PHÁP MÔN NIỆM PHẬT
VỚI DUY THỨC HỌC
Trích từ phụ
bản bộ sách PHẬT
HỌC VẤN ĐÁP
Tác giả: Cư Sĩ Như Pháp
1. Tôi nghe các bậc đàn anh nói rằng: “Pháp môn niệm
Phật bao hàm các pháp môn khác như pháp Thiền, pháp Giáo, pháp Luật, pháp Mật,
và khoa học Duy Thức. Nói tắt là, bất luận nhà Phật có pháp môn nào cũng được
pháp môn niệm Phật thu nhiếp tất cả, bởi sáu chữ Di Đà thu nhiếp tam tàng giáo
hải.” Lời của các bậc tiền bối nói như thế, là thật chăng?
— Thật hay không là do trình độ nghiên cứu của mỗi
người. Ai nghiên cứu sâu rộng thì thật, ai ít nghiên cứu thì còn hoài nghi, ai
không nghiên cứu thì không tin gì hết.
Ông nên biết
rằng, pháp môn niệm Phật chẳng những bao hàm các pháp môn, mà nó cũng bao hàm
ba khoa giáo lý như: Tiệm giáo, Đốn giáo và Viên giáo. Ba giáo nầy bao hàm tất
cả vô lượng pháp môn của nhà Phật.
2. Xin ông cho biết pháp môn niệm Phật thu nhiếp pháp
Thiền bằng cách nào?
— Nếu pháp môn niệm Phật không kiêm luôn pháp Thiền,
thì làm gì có lời nói tận thuở xưa rằng: “Hữu Thiền hữu Tịnh độ, dụ như đới
giác hổ.” Nghĩa là có Thiền có Tịnh độ, chẳng khác nào như cọp mọc sừng. Cọp là
thứ dữ, lại thêm có sừng, ý nói dữ càng thêm dữ, hung càng thêm hung, chẳng có
loài nào hung dữ bằng, có thể nói là vô địch.
Các vị tiền bối
thuở xưa nói câu đó để cho người học Phật hậu lai biết rằng: Ai tu Thiền và Tịnh,
thì người ấy là bậc trên hết.
3. Pháp môn niệm Phật nhiếp luôn pháp Giáo là
sao?
— Giáo là chỉ cho kinh giáo, tức là kinh điển tam
tàng giáo hải, là tất cả giáo lý nhà Phật.
Nói rằng pháp
môn niệm Phật bao hàm kinh giáo, nó có ý nghĩa là người niệm Phật phải nghiên cứu
tu học tất cả tam tàng giáo hải, chớ chẳng phải chỉ có niệm sáu tiếng Di Đà
thôi.
4. Thế nào là pháp môn niệm Phật bao hàm cả Luật
tông?
— Giáo lý nhà Phật gồm Kinh, Luật, Luận. Luật là
pháp luật, nó trở thành một tông phái, tông phái nầy lấy sự giữ giới làm gốc
trong vấn đề tu hành. Do giữ giới tinh nghiêm mà được thanh tịnh, do thanh
tịnh mà chứng đắc giải thoát đường luân hồi sanh tử, Kinh Luận chỉ là thứ yếu.
Như thế, chúng ta thấy rằng pháp môn niệm Phật cũng đưa đến sự nhất tâm thanh tịnh,
5. Pháp môn niệm Phật gồm Mật giáo bằng cách nào?
— Mật giáo là một tông phái trong Phật giáo. Giáo
phái nầy chuyên về trì chú trong sự tu hành. Ở Tây Tạng, Mật tông phát triển rất
mạnh.
Mật tông chủ
trì tam mật trong sự tu hành giải thoát. Tam mật là thân, khẩu, ý. Trong công
phu làm cho tam mật được thanh tịnh nhờ tay bắt ấn, miệng niệm chú. Tâm an thì
thân cũng an, tam nghiệp tịnh là Phật xuất thế.
6. Pháp môn
niệm Phật gồm luôn Duy Thức Học bằng cách nào?
— Vấn đề nầy tôi xin phép lược giải, không thể nói
nhiều được. Vì nói nhiều, nó thành một quyển Duy Thức Học chớ chẳng phải Phật Học
Vấn Đáp.
Duy Thức Học
cho chúng ta biết rằng: “Hành động tạo tác của ba nghiệp thân, khẩu, ý về sự việc
gì, cả thảy đều có gieo hột giống vào đệ bát A-lại-da thức. A-lại-da thức ví
như một cái kho, cái kho nầy dành để tàng trữ các hạt giống (chủng tử) do ba
nghiệp hành động tạo tác. Ba nghiệp (thân, khẩu, ý) hành động tạo tác cái chi đều
có lưu lại hạt giống. Các hạt giống đó được thức thứ bảy là Mạt na thức truyền
vào kho A-lại-da thức tồn trữ không cho hư mất. Lý do đó mà trong tâm A-lại-da
chứa vựa không biết bao nhiêu hạt giống: Tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến, thiện,
bất thiện, tình ái, tình dục, thương, ghét, đạo đức, tu hành, v.v...
Các hạt giống
trên đây loại nào tập trung theo loại ấy. Loại nào nhiều, nó có sức mạnh hiện
hành, chẳng cần có các duyên ngoại tại đồng tánh chất lôi cuốn, kích thích, làm
cho hạt giống phát sanh hiện hành (hiện ra hành vi cử chỉ, ngôn ngữ và ý nghĩ
suy tư gồm trong ba nghiệp). Trái lại, hạt giống nào ít oi, chẳng đủ sức mạnh tự
mình hiện hành, nó phải chờ các duyên bên ngoài kích thích nó mới hiện hành được.
Đến đây chúng
ta thấy rằng: “Tất cả hành động của ba nghiệp thân, khẩu, ý đều do chủng tử hiện
hành. Ví dụ như một người phóng tâm tham lam trộm cắp, người nầy trước sau gì
cũng thành một người tham lam trộm cắp. Thế thì biết rằng, tư tưởng của con người
làm sao, hình thành con người như thế ấy không hề sai. Lý do đó mà nhà Phật bắt
buộc người tu hành phải giữ giới để cho thân tâm đạt thanh tịnh, không sái quấy,
không bất nhơn thất đức, trái lại, phải tư duy đạo đức, hành động đạo đức, phải
tu tập nhứt thiết thiện pháp. Kinh Kim Cang nói: “Tu cả thảy pháp lành tức đặng
đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác.”
Sức mạnh của
chủng tử là tâm xui giục kích thích con người, làm cho con người xuôi dạ, yếu ớt,
không thể cưỡng lại được. Ai chứa vựa chủng tử xấu nhiều, người đó càng ngày
càng xấu xa hèn mạt, không ai chịu nổi. Ai chứa chủng tử chơn, mỹ, thiện nhiều,
người đó càng ngày càng thánh hóa, rốt ráo được thành Phật.
Hiểu thế lực
và sự hiện hành của chủng tử rồi, chừng đó mới có thể tin mình tu hành cũng sẽ
thành tựu công đức mà mình có công gieo trồng.
Theo Duy Thức
Luận, con người thường hành động, lời nói và ý nghĩ cái chi, con người sẽ trở
thành cái đó. Đây là lời nói thông thường theo khoa học. Còn lời nói của môn học
nầy thì, tư tưởng và hành động của con người thuộc tâm lý học, mà khoa tâm lý học
thế gian cũng chưa khám phá được. Môn học Duy Thức cho chúng ta biết rằng: “Mỗi
thức trong bát thức đều có kiến phần và tướng phần. Kiến phần tức là phần tri
kiến, Duy Thức Học nói nó là tâm sở của tâm vương. Tâm vương điều khiển tâm sở
hành động theo ý thích của nó, chẳng khác nào vua có quyền lực sai khiến các bề
tôi phải thi hành theo lệnh của mình ban ra. Kiến phần của thức vương chuyên về
việc duyên qua tướng phần (phần sự tướng). Tướng phần nầy chẳng phải bỗng dưng
mà có, nó do kiến phần biến hóa ra rồi lấy đó làm đối tượng sở duyên. Nghĩa là
kiến phần biến hóa ra sự tướng để duyên, chớ kiến phần không thể trực tiếp
duyên vào các pháp được. Thế thì biết rằng các tướng sở duyên nó không thật có.
Ví dụ khi ta
tưởng tượng đến chiếc xe gắn máy Dream II, thì tâm của thức là kiến phần, nó xuất
hiện và biến ra chiếc xe rồi nối duyên vào đó. Thế là tâm ta hiện nguyên hình
chiếc xe gắn máy. Ví dụ nầy nói lên vấn đề khi ta thường xuyên tư tưởng về cái
gì thì ta sẽ thành cái đó.
Tác dụng của
kiến phần linh động như vậy, nên Hòa thượng Nhất Hạnh nói: “Ta nhìn vật gì, ta
là cái đó.” Chỉ nhìn suông một vật mà còn như thế, nếu ta thường niệm tưởng vào
sự vật gì, thì ta sẽ trở thành sự vật đó. Ví dụ trên đây cho ta biết rằng: “Ta
thường phóng tư tưởng niệm Phật, thì tâm ta đang là tâm chúng sanh sẽ trở thành
tâm Phật. Khi ta tỏ ngộ tâm nầy, Thiền tông gọi là minh tâm kiến tánh thành Phật.
Vả chăng tâm nầy là tâm vọng, mà cũng là tâm chơn (tức Phật tánh). Bởi vì, vọng
tâm với chơn tâm, chẳng khác nào như sóng với nước. Nếu sóng tức là nước, thì vọng
tâm tức chơn tâm, bản thể tức hiện tượng, pháp tướng tức pháp tánh, chúng sanh
tức Phật, phiền não tức bồ đề.
Vì tùy duyên,
nên chơn tâm trở thành vọng tâm (chơn như trở thành vọng tưởng), khác nào nước
trở thành sóng nhưng không mất chất nước, cho đến trở thành băng giá cũng không
mất bản chất. Cũng như thế, chơn như trở thành vọng tưởng, nó đâu có biến mất bản
chất thanh tịnh tịch diệt.
Cái lắc léo nầy,
phàm phu và nhị thừa làm sao tỏ ngộ? Vì không tỏ ngộ vọng tưởng tức chơn như,
lý do đó, trong sự tu hành cứ cong xương sống mà diệt trừ vọng tưởng, thì có
khác nào diệt trừ phiền não. Phiền não mà bị tiêu diệt rồi, làm sao chứng được
tâm bồ đề. Chẳng khác nào sóng mà bị hủy diệt rồi nước làm sao còn.
Bao nhiêu lý
luận và ví dụ trên đây, cho ta biết chắc chắn rằng ta niệm Phật một giây, sẽ
thành Phật một giây, niệm Phật một phút thì thành Phật một phút, niệm một giờ
thành Phật một giờ, niệm một ngày thành Phật một ngày, niệm một tháng, một năm,
v.v...
Chỉ bàn sơ về
niệm Phật chớ chưa đi sâu vào chủng tử A Di Đà Phật tích trữ vô lượng vô biên
trong tàng thức. Những chủng tử nầy thuộc chơn mỹ thiện thanh tịnh tịch diệt,
nó đồng hóa các chủng tử không chơn mỹ thiện. Ban sơ chủng tử chơn mỹ thiện lấn
áp chủng tử không chơn mỹ thiện, lần lần chủng tử không chơn mỹ thiện bị đồng
hóa, hoặc bị loại trừ, khiến cho tâm của hành giả trở thành thanh tịnh vắng lặng.
Bản chất thanh tịnh vắng lặng càng ngày càng lớn mạnh, ngoại duyên trần cảnh dù
có hấp dẫn kích thích cách mấy cũng không thể nào làm hành giả ô nhiễm được.
Nên biết rằng,
bản chất của chơn tâm Phật tánh là thanh tịnh tịch diệt, niệm Phật đến chỗ
thanh tịnh tịch diệt, thanh tịnh là bản chất của bồ đề, tịch diệt là bản chất của
niết bàn. Niệm Phật đến chỗ thanh tịnh tịch diệt thì gặt hái được hai quả chuyển
y bồ đề niết bàn.
Có một vị Thiền
sư Đông độ nói rằng: “Niệm Phật là lấy máu rửa máu.” Từ cổ chí kim, ai cũng cho
rằng Thiền với Tịnh tu chung chẳng khác nào như cọp mọc sừng. Thế mà vị Thiền
sư nầy làm cái việc “hàng thịt nguýt hàng cá,” thật là khi kinh ngạo Phật.
Chính đức Từ phụ Bổn sư Thích Ca Mâu Ni giới thiệu pháp môn niệm Phật, thế mà
Thiền sư dám cao ngạo xem Phật tổ không có ký lô nào hết. Kinh Thủ Lăng Nghiêm
nói rằng: “Tri kiến không dính mắc vào năng sở (kiến tướng phần) thì nhập vào
tri kiến Như Lai.” Ngài Tâm Minh nói: “Nếu không cố chấp một chút gì là thật
có, dù là chơn hay phi chơn thì liền được nhập vào pháp tánh (chơn như) và
thành bậc chánh giác.”
Niệm Phật đến
chỗ thanh tịnh tịch diệt thì cái tâm vọng đâu còn, nó đã hoàn nguyên lại bản thể.
Cái tâm vọng mà hết vọng, thì đó là Bồ đề diệu minh chơn tâm.
Toàn thể vọng niệm tạp tưởng đều do chấp ngã, chấp pháp sanh ra. Nêu nhị chấp
đó không còn, người tu hành toàn đạt vô lậu thanh tịnh. Ngã pháp, đồng nghĩa với
năng sở, cũng đồng nghĩa với kiến, tướng phần. Nếu niệm Phật mà không chấp có
ta niệm, không chấp có ông Phật sở niệm, đó là niệm Phật đạt cảnh giới vô năng
vô sở đối đãi, đạt cảnh giới nhị vô ngã. Nhị vô ngã không còn thì làm gì có nhị
chướng (phiền não chướng và sở tri chướng). Nhị chướng không có thì chứng được
nhị chơn như (sanh không chơn như và pháp không chơn như), chứng được nhị chơn
như thì bỏ được nhị sanh tử (sanh tử phần đoạn và sanh tử biến dịch). Thoát ly
được nhị sanh tử thì chứng được hai quả chuyển y Bồ đề niết bàn (tạm nói chứng).
Đó, niệm Phật mà được như vậy đó, nó hơn vị Thiền sư nói rằng “Niệm Phật như lấy
máu rửa máu.”
Niệm Phật như
vậy, nó đâu có kém hơn pháp thiền mà Thiền sư đang tu. Bằng cớ là, nếu Thiền sư
kiến tánh thì đâu có nói câu “hàng thịt nguýt hàng cá.”
Nói rằng niệm
Phật như lấy máu rửa máu, nghĩa là không bao giờ trong sạch được. Nói như
thế thì dốt quá, tức không hiểu nghĩa lấy vọng trừ vọng (dĩ vọng trừ vọng).
Nếu lấy vọng trừ vọng là bất tịnh, thử nghiên cứu câu “lấy huyễn trừ huyễn”
trong kinhViên Giác coi có được hoàn toàn thanh tịnh hay không? Nếu lấy huyễn
trừ huyễn mà đặng thành bậc vô thượng Bồ đề, thì lấy vọng trừ vọng của pháp môn
niệm Phật cũng đạt đạo vô thượng Bồ đề vậy. Thanh tịnh cho đến không chấp có
thanh tịnh, thử hỏi còn cái gì ở nội tâm mà nói rằng “lấy máu rửa máu thì không
bao giờ thanh tịnh tịch diệt.” Thanh tịnh tịch diệt là bản chất của Bồ đề niết
bàn, mà hành giả đã thanh tịnh tịch diệt, thử hỏi nơi tâm địa còn cái gì, há chẳng
phải là cái không (chơn không) ư? Cái không nầy nó thuộc về tuyệt đối, chẳng phải
đối với cái có, thì làm sao gọi là lấy máu rửa máu.
Thanh tịnh
cho đến không còn kẹt vào lời nói của kinh Lăng Nghiêm: “Dù cho diệt hết kiến,
văn, giác, tri mà bên trong còn chấp giữ cái pháp trần do thức tâm phân biệt
phát sanh.” Không dụng công tu hành là bậc tu vô vi (không hành vi động tác) là
bậc vô công dụng đạo (không dụng công tu hành), đó là huệ giác Bát nhã ba la mật,
tức là vô thượng chánh đẳng chánh giác rồi, bậc nầy có phải là Viên Giác chăng?
Niệm Phật như
vậy thua Thiền tông chăng? Pháp Thiền được vậy chăng?
CHỦNG TỬ SANH HIỆN HÀNH,
HIỆN HÀNH SANH CHỦNG TỬ
Đến đây chúng
ta thấy rằng niệm Phật là gieo chủng tử vô lậu thanh tịnh. A Di Đà dịch là Vô
lượng quang, Vô lượng thọ, niệm A Di Đà là gieo chủng tử Vô lượng quang minh,
Vô lượng thọ mạng. Quang minh là gì? Là Huệ giác bát nhã ba la mật, tức là trí
huệ đáo bỉ ngạn, trí nầy là độ thứ sáu trong sáu độ ba la mật.
Khi niệm Phật,
đó là hiện hành trì niệm A Di Đà, nếu hiện hành thì có gieo là lẽ đương nhiên,
Duy Thức Học gọi là “Chủng tử sanh hiện hành, hiện hành sanh chủng tử.” Mỗi lần
hành động cái chi của ba nghiệp thân, khẩu, ý, đều có gieo chủng tử. Như thế chủng
tử được gieo như vậy từ năm nầy qua năm kia, đến suốt đời, tức suốt đời tích
lũy chủng tử A Di Đà đến vô lượng vô biên không thể đếm tính được là bao nhiêu
chủng tử A Di Đà.
Thiền sư mà
còn chấp ngã chấp pháp là một việc ít có. Máu để rửa là năng tu, máu bị rửa là
pháp tu. Năng sở, ngã pháp còn là công phu của phàm tiểu, nó thuộc về tương đối.
Tương đối là pháp có hai, chẳng phải bất nhị pháp môn, nó thuộc hữu vi công
phu. Trình độ như thế mà dám đại ngôn phê bình pháp môn niệm Phật bao hàm cả Tiệm
giáo, Đốn giáo và Viên giáo.
“Lìa chấp ngã
chấp pháp mà công phu tu hành, liền nhập vào Vô thượng chánh đẳng chánh giác.”
Đó, câu nói đó của kinh Lăng Nghiêm nay ứng dụng trong pháp môn niệm Phật. Ai
có pháp môn nào tài giỏi, hãy chống đỡ và bác khước câu nói đó xem?
Cư sĩ NHƯ PHÁP
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét