. Là phải tề gia nội trợ, gầy dựng gia thất cho chồng;
4. Là phải phụng sự cha mẹ chồng cho hết lòng hết dạ;
5. Là phải cố khuyên chồng làm điều chánh, lánh điều tà.
III. Lạy
hướng Nam, ấy là bổn phận học trò kỉnh trọng thầy có năm điều chấp sự:
1. Là kính trọng thầy cũng như cha mẹ;
2. Là phải siêng năng trì chí, việc học hành thì phải cố
công;
3. Là phải phấn chấn cho hơn chúng bạn;
4. Là phải siêng năng, thức khuya dậy sớm, lo trông nom học
tập cho rành;
5. Là phải bảo tồn danh giá thầy. Khi
thầy qui vị rồi cũng phải giữ lời thầy dạy dỗ;
Bổn phận làm thầy dạy
học trò có năm điều:
1. Là đừng than cực nhọc mỏi mê;
2. Là dạy học trò cho mau thành công;
3. Là phải siêng năng hết lòng dạy dỗ;
4. Là dạy cho nó hơn mình, chớ đừng nệ cố;
5. Là phải dạy đứa tối cho bằng đứa sáng.
IV. Lạy hướng
Bắc, ấy là mình đối với người có năm điều:
1. Là đối với bà con xóm riềng phải giữ lòng ngay thật;
2. Là nhịn nhục thuận hoà, giữ tình liên ái;
3. Là lúc giao thiệp đàm luận cùng người, phải cho có trật
tự, lớn nhỏ, trai gái phải phân minh, giữ phẩm hạnh theo địa vị của mình;
4. Là khi ai bịnh hoạn mình đến săn sóc giùm, như mình có
tiền nên giúp cho người làm nghĩa;
5. Là người có việc khốn khó, mình đến lo giùm, tận tâm giúp
đỡ.
V. Lạy Hậu
thổ, ấy là bổn phận của người học đạo có năm điều:
1. Là muốn thành Phật, Tiên, Thánh, thì phải giữ dạ thảo
hiền, trung thứ, từ bi, bác ái nơi lòng;
2. Là phải giữ một lòng hành Lễ bái lục phương, niệm lục tự
Di Đà, trừ lục căn, diệt lục trần, hành lục độ, phát lục thông, cầu cho thoát
vòng lục đạo;
3. Là phải giữ giới luật của nhà Phật cho rành;
4. Là phải chí tâm lo trau dồi tâm tánh của mình;
5. Là phải kiên nhẫn dày công tham thiền,
hầu mau đắc đạo.
Bổn phận thầy chỉ giáo
có năm điều:
1. Là gắng khuyên thiện nam, tín nữ hay
là đệ tử làm sáu phép nầy:
a) Bố thí, hết tiếc tham,
b) Giữ luật thì khỏi huỷ phạm,
c) Hiền từ, nhẫn nhục, thì khỏi hờn giận,
d) Tinh tấn, thì không giải đãi,
e) An tâm, định thần thì khỏi rối loạn,
f) Trau dồi trí huệ thì hết tối tăm.
2. Là đừng bê trễ, phải có oai nghi, lấy chơn lý luận cho
người thông hiểu;
3. Là dạy cho nó lập nhiều hạnh tốt, hơn là lời nói nhiều;
4. Là dạy niệm lục tự Di Đà, mở rộng lòng nhơn, thương tất
cả người cùng các loài động vật;
5. Là phải chỉ dạy cho mau hiểu thông kinh luật và đức hạnh
hoàn toàn, sau đi ta-bà đặng chỉ cho người tu niệm.
VI.
Lạy Hoàng Thiên, ấy là bổn phận tôi tớ kính trọng chủ có năm điều:
1. Là thức khuya dậy sớm theo phận sự của mình;
2. Là phải siêng năng, đừng làm nhọc đến chủ;
3. Là đối với chủ phải giữ điều cung kính lễ nghi;
4. Là chớ lấy của chủ đem ra mà phá hoại;
5. Là phải trung thành với chủ.
Chủ nhà đối với tôi tớ
có năm điều:
1. Là sai khiến đứa ở đi đâu thì phải liệu sức đường xa gần,
mưa nắng, phải coi nó đói hay no;
2. Là khi nó có bịnh thì mình phải cho tiền thang thuốc;
3. Là phải thương người như thể thương mình;
4. Là nó làm điều chi quấy thì dạy biểu nó, chớ đừng đánh
đập;
5. Là mình có ăn vật thực chi thì phải
chia cho nó.
Phật giải rõ Lễ bái lục phương vừa rồi,
đoạn dạy tiếp rằng: “Nếu ngươi hành theo các phép của ta đã giải, mới gọi là
kỉnh thuận mạng cha, mới gọi là lễ lạy sáu hướng, bằng chẳng vậy, dầu ngươi có
lạy cũng không ích chi, lại khiến ác danh đồn khắp.”
Đức Thi-Ca-La-Việt bạch rằng: “Tôi nguyện
hành y theo giáo lý của Phật trọn đời, chẳng dám đơn sai.”
Phật dạy tiếp rằng: “Mỗi bữa khuya, trưa,
chiều, sáng, rửa mặt súc miệng, mặc áo quần sạch sẽ, định tâm cho yên lặng,
đoạn dưng hương đảnh lễ Phật, gắng một lòng tinh tấn siêng năng, đừng trễ nãi.”
Đức Thi-Ca-La-Việt nghe những lời của
Phật dạy, thì chẩm hẫm vui mừng, làm lễ vưng chịu.
T R Ừ L Ụ C C Ă N
Phật tổ Thích Ca Mưu Ni ngài cho cuộc đời
là khổ: sanh ra là khổ, tật bịnh là khổ, già là khổ, chết là khổ. Bốn cái khổ
ấy nó đeo đuổi con người hoài, khiến đời nầy chuyển sang đời khác, đời nọ
truyền đến đời kia, còn làm người là còn chịu khổ.
Cái kiếp con người sanh ra chịu trăm cay
ngàn đắng để trả cho rồi nghiệp chướng, bởi người tạo nghiệp nên phải luân hồi
đời đời, không biết đâu là giới hạn.
Mà nguyên nhân những cái khổ ở đời, chính
là thân ta gây nên cả. Thân ta lại có “lục căn”, sáu căn là: mắt, tai, mũi,
lưỡi, xác thịt và y, tức là lòng.
Lục trần là: sắc, thinh, hương, vị, xúc,
pháp. Sắc là cái có thể thấy được, Thinh là cái có thể nghe được, Hương là cái
có thể ngửi được, Vị là cái có thể nếm được, Xúc là cái mà thân thể biết được
như nóng, lạnh, cứng, mềm, v.v... Pháp là cái pháp trần như những cái có thể
tưởng tượng được. Sáu trần ấy làm cho ta gây ra thất tình là: Hỉ, Nộ, Ai, Lạc,
Ái, Ố, Dục, nghĩa là bảy tình: Mừng, Giận, Buồn, Vui, Thương, Ghét, Muốn, rồi
nó khuấy rối tâm ta, không lúc nào buông tha ra.
Người tu hành muốn tìm con đường giải
thoát hầu đến cái thế giới “bất diệt,” thì phải trừ lục căn và hành lục độ.
Trừ lục căn tất nhiên không nhiễm lục
trần. Ý nói ngăn cấm sáu căn đừng cho thâu thập sáu trần, để tâm được trong
sạch. Ví như cái nhà (là xác thân) có sáu cửa (là lục căn), đóng chắc sáu cửa
ấy (tức là trừ lục căn), thì làm sao bụi bặm (là lục trần) bay vào, mà làm lấm
dơ đồ vật trong nhà đặng; đồ vật ấy tức là “tâm” của ta vậy.
Có câu: “Mục tiền vô sắc, túng giao liễu lục đào hồng, nhĩ bạn vô văn nhất niệm
oanh đề yến ngữ.” Nghĩa là: Bao nhiêu màu sắc rực rỡ trước mắt, mà lòng ta
không ham chuộng, thì màu sắc ấy không khi nào khoe tốt với ta đặng, khoe quí
báu với ta đặng; giọng phù trầm lời tao nhã bên tai mà lòng ta không ái mộ, dẫu
cho khẩu tài cách mấy đi nữa cũng không động tâm ta. Đặng như vậy mới gọi là
trừ Lục Căn. Tâm ta không bị trần bợn vùi lấp, tự nhiên sáng như gương không
bụi, tất nhiên không lờ; người đặng trí huệ, bởi tâm trong sạch.
Ông Xuyên Thuyền Sư có lời tụng rằng: “Như:
minh cảnh đương đài vạn thượng cư.” Nghĩa là: Đài gương tỏ rạng, hình dạng
gì cũng rọi vào cả. Lại có câu: “Thuỷ
cảnh trần phong bất đáo, thời ứng hiện vô hà chiếu thiên địa.” Nghĩa là:
Nước không có gió tất nhiên không sóng, gương không bụi tất nhiên không lờ,
lòng người không phát sanh tam ác “Tham, Sân, Si”, không phân biệt tứ tướng
“Nhơn tướng, Ngã tướng, Chúng sanh tướng, Thọ giả tướng.” Không mê mết lục trần
“Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp” thì tâm mình trong sạch, tất nhiên lục thông
phát hiện, bao nhiêu chuyện quá khứ, vị lai cùng hiện tại, đều rõ đặng, thấy
đặng. Ấy là chứng đặng quả A-la-hán.
Lục trần, cũng gọi là lục tặc, lục kiếm,
lục thỉ, lục ác tặc, danh gọi tuy nhiều, chớ không ngoài cái phạm vi của sáu
trần. Lục tặc là sáu tên ăn cướp chơn tánh người, nên gọi là tặc. Nếu rờ tới
thì chết, cũng như mua gươm bén về đâm mình, bằm thây mình, gọi là lục kiếm.
Như mũi nhọn bắn yết hầu mình, xuyên tâm mình, nên gọi là lục thỉ.
Sắc: là sắc
thân, hình sắc, nói tóm lại những cái hình dạng coi xinh đẹp, quí báu đều gọi
là sắc. Mắt thấy cái giả sắc ấy cho rằng tốt đẹp, sanh lòng tham muốn, làm cho
tâm ta rối loạn, nên kêu là trần (bụi trần).
Thinh: là tiếng,
như giọng nói, lời ca hát, tiếng đờn, tiếng quyển, tiêu tao thanh nhã, làm cho
tai nghe tới, tinh thần phải mê mệt, làm cho tâm ta rối loạn. Ta cứ ưa nghe nó
hoài, thì cái chơn thân mờ ám, ngày kia ắt sa vào lục đạo.
Hương: là các mùi
thơm tho như dầu thơm, phấn thơm, vân vân... Mũi hít vào bắt tinh thần ưa mến,
cũng như bướm kia đói hoa khát nhuỵ, mà phải đổ đường tìm hoa, xúi ta mua sắm
cho thoả lòng dục vọng, làm vậy nên tinh thần u ám.
Vị: là mùi ngon
trong vật ăn uống. Cách cư xử của người đạo đức, ăn no bụng thì đủ, chẳng cần
cao lương mỹ vị. Phật nói: “Thực thiểu vô cầu”, nghĩa là ăn ít không tham. Nếu
ăn ngon miệng tốn kém nhiều, phải sanh lòng tham ác.
Xúc: là đụng
chạm vào xác thân và tinh thần. Xúc vào xác thân như: nóng, lạnh, cứng, mềm.
Xúc vào tinh thần như hơi thơm, thúi, vân vân... Vậy thời ăn mặc miễn phương
tiện thời đủ, cách giản tiện đó là cao thượng hơn cách xa hoa mỹ lệ.
Pháp: là cái pháp
trần, như những cái có thể tưởng tượng được, như tưởng đến việc công danh, phú
quí, và các điều lợi mình, hại người cùng những việc trái với đạo lý, đều hại
cho tinh thần cả. Có bài thi rằng:
Sắc
tướng đừng xem giữ tánh không,
Thinh
âm nghe đến khiến xao lòng.
Hương
nồng ngào ngạt xin đừng mến,
Vị
thắm ngọt ngon dặn chớ trông.
Xúc
cảm cao sang sanh dục vọng,
Pháp
cầu danh lợi chớ nên mong.
Sáu điều hư
thiệt bày rành rẽ,
Giữ đặng ngày
sau thoát cõi hồng.
H À N H L Ụ C Đ Ộ
Hành
lục độ:
Hành là làm; Lục là sáu; Độ là đò. Lục độ là: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục,
Tinh tấn, Thiền định và Bát nhã (Trí huệ).
Người tu hành phải dùng
sáu chiếc đò ấy đặng vượt qua sông mê biển khổ. Tiếng Phạn “Paramita” đọc là
Ba-la-mật-đa. Tàu dịch là đáo bỉ ngạn, nghĩa là từ bờ sanh tử bên nầy, mà qua
tới cảnh giới Niết Bàn bên kia, tức là bến Bồ đề, nghĩa là thành Phật. Người mà
hành Lục độ được hoàn toàn, tức là Bồ Tát.
1.
BỐ THÍ
(Dana): là đem tiền của cho người, bố thí thì trừ đặng lòng tham lam, rít rắm.
Bố thí có ba cách là:
Tài thí, Pháp thí và Vô uý thí.
– Tài thí: là đem tiền của ra làm việc phải, việc nhơn; người đói cho
người ăn, người lạnh cho người mặc, giúp người già yếu bịnh hoạn, trợ kẻ mồ
côi. Vì lòng nhơn ái, thương người cùng khổ tật bịnh, động lòng mà bố thí. Sa
di luật có nói: “Vị nhơn thí, nhứt thiết đắc phước như đại dược, vị kỷ thí,
nhứt thiết đắc phước như giải tử.” Nghĩa là: Vì người mà bố thí bất hạn cách
nào, thì đặng phước lớn bằng địa cầu, còn vì mình mà bố thí thì là giúp người
trông người trả ơn. Tỷ như đem tiền của ra thí, mà có ý muốn cho người người
đều biết mình là người thí chủ, ấy là bố thí hữu bố thí (hữu lậu).
Kinh Kim Cang có câu: “Bất trụ tướng bố thí kỳ phước đức bất khả
tư lượng.” Nghĩa là bố thí mà không chấp tướng, thì đặng phước đức rộng lớn
chẳng thể nghĩ lường.
– Pháp thí: Là thấy người buồn rầu thất vọng mà khuyên lơn an ủi,
giảng đạo đức, luận pháp tu hành cho người tỉnh ngộ, hoặc dịch kinh, viết sách
phổ thông cho người được giác tỉnh, nhưng chẳng nên cậy mình học rộng tài cao,
cùng là làm cho người biết mình là người có đạo đức.
– Vô uý thí: Nghĩa là bố thí cái không sợ. Phàm người tu hành phải
coi thân mạng như không, không sợ chết, không sợ đau, không sợ khổ, không chấp
cái ta, để giữ lòng nhơn dõng mà cứu mạng người đời khỏi điều tai hại. Như gặp
nhà cháy thì xông vào cứu chữa, đem người khỏi hoả tai; gặp người sẩy chơn chết
ngộp, nhảy theo cứu vớt người; tóm lại cứu người khỏi tai nạn mà không chút nào
uý tử tham sanh, ấy là vô uý thí.
2.
TRÌ GIỚI
(Çila) Đọc là thi-la, Tàu dịch là trì giới. Trì giới là dặn dò lấy lòng mình
đừng làm những điều phạm giới luật.
Năm
giới
là:
1) Không được sát hại
sanh linh, 2) không được trộm cắp, 3) không được tà dâm, 4) không được nói dối,
5) không được uống rượu.
Mười
điều lành
là:
1) Thường phóng sanh, 2)
Thường bố thí, 3) Thường tiết dục, 4) Thường nói lời chơn thiệt, 5) Thường nói
lời ngay thẳng, 6) Thường nói lời dịu ngọt, 7) Thường nói lời phân giải, 8)
Thường giải thoát ra ngoài vòng tham ái, 9) Thường nhẫn nhục, 10) Thường suy
nghĩ chánh lý.
Vậy người tu hành phải
giữ giới luật làm căn bổn. Có bài tụng rằng:
“Thi-la
đắc thanh tịnh, vô lượng kiếp lai nhân, vọng tưởng như oán tặc; tham si nhược
sâm thần, tại dục nhi vô dục, cư trần bất nhiễm trần, quyền y ly cấu địa, hương
chứng Pháp vương thân.” Nghĩa là: Người tu hành giữ giới cho hoàn toàn
thì tâm thần đặng mát mẽ, bình an thơ thới, đặng hưởng quả thanh tịnh vô số
kiếp sắp đến, chứng quả A-la-hán. Lúc đó những điều vọng tưởng nó xa lánh ta,
bao nhiêu sự tham ái nó xa cách ta, cũng như sao hôm với sao mai mọc lặn không
thấy nhau vậy. Hiện giờ ta tuy ở chung lộn trong cõi tham dục, mà lòng ta không
tham dục, ta ở trong chốn bụi trần, mà thân ta chẳng nhiễm trần, ví như bông
sen mọc chỗ bùn lầy, mà vẫn sạch vẫn thơm.
3.
NHẪN NHỤC:
(Ksānti) đọc là sằn đề. Nhẫn nhục là gắng chịu điều sỉ nhục. Nhẫn nhục là một
phương thuốc hay, để trừ lòng hờn giận. Người đời vì điều danh lợi mà làm trái
ý nhau, rồi sanh ra hờn giận, ngậm cay nuốt đắng, gây thù kết oán, mà phải tạo
nghiệp về sau. Vậy phải thường nhẫn nhục.
Nhẫn nhục có hai cách là:
sanh nhẫn và pháp nhẫn:
– Sanh nhẫn là mình nhẫn với người: như người bày điều đặt chuyện nói
xấu mình, mắng chưởi mình, vu oan giá hoạ cho mình, chẳng những mình không hờn
giận, mà còn dùng lời đạo đức, tư cách ôn hoà, mà khuyên giải người trở nên
hiền đức. Đến như loài súc vật mà mình không làm hại đến nó, thì cũng là sanh
nhẫn đó.
Có bài tụng về sanh nhẫn
như vầy: “Bách mâu tập thể, bách phước
tướng sanh, vạn não xích thân, vạn đức cơ lập.” Nghĩa là: Trăm mũi nhọn
(việc hung dữ) chích vào thân mình mà mình vẫn vui lòng chịu thì cái phước mỗi
lần mỗi lên; muôn điều phiền não vấn vít thân mình, mình vẫn tự nhiên chẳng nao
núng, thì nền phước đức càng bền vững.
Nhà nho có dạy rằng: “Nhẫn, nhẫn, nhẫn, trái chủ oan gia tùng thử
tận.” Nghĩa là: Nhịn, nhịn, nhịn, đặng như vậy thì việc oan trái tiền khiên
dứt hết.
– Pháp nhẫn là chịu lạnh, nóng, gió, mưa, đói, khát, bịnh hoạn vân
vân... dẫu cho đến cảnh nào mình cũng vẫn an lòng lãnh chịu, chẳng hề phiền
não, ấy là pháp nhẫn.
Có câu: “Sự năng thường
nhẫn đắc thân an, nhứt thiết chư phiền não, giai tùng bất nhẫn sanh, bất nhẫn
bất giới tiểu sự thành đại.” Nghĩa là nếu gặp việc thất tình mà quá mừng, quá
giận, quá buồn, quá vui, quá thương, quá ghét, quá muốn, thì đều có hại cả,
ráng nhẫn, ráng dằn. Vậy mỗi lần cảnh ngộ phiền não đến thì phải nhịn nhục cho
nó tiêu đi, các điều phiền não vì chẳng nhẫn mà có. Chẳng nhẫn chẳng dằn, thì
việc nhỏ thành việc lớn.
Đức Khổng Tử có dạy rằng:
“Thiên tử bất nhẫn quốc không hư, chư hầu
bất nhẫn tán kỳ xu, quan lại bất nhẫn hình phạt tru, huynh đệ bất nhẫn các phân
cư, phu phụ bất nhẫn tình ý sơ, tự thân bất nhẫn hoạn bất trừ.” Nghĩa là
Thiên tử chẳng nhẫn thì nước phải nghèo, vua nước nhỏ chẳng nhẫn phải hư mình,
quan lại chẳng nhẫn bị tù tội, anh em chẳng nhẫn phải xa cách, vợ chồng chẳng
nhẫn ý tình lợt lạt ắt phân rẽ, bổn thân mình chẳng nhẫn hoạn nạn đến hoài
không dứt.
4.
TINH TẤN
(Virya) đọc là tì-lê-da, Tàu dịch là Tinh tấn, nghĩa là siêng năng, sấn sướt,
không ngã lòng.
Ở đời muôn việc đều nhờ
sự siêng năng mà đắc thành. Người tu hành cần phải siêng năng, lập chí rộng
lớn, không kể lâu mau, khó nhọc không nhàm, không chán, chí quyết tu sấn sướt
tới hoài đặng đem Phật pháp ra truyền cho người đời thọ hưởng, dầu gặp việc khó
khăn trở ngại cũng không ngã lòng, chỉ một lòng tinh tấn. Tinh tấn có hai cách
là: Bị giáp tinh tấn và Nhạo lợi tinh tấn.
– Bị giáp tinh tấn là mang cái giáp sắt đại lực của Bồ Tát vào, cương
quyết đi tới hoài, đừng sợ khó nhọc, dầu gặp điều trắc trở cũng đừng ngã lòng.
– Nhạo lợi tinh tấn: Nhạo là ham, lợi là ích lợi về đạo đức, như
siêng năng giảng kinh luật cho người nghe, hoặc lập hạnh tốt cùng hành công phu
cho sốt sắng, hiến thân làm sự phải với người không hề trễ nãi, ấy là nhạo lợi
tinh tấn.
Mình muốn làm cho tròn
nghĩa vụ nhạo lợi thì phải đại hùng đại lực, đại từ bi, có dõng cảm lớn, có
nghị lực to mới độ người đặng.
5.
THIỀN ĐỊNH
(Dhyana) đọc là thiền-na, Tàu dịch là thiền định.
Thiền định là lẳng lặng
ngẫm xét, chủ ý để cái tâm an tịnh. Người tu hành bước đầu nhập định, thì phải
xem việc giả trần như một nắm tơ vò, hãy dụng cái tâm như dao bén cắt một cái
cho đứt lìa; chỉ phải quyết đoán, dẫu có điều chi trở ngại cũng không ngã lòng.
Ông Xuyên Thuyền sư có lời tụng rằng: “Thiền
hà tuỳ lảng tịnh, định thuỷ trực ba thanh, trường thần sanh giác tánh, túc tự
diệt mê tình.” Nghĩa là chơn thần mình định, cái vọng tâm tiêu, cũng như
gió lặng thì tức nhiên sóng lặng.
Tóm lại, bởi tâm loạn
động, nên phải dùng phép định đặng buộc tâm viên ý mã.
6.
BÁT-NHÃ:
(Prajnā) đọc là bát-nhã, dịch là Trí huệ, nghĩa là sáng suốt. Người tu hành nhờ
phép thiền định mà đặng sáng suốt.
Trí huệ: Xuất thế
gian trí huệ hay là quán chiếu trí huệ, soi thấu khắp cùng, cho nên gọi là tri
quá khứ trí huệ, tri hiện tại trí huệ, tri vị lai trí huệ cho là vô thắng trí
huệ.
Được đến bực trí huệ
nầy, tất nhiên chuyện gì cũng thông hiểu cả, và chuyện gì trừ khử cũng đặng.
Có câu: “Dĩ trí huệ lực, tạc nhơn ngã sơn, dĩ trí
huệ tham thủ phiền não khoán, dĩ trí huệ hoả luyện thành Phật tánh.” Nghĩa
là dùng sức trí huệ phá tan hòn núi nhơn ngã, dùng xuổng trí huệ đào hết cái
hầm phiền não chứa từ vô số kiếp trong lòng, dùng lửa trí huệ thét hết tam ác.
Ra ơn Bố thí giúp cùng nhau,
Trì giới
nghiêm mình vẹn trước sau.
Nhẫn nhục
thương người cơn thống khổ,
Giải mê cho
kẻ buổi lao đao,
Tánh tâm ví
chẳng hồng trần bợn,
Tinh tấn
càng thêm phẩm giá cao.
Thiền định
lặng trong thâu diệu pháp,
Độ điều Bát-nhã khá mau mau.
P H Á P M Ô N T Ị N H Đ Ộ
Tịnh nghĩa là trong
sạch, Độ nghĩa là Quốc độ, cõi Tịnh Độ là cõi cực lạc trong sạch. Phật Thích Ca
tả cảnh Tịnh Độ (trong Kinh A Di Đà Tiểu bổn) như vầy: “Từ đây qua hướng tây xa
lắm, có một thế giới kêu là Cực lạc, là chỗ của đức Phật A Di Đà ở và đương
thuyết pháp. Người trong cõi ấy toàn là vui sướng, thanh nhàn, muốn chi đặng
nấy, không điều cực khổ. Nơi ấy không có ác đạo, thật là một phước địa đẹp đẽ
trang nghiêm, và người ở được cõi đó, đời đời kiếp kiếp khỏi phải luân hồi.”
Phật Thích Ca thấy chúng
sanh chịu nhiều điều khổ não, nào là sanh, lão, bịnh, tử, nên đem lòng từ bi,
truyền chỉ pháp môn Tịnh Độ là tu trong một đời người sẽ đặng thành Đạo.
Pháp môn Tịnh Độ của
Ngài dạy đây, chẳng có chi khác hơn là niệm sáu chữ “Nam Mô A-Di-Đà Phật.”
Thiệt là một phép dễ tu, dễ chứng và rất hạp với hoàn cảnh của mỗi người, già,
trẻ, gái, trai, giàu, nghèo, đều có thể tu được cả, nhưng chủ yếu có một điều
là phải giữ lòng cho đặng thuỷ chung như nhứt, kính tin cho đặng chắc chắn đến
cùng, thì được vãng sanh về Cực lạc.
Trong Phật thuyết
A-Di-Đà kinh có nói: “Ở thế gian, nếu trai lành gái tín phát tâm tu hành, gần
lúc lâm chung, nhờ trì niệm danh hiệu của đức Phật A-Di-Đà, hoặc một ngày, hoặc
hai ngày cho đến bảy ngày, tâm không rối loạn, thì Ngài và thánh chúng đến tiếp
dẫn chẳng sai.” Lại cũng trong kinh trên đây, đức Thích Ca có nói rằng: “Ai có
lòng tin Phật thường niệm danh hiệu của Đức A-Di-Đà, phát nguyện sanh về Cực
lạc, thì người ấy quyết chắc thành Phật, không phải đoạ lạc nơi tam đồ lục đạo
nữa.” Còn nhiều kinh điển làm bằng cớ về sự lợi ích của phép niệm Phật, như Vô
Lượng Thọ Kinh, Quán Vô Lượng Thọ Kinh, kinh A Hàm, kinh Phương Đẳng, kinh Bát
Nhã, kinh Niết Bàn, kinh Hoa Nghiêm, v.v...
Đức A-Di-Đà, vì lòng
thương chúng sanh vô hạn, nên lập ra 48 điều thệ nguyện độ tận chúng sanh và
thề rằng: Nếu còn một điều nguyện của Ngài mà không thành tựu, quyết không làm
Phật. Hiện nay Ngài ở tại Tây phương Cực lạc thế giới, đệ tử của Ngài là bực
Thinh văn, Duyên giác và Bồ tát, dân của Ngài đều là người trí huệ, an nhàn tự
tại, lại nhờ các vị Bồ tát, La hán chỉ phép tu hành không hề thối chuyển.
Vậy chúng ta hãy tin
chắc chắn nơi lời vàng ngọc của đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, và nơi nguyện
lực tiếp dẫn của đức A-Di-Đà mà cầu sanh về Tịnh Độ, thọ trì qui giới, tịnh tam
nghiệp, và tập niệm lần lần sáu chữ “Nam Mô A-Di-Đà Phật” thường giờ, thường
ngày, hằng tháng, hằng năm, một lòng tưởng niệm; cho đến lúc đi đứng, nằm ngồi,
đừng quên, thì đặng phần vãng sanh về Cực Lạc. Được như vậy mới đúng câu: “Nhứt
cú Di-Đà vô biệt niệm, bất lao đàn chỉ đáo Tây phương.” Nghĩa là: một câu Di-Đà
không tưởng khác, chẳng nhọc khảy tay đến Tây phương.
T H Ọ T A M Q U I
Thọ
Tam Qui:
Thọ là lãnh, vưng chịu, Tam là ba, Qui là tuân theo, giữ theo; chữ qui cũng có nghĩa là trở về, nghĩa
là sửa đổi lòng vọng ra chơn, đặng y theo giáo lý của Phật.
Tam
qui
là: qui y Phật, qui y Pháp, qui y Tăng.
QUI Y PHẬT
Qui y Phật nghĩa là tuân
theo Phật, nguyện y theo Phật...
Phật là bực đã toàn
giác, toàn minh, thoát ly ra ngoài biển khổ, còn chúng sanh thì say mê nơi bể
ái trầm luân, chịu luân hồi đời đời kiếp kiếp. Bởi không biết khổ là khổ, mà
trở lại cho khổ là vui, nên phải vơ vẩn trong biển luân hồi, đời đời chịu khổ:
sống khổ, đau khổ, già khổ, chết khổ.
Nay ta muốn lướt qua biển
khổ mà đến bến bồ đề, thì ta phải tuân theo Phật, phải làm y theo Phật, mà Phật
tức là Đức Thích Ca Mâu Ni, ngài là Giáo chủ cõi ta bà nầy.
Ta làm y theo Phật, thì
không chấp tướng ta với người, không chia rẽ kẻ lạ người quen, giống này da
khác, cũng không phân biệt giai cấp, sang hèn, quyền quới chi cả, chỉ giữ một
lòng bình đẳng mà giúp đời, vì người người đều có Phật tánh. Kinh Niết Bàn có
câu: Nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh. Ta giúp đời thì phải có lòng từ
bi như Phật. Có câu: Từ giả năng phổ chúng sanh chi lạc, bi giả năng bạt chúng
sanh chi khổ. Nghĩa là: lòng lành rải khắp sự vui cho chúng sanh, lòng thương
hay vớt khổ cho chúng sanh.
Vậy ta phải có lòng từ
thiện, yêu nhơn loại, bố thí, giúp đỡ kẻ đói rách khốn nàn, phải tịnh tâm, nhẫn
nhục, độ lượng, khoan dung, phải an vui với đời mà chịu những điều cực nhọc;
phải học theo hạnh Phật Thích Ca lo cứu người thoát khổ, phải coi cái nghiệp
duyên chung của quần chúng là trọng đại hơn nghiệp duyên của cá nhơn. Như vậy
mới trúng lý nhiệm mầu và khỏi trái lòng từ bi của Phật. Vậy là Qui Y Phật.
QUI Y PHÁP
Qui Y Pháp, nghĩa là
tuân theo pháp (phép) của Phật dạy, tức là Kinh, luật, luận.
Khi Phật còn tại thế
(nghĩa là chưa nhập Niết Bàn) Ngài đi ta-bà giảng dạy chúng sanh trong 49 năm,
gọi là thuyết pháp, hoặc Ngài bảo các vị Bồ tát giảng, Rồi sau các đệ tử tu
hành đắc đạo, gia công biên chép lại những lời giáo huấn của Phật (có đủ nghĩa
lý thấp cao, rộng hẹp) ra từng tập, lưu truyền cho đến ngày nay, gọi là Kinh
Phật.
Luật là giới luật, như
ngũ giới, thập giới v.v... Phật chế giới luật rõ ràng, tuỳ theo phương tiện cho
các đệ tử tu hành, đặng để cho người người đều làm lành lánh dữ. Rồi các đệ tử
tu hành đắc đạo cũng chép lại, gọi là giới luật. Người tu hành muốn khỏi phạm
nhằm tội lỗi, thì cần phải giữ theo giới luật.
Luận là luận bàn. Sau
khi Phật tịch rồi, có nhiều vị cao tăng tu hành đắc đạo vì thấy Phật pháp cao
sâu mầu nhiệm, phần nhiều người hiểu lầm, hành sái, nên ra công viết sách mà
giải nghĩa lý cho rõ ràng minh bạch, gọi là tạng Luận.
Nhà Phật có tám muôn bốn
ngàn pháp môn, nhưng không phải là số nhứt định, vì tục ngữ bên Ấn Độ kêu tám
muôn bốn ngàn thế cho tiếng nhiều lắm, khôn xiết kể. Lập pháp môn nhiều như vậy
là tuỳ theo căn cơ, phương tiện cho chúng sanh, ai tu pháp nào cũng đặng.
Vậy người tu hành cần
phải suy nghĩ cho biết rõ chân lý mà tu hành để khỏi lầm lạc sái đường, thì mới
có thể thoát vòng khổ hải.
QUI Y TĂNG
Qui y Tăng là tuân theo
ông thầy học Phật. Tiếng Phạn kêu là Sangha, dịch lại là tăng gia, nghĩa là hoà
hiệp, tức là những thầy dạy đạo chơn tu, đã thông suốt đạo lý.
Nay ta được biết Phật, biết giáo pháp mà tu
hành, là nhờ ông thầy học Phật. Vậy người tu hành theo Phật giáo phải noi theo
gương của ông thầy và phải vưng chịu những điều chỉ bảo. Nhưng mỗi người đều có
lương tri, lương năng, biết phân biệt chơn giả; nếu biết là chơn là phải, thì
cứ thiệt hành đi, không để ý chần chờ, không mơ hồ nữa, rồi lần lần tìm tòi
triết lý cao xa, cho thấu cái lý “sanh tuỳ hà xứ lai, tử tùng hà xứ khứ,” nghĩa
là mình bởi đâu mà sanh ra, rồi chết sẽ về đâu, lão thông cái nghiệp trái trần
duyên, chừng ấy thì trong tâm mình thường thanh, thường tịnh, không động, không
xao, mới mong siêu xuất tam giới, đặng chứng quả Phật.
T R Ì N G Ũ G I Ớ I
Trì là cầm, nắm, giữ gìn;
ngũ là năm, giới là răn, dặn dò. Ý nói ta dặn dò lòng, ta phải nắm giữ bo bo
cái lòng răn dè đó, đừng cho nó hở ra, như khi ta nắm giữ châu báu trong tay,
sợ rớt mất vậy. Có câu “Đắc nhứt thiện, quyền quyền phục ưng, phất thất như
giả.” Nghĩa là: Đặng một điều lành, bo bo nắm giữ vào lòng, đừng để rớt mất.
Người mà phát tâm tu
hành, trước hết phải giữ tròn năm điều răn: 1- không được sát hại sanh linh; 2-
không được trộm cắp; 3- không được tà dâm; 4-không được nói dối; 5- không được
uống rượu.
Người mà giữ trọn năm
điều răn ấy tức là giữ trọn năm nhơn cách, ở trong đời cũng là khỏi khổ.
Giới
thứ nhứt: cấm sát sanh
Cấm người giết hại lẫn
nhau, cùng loài động vật; các giống ấy đều có tánh như người, nó cũng tham sống
sợ chết, nó cũng đôi bạn, cũng sanh đẻ, cũng biết khát uống, đói ăn, biết lạnh
trốn gió, biết nực dầm nước, biết đau, biết nhức, sợ đánh, sợ đâm, nó cũng biết
ơn đền nghĩa trả, mà nỡ nào sát hại sanh mạng nó cho đành.
Người cùng loài vật cũng
đồng một thể, cũng một tinh hoa, nếu chúng nó có tu cũng thành Phật như ta vậy.
Các tông phái nhà Phật
đều đề xướng lên cái chủ nghĩa vạn vật nhứt thể, cho rằng vạn vật có một nguồn
gốc chung là chơn như (Bhutatathātā).
Kinh Niết Bàn nói:
“Chúng sanh đều có Phật tánh.”
Theo luật thế gian, hễ
giết người thì phải thường mạng, còn luật nhơn quả của tạo hoá thì lại gây cuộc
oan trái, nối tiếp luân hồi quả báo cho hậu thân. Cái phép để tránh tội sát hại
sanh linh thì không chi bằng ăn chay. Ăn chay có nhiều bực như là: ăn chay theo
sóc vọng là mỗi tháng 2 ngày, lục trai là 6 ngày, thập trai là 10 ngày, vân
vân... Những người ăn chay theo đây thì cũng giảm được đôi ít sự sát sanh, rồi
lần lần ăn trường trai.
Giới
thứ hai: Cấm trộm cắp
Không đặng cướp giựt,
lập mưu kế lường gạt mà đoạt của người.
Người đời thường coi của
tiền quá trọng, túi tham không đáy, tham muốn không cùng, nên mới sanh ra cái
tội trộm cắp lường gạt. Thử hỏi mình mất tiền của có biết ưu sầu tiếc nuối
không? Dẫu cho ai cũng trả lời rằng “có” vậy. Thế thì tất nhiên ai mất của tiền
lại không ưu sầu tiếc nuối như mình? Như vậy thì nỡ nào sanh lòng trộm cướp
lường gạt mà lấy của người cho đành. Có lắm người vì bị trộm cắp mà phải khốn
cùng, có nhiều người vì bị lường gạt mà phải quyên sanh. Thánh nhơn có dạy rằng:
“Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhơn,” nghĩa là điều gì mình không muốn, thì đừng làm
cho người. Làm lành thường bữa an vui, gây dữ có ngày mang hại, đó là lẽ cố
nhiên ai ai cũng biết. Nếu mỗi người đều phát tâm tu hành, chẳng màng ăn ngon,
mặc tốt, ở đẹp, thì tất phải tuyệt đặng lòng tham, lại còn tu hạnh bố thí, có
tiền của cho người, giúp người, cho đến lời nói cũng hằng khuyên người hướng
thiện, được toàn cả như vậy thì sẽ đặng thái bình.
Giới
thứ ba: Cấm tà dâm
Tà dâm là tội lấy vợ,
con người. Gian dâm vợ người, rủi bị chồng người bắt đặng, vì ghen tương mới có
sự đâm chém, giết hại lẫn nhau. Gian dâm con của người, làm cho gia đình người
bị nhục, đến nỗi phải trầm mình hay là tự tử vì bị danh nhơ. Vậy người giữ giới
tà dâm không nên sanh lòng tà ngoại;
chồng phải giữ phận chồng, vợ phải lo tròn phận vợ, rốt lại nam nữ phải giữ
chánh lễ.
Vả lại ở thế gian nầy,
từ loài người cho đến loài cầm thú, đều cũng bởi sự dâm dục mà gây nên các
việc, tạo nghiệp sanh tử. Kinh Phật gọi thế gian nầy là cõi dục giới. Nếu người
tu hành hằng làm lành lánh dữ, hàm dưỡng tinh thần, để cầu cho thần thức nhẹ
nhàng, tránh khỏi vòng sanh tử, thì có đâu phạm đến điều dâm dục, hà huống là
sự tà dâm.
Giới
thứ tư: Cấm nói dối
Nói dối là một sự rất ác
độc; nói dối chẳng qua là muốn lợi cho mình, đặng phần mình. Hễ nói thêm thì dư
cho người cũng hại, còn bớt thì thiếu của người cũng nguy.
Thường ở đời có lắm
người bị đổ thừa nói thêm hoặc bị dối trá lường gạt, mà bậu bạn phải chia lìa,
cửa nhà tan nát, làm cho cha xa con, vợ rẽ chồng, đến nỗi có lúc phải quyên
sanh tánh mạng, thiệt là hại thay, độc ác thay !
Sách có câu: “Bán cú phi
ngôn, ngộ tổn bình sanh chi đức” nghĩa là nửa câu nói quấy thì gặp sự mất đức
của mình. Vì vậy Phật cấm không được nói dối. Thấy sao, nghe sao, phải lặp lại
y lời, đừng thêm đừng bớt. Nếu người người đều tu hành, biết sợ “khẩu nghiệp”
thì tất nhiên tránh đặng cái tội vọng ngữ.
Giới
thứ năm: Cấm uống rượu
Rượu là một thứ thuốc dễ
làm say người, tốn của người. Uống nó vào bụng thì người khôn lanh hoá ra khờ
dại; hễ rượu vào thì lời ra, sanh lắm điều tác tệ, việc gì ác đức cũng dám làm,
dầu cho mẹ, vợ con, bậu bạn cũng không kể đến. Nó làm cho con người mê muội
quên tất cả bổn tánh.
Rượu uống thì hừng chí, ngũ tạng xao động, lửa
lòng phừng lên, tâm tánh rối loạn, không phân biệt chánh tà, mất gương trí huệ.
Vì vậy Phật cấm uống rượu, để được tâm tánh vững vàng, yên thần lặng trí. Ngũ
giới cấm lập thành là do đức Văn Thù Bồ tát. Ngài bạch cùng Phật Thích Ca, xin
lập ngũ giới cấm đặng chế phục kẻ hạ đẳng chẳng làm quấy, e khi đức Phật Thích
Ca thành đạo rồi thì thiên hạ theo đông lắm, phần nhiều người còn trong bực hạ
đẳng, không làm đặng trọn lành. Từ ấy lưu truyền đến nay (do theo kinh Huệ
mạng).
T Ị N H T A M N G H I Ệ P
Tịnh là trong sạch, Tam
là ba, Nghiệp theo tiếng Phạn kêu là “Karma”. Tàu dịch là tạo tác, tiếng ta có
thể dịch là hành động. Có câu: “Pháp môn tuy vô lượng, nhứt từ bao quát tịnh
tam nghiệp”, nghĩa là kinh luật tuy nhiều, nhưng mà có một câu Tịnh tam nghiệp
gồm trọn hết.
Thân có làm, miệng có
nói, ý có suy nghĩ gọi là nghiệp cả. Tam nghiệp là: 1- thân mình làm ra thì gọi
là thân nghiệp; 2- miệng nói ra thì gọi là khẩu nghiệp; 3- ý mình suy nghĩ ra
thì gọi là ý nghiệp.
Trong các nghiệp, có
nghiệp lành, có nghiệp dữ, nên quả báo khác nhau. Cả đời làm dữ thì phải chịu
quả báo dữ (phi phước nghiệp). Cả đời làm lành thì được quả lành (phước
nghiệp). Chưởng qua huờn đắc qua, chưởng đậu huờn đắc đậu, nghĩa là trồng dưa
đặng dưa, trồng đậu có đậu. Nên người tu hành cần phải tịnh tam nghiệp: thân,
khẩu và ý.
Thân
nghiệp tịnh: Thân nghiệp tịnh là không giết hại người cùng loài thú
vật, không làm điều trộm cắp, lường gạt của người, không tà dâm lang chạ, mà
trái lại phải cứu nạn phóng sanh, giúp kẻ khó, trợ kẻ nghèo. Tóm lại, ta cứ
hiến thân vào việc phải là đủ.
Khẩu
nghiệp tịnh: Khẩu nghiệp tịnh là không chửi mắng, rầy la, hăm doạ,
không nói sự trái lẽ làm buồn lòng người, không nói láo xược, không nói đâm
thọc, không nói thô ác, không nói thêu dệt, mà lại thường nói chơn thật hiền
lành, lời ngay thẳng, lời dịu ngọt, lời phân giải.
Ý
nghiệp tịnh: Ý nghiệp tịnh là không vọng tưởng điều quấy, không tham
danh lợi, không tham tài sắc, không tưởng phú quí công danh, ăn ngon mặc tốt,
không tưởng đến điều hờn giận, oán thù, cố chấp, ích kỷ hại nhơn.
Vậy ai là người quyết
chí tu hành, muốn cho được trong một kiếp nầy khỏi đường sanh tử, rảnh nợ luân
hồi, thì phải kính tin chắc chắn nơi lòng từ bi bác ái của Phật và vưng y theo
lời thầy dạy. Nghĩa là trước phải giữ giới hạnh cho hoàn toàn nghiêm chỉnh, sau
lo trau dồi tâm tánh mình, vì Phật đạo là tâm đạo. Muốn học đạo Phật phải học
hỏi lấy tâm, trau dồi lấy tâm. Việc chi cũng đều do nơi tâm mà ra cả (vạn pháp
do tâm). Phật cũng tâm, phàm cũng tâm, ngạ quỉ cũng tâm, súc sanh cũng tâm. Hễ
chơn là Phật, vọng làm chúng sanh.
Trong kinh Niết Bàn có
nói: “Nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh,” Nghĩa là hết thảy chúng sanh
đều có tánh Phật. Chỉ vì quên mất Phật tánh của mình đi, rồi trở lại tạo nghiệp
chúng sanh, vọng tưởng nào là danh lợi, tài sắc, thương ghét, giận hờn, ham
muốn, nên phải chịu luân hồi đời đời kiếp kiếp trong sáu nẻo ba đường.
Tóm lại, chúng ta muốn
về cõi Phật, phải xa lánh nghiệp chúng sanh, làm y tánh Phật (tự tánh chơn
không), là không ham danh lợi, tài sắc, thương ghét, giận hờn, ham muốn, lại
còn làm thêm các hạnh lành; tu tập được như vậy, thì tâm ta mới đặng thường
thanh thường tịnh, trong sạch làu làu, trong ngoài vắng lặng (ấy là hết vọng
huờn chơn), chứng bực vô sanh, thể đồng với Phật.
Muốn được như vậy, dầu ở
nhà tu cũng được, chẳng cần phải xuất gia. Ở chùa mà giới hạnh không được tinh
nghiêm, thì chẳng bằng ở nhà mà lòng thường trong sạch vắng lặng.
Đức Lục Tổ Huệ Năng có
nói: “Bằng muốn tu hành thì ở nhà tu cũng được vậy, chẳng cần phải ở chùa. Ở
nhà mà tu được, cũng như người Đông phương lòng lành. Trái lại, ở chùa mà chẳng
tu hành, cũng như người Tây phương lòng ác. Nếu lòng của mình trong sạch không
ô nhiễm, tức là tánh mình Tây phương vậy.”
Đức Lục Tổ Huệ Năng cũng
có nói tiếp một bài kệ và khuyên rằng: Nếu không chín chắn tu hành theo bài kệ
ấy, dầu có thí phát xuất gia cũng không có ích chi cho Đạo. Đại ý bài kệ rằng:
Nếu cái lòng của mình ngay thẳng, thì chẳng cần phải tập thiền. Đối với ơn cù
lao cúc dục của cha mẹ, thì đạo làm con phải nuôi dưỡng cho hết lòng. Đối với
kẻ trên người dưới, thì phải có nghĩa tương liên. Muốn cho lớn nhỏ được hoà
thuận, thì phải nhường nhịn lẫn nhau, như vậy các việc dữ đều không xảy ra (chỗ
xung đột trong gia đình). Ráng tu học cũng như bền chí trong sự cưa cây lấy
lửa, thì bùn lầy trổ hoa sen. Còn như lòng của mình biết cải quá tự tân, thì
sanh ra trí huệ. Trái lại, giấu diếm những điều dở dang của mình, thì lòng dạ
của mình thật là chẳng hiền. Hằng ngày mở lòng rộng lượng, thành đạo chẳng phải
tại bạc tiền. Đạo bồ đề tự nơi lòng của mình tìm thấy, chớ chẳng phải nhọc công
chạy theo những sự tướng bề ngoài. Ráng tu hành theo những lời giảng dạy trên
đây, thì Thiên đường trước mắt chẳng xa.
Việc tu hành của người
tại gia cư sĩ, đã lược giải trong quyển Lễ bái lục phương nầy như vậy, còn sự
hành lễ thì do quyết nghị của Ban Trị sự Trung ương, thể theo Tôn ý của đức
Tông Sư, cải cách cho phương tiện như dưới đây:
Các cuộc lễ cúng nơi
chánh điện, thì hướng vào bàn Phật chính giữa, lạy 24 lạy. Khi xá thì xá phía
trong, phía ngoài, và xoay vô phía trong xá một lần nữa là đủ lễ.
— CHUNG —
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét