TỊNH ĐỘ CƯ SĨ PHẬT HỘI VIỆT NAM
GIÁO LÝ
CĂN BẢN
CẤP 4
(TÀI
LIỆU DÙNG ĐỂ ĐÀO TẠO THUYẾT TRÌNH VIÊN)
Biên soạn:
Cư sĩ LIỄU NHƯ
MỤC
LỤC
Bài
1: Nhơn thiên thừa bậc
Hạ (tiếp theo cấp I, TTV)
Bài 2: Tam
giới
Bài 3: Hiền
Bài
4: Tam hiền (tiếp theo)
Bài
5: Tứ gia hạnh
Bài
6: Phiền não, kiết sử,
kiến hoặc, tư hoặc và Tứ quả Thinh văn
Bài
7: Ba mươi bảy phẩm trợ
đạo
Bài
8: Lục căn
Bài
9: Bồ tát thừa (phần
giáo lý)
Bài
10: Bồ tát thừa bực Thượng
(tiếp theo)
Bài
11: Bồ tát thừa (phần pháp
môn tu chứng)
Bài
12: Pháp môn niệm Phật
BÀI 1
NHƠN–THIÊN THỪA BỰC HẠ (tiếp theo)
NGUỒN GỐC SANH XUẤT LỤC PHÀM
I. NỘI PHẬN VÀ NGOẠI PHẬN
Hết thảy chúng sanh gốc thiệt chơn
tịnh,(1) không có vọng nhiễm, nhưng vì cái kiến-hoặc hư
vọng mà thành có cái tập nghiệp hư vọng, nhơn đó mới phân ra nội phận (tình)(2)
và ngoại phận (tưởng).(3)
1. Nội phận: Tức là phần Tình ở trong thân của chúng
sanh. Nhơn các thứ ái nhiễm phát khởi ra vọng tình, rồi các tình ấy chứa mãi
chẳng thôi, mới sanh ra nước ái. Vậy nên chúng sanh nhớ đến đồ ăn ngon quí thì
trong miệng nước chảy, tâm nhớ người hoặc thương hoặc giận, tức thì nước mắt
chảy, tâm tham cầu vật báu thì nước dãi tham muốn phát ra, tâm đắm về sự hành
dâm thì tinh dịch ở nam căn, nữ căn tuôn chảy, nước ái ấy tánh nó nhuận ướt
nặng nề, chẳng bay lên được mà phải sa xuống (đoạ). Ấy gọi là nội
phận.(4)
2. Ngoại phận: Tức là phần Tưởng ở ngoài của chúng
sanh như tưởng Trời, Phật. Do tâm thường tưởng nên mới phát sanh cái khí siêu
thắng. Như tâm tưởng muốn sanh về cõi Trời, thì trong mộng tưởng bay cất. Tâm
tưởng về nước Phật thì Thánh cảnh hiện ngầm v.v… Các thứ tưởng ấy tuy tuỳ theo
chuyện có riêng khác mà cái thắng khí nhẹ nhàng cao cất thì đồng, nên thể nó
bay động chẳng chìm mà tự nhiên siêu việt.(5) Ấy là ngoại
phận.(6)
II. NGUỒN GỐC SANH XUẤT LỤC PHÀM
1. Cõi Trời: Những chúng sanh, nếu toàn là phần
tưởng tức là nhẹ thì phải bay lên, nên khi chết bay lên cõi Trời, mà nếu trong
tâm nhẹ bay ấy gồm cả Phước và Huệ với cái tinh nguyện muốn về
nước Phật thì trong lúc sanh về cõi Trời, tâm ấy tự nhiên mở mang thấy mười
phương Phật, tất cả các cõi Tinh-độ đều được tuỳ nguyện vãng sanh.
2. Cõi Tiên phi hành (Tiên bay): Nếu được 9 phần
tưởng, mà còn một phần tình thì cái thể nhẹ cất chẳng được cao như cõi Trời,
nên sanh vào cõi Tiên bay.
3. Cõi Đại lực quỉ vương (Chúa quỉ có oai lực lớn): Nếu được tám
phần tưởng, còn hai phần tình thì sanh vào cõi Đại lực quỉ vương.
4. Cõi quỉ Dạ xoa: Nếu được bảy phần tưởng, ba phần tình
thì sanh vào cõi Dạ xoa bay giữa không trung.
5. Cõi quỉ La sát: Nếu được sáu phần tưởng mà còn bốn
phần tình thì sanh vào cõi La sát đi trên mặt đất.
Bốn cõi này (từ cõi Tiên phi hành đến
cõi quỉ La sát) dạo chơi trong bốn tầng Trời, đi không ngăn ngại, nhưng không ở
được các cõi Trời.
6. Cõi người: Bằng tình và tưởng cân nhau (năm phần
tình, năm phần tưởng) thì chẳng bay lên, chẳng sa xuống, tức là đầu thai sanh
trong cõi người. Bởi có nửa tưởng nên thuận về sáng suốt thông minh, và nửa
tình nên thuộc về tối mà ngu độn.
7. Cõi A-tu-la: Nếu chỉ có bốn phần tưởng, sáu phần
tình thì phải bị chìm khỏi cõi người mà làm thần A-tu-la.
8. Cõi Ngạ quỉ: Nếu có ba phần tưởng tới bảy phần tình
thì chìm xuống Thuỷ luân, rồi sanh nơi hoả tế(7) là chỗ Thuỷ
Hoả giáp nhau mà thọ khí lửa dữ làm thân Ngạ quỉ, thường bị lửa thiêu đốt, dầu
được nước uống, cơm ăn, thì nước, cơm cũng hoá thành lửa làm hại mình đến trăm,
ngàn kiếp số không thể ăn uống được.
9. Cõi súc sanh: Nếu tám phần tình chỉ có hai phần
tưởng thì trôi tắp vào loài hoành sanh, nhẹ thì mang lông cánh, nặng thì đội
sừng.
10. Cõi Địa ngục: Nếu chín phần tình, chỉ có một phần
tưởng thì chìm dưới thấu suốt hoả luân, thân bị sa vào chỗ gió lửa, hai thứ
giao thông, nhẹ thì sanh vào địa ngục hữu gián,(8) nặng thì
sanh nơi địa ngục vô gián.
Còn không có phần tưởng nào, chỉ toàn là
phần tình thì bị chìm đoạ xuống tới A-tỳ địa ngục. Nếu có thêm những trọng tội
như khinh dễ Đại thừa, huỷ phá cấm giới của Phật, thuyết pháp bằng cách dối
gạt, không công mà tham của tín thí, không đức mà chịu sự cung kính, phạm tội
ngũ nghịch thì phải bị sanh vào A-tỳ địa ngục trong mười phương.
I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1) Chơn tịnh: Chơn là
không có vọng, tịnh là không nhiễm. Chơn tịnh là tâm không có vọng
nhiễm.
(2) Tình: Các thứ tình ái là
món sở hữu ở trong thân của chúng sanh như tham tài, tham sắc, tham ăn, tham
dâm v.v…
(3) Tưởng: thứ thắng khí do nơi
sự tưởng niệm Phật Trời phát sanh ra ở ngoài thân của chúng sanh.
(4) Nội phận: phần tình ở trong
thân của chúng sanh do các thứ tâm ái nhiễm phát sanh ra.
(5) Siêu việt: vượt ngoài phạm vi
hiểu biết, thường vượt ngoài cả thực tế.
(6) Ngoại phận: phần tưởng ở ngoài
của chúng sanh như tưởng Phật, tưởng Trời v.v…
(7) Hoả tế: tế là giao
hợp, giáp nhau, hoả tế là chỗ lửa giáp với nước.
(8) Hữu gián: có gián đoạn, đứt
quãng.
II. PHẦN VẤN ĐÁP
1) — Nội phận là gì?
— Là phần tình ở trong thân của chúng sanh phát
sanh ra các thứ nước ái, như nhớ tới vật ngon thì trong miệng chảy nước, nhớ
tới người thương thì nước mắt chảy. Các thứ nước ái ấy nặng nề nên chìm, làm
cho chúng sanh đoạ xuống.
2) — Ngoại phận là gì?
— Là phần tưởng của chúng sanh, như tưởng
Trời, tưởng Phật, tâm phát sanh ra một thứ thắng khí nhẹ nhàng bay cất lên, nên
đặng sanh về cõi Trời, cõi Phật.
3) — Từ cõi Người đến cõi Trời có thêm mấy cõi nữa?
— Có thêm bốn cõi nữa là cõi quỉ La-sát, quỉ
Dạ xoa, Đại lực quỉ vương và Tiên phi hành.
4) — Xin giải thích nguồn gốc sanh ra lục phàm?
— Nguồn gốc sanh xuất lục phàm là Tình và
Tưởng. Hễ phần tưởng thì nhẹ nhàng nên bay lên, siêu lên, còn phần tình thì
nặng nề nên chìm xuống, đoạ xuống.
III. PHẦN TOÁT YẾU
Nội phận là phần Tình
sanh ra các thứ nước ái nặng nề ở trong thân người, còn Ngoại phận là phần
Tưởng nhẹ nhàng ở ngoài thân bay cất lên.
Lục phàm sanh xuất do
nơi hai chữ Tình và Tưởng. Hễ toàn là phần Tình thì bị chìm đắm nơi cõi Địa
ngục, còn toàn là phần Tưởng thì được sanh lên cõi Trời.
Nam
Mô A Di Đà Phật.
Kính
Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.
————————————————
BÀI 2
TAM GIỚI
Tam giới là ba cõi: 1. Dục giới, 2. Sắc
giới, 3. Vô sắc giới.
A. DỤC GIỚI
Dục giới là cõi Trời thấp hơn hết trong
Tam giới, còn lòng tham dục và sắc thân, gồm có: bực trên là chư Thiên trong
sáu cảnh (Lục dục thiên), bực giữa là loài người trong bốn Đại châu và bực hạ
là súc sanh và vô gián địa ngục.
Dục giới thiên hay là Lục dục thiên có sáu cõi:
1. Cõi Trời Tứ thiên vương: là cõi Trời cư ngụ của bốn vị Đại
thiên vương ở từng Trời Dục giới, lưng chừng trên núi Tu Di, thấp hơn miền Đao
lỵ của Đức Đế Thích. Bốn vị Đại thiên vương này là ngoại thần của Đức Đế Thích,
gồm có:
a) Trì quốc thiên: hộ trì quốc thổ, quản lãnh phương
Đông.
b) Quảng mục thiên: dùng thiên nhãn xem xét và ủng hộ
chúng sanh, quản lãnh phương Tây.
c) Tăng trưởng thiên: Vị thiên vương làm cho nảy nở thiện
căn của chúng sanh, quản lãnh phương Nam.
d) Đa văn thiên: Vị thiên vương có phước đức nghe khắp
bốn phương, quản lãnh phương Bắc.
Các vị thiên vương thường hiện đến ủng
hộ Đức Phật Thích Ca trong đời hoằng pháp của Phật và thệ nguyện sẽ ra sức ủng
hộ Tam Bảo khi Phật nhập Niết-bàn. Vì vậy nên trong nhiều chùa, tại chánh điện
đều có hình Tứ thiên vương.
2. Cõi trời Đao lợi: cũng gọi là Tam-thập-tam thiên ở trên
đảnh núi Tu Di,(1) bốn hướng có tám cảnh trời cộng chung là
32 cảnh, ở giữa là Hỉ kiến thành của Đức Đế Thích làm vua.
3. Cõi trời Dạ-ma: cũng gọi là Dạ-mạ thiên, Tu-dạ-ma,
dịch là Thời phân, Thiện phân hay là Trị thiện phân, hưởng đủ các sự sung sướng
về ngũ dục. Muốn được sanh lên cõi Trời Dạ-ma phải tu phước cho thiệt nhiều.
4. Cõi trời Đâu suất: dịch là Tri túc, Hỉ túc, Diệu túc,
Thượng túc, do Đức Di Lặc chưởng quản ngụ tại cung Đâu suất mà giáo hoá chúng
sanh có thiện duyên sanh lên đó.
5. Cõi trời Hoá lạc: ở cảnh này chư Thiên tự hoá ra năm món
thoả thích về sắc, thinh, hương, vị, xúc mà hưởng lấy, cho đó là vui thú nên
gọi là Hoá lạc thiên.
6. Cõi trời Tha hoá Tự tại: cũng gọi là Đệ lục thiên, cảnh trời
cao hơn hết trong Lục dục thiên. Ở nơi cảnh Tha hoá Tự tại thiên, dù là Thiên
vương, thiên tử hay thiên nữ đều có quyền biến hoá ra mọi thân hình, mọi sự,
mọi vật một cách tự tại nên gọi là Tha hoá Tự tại thiên. Các vị Thiên vương ở cảnh
trời ấy tức là vị Ma vương thiên đã từng biến hoá ra muôn hình, vạn trạng mà
thử thách Đức Phật Thích Ca.
B. SẮC GIỚI
Sắc giới là cõi trời cao hơn cõi Dục
giới, tu hành dứt trừ hết lòng tham dục nhưng còn sắc thân làm bằng sắc chất
trong sạch do ngũ uẩn mà thành. Trong Sắc giới tuy có sắc chất nhưng các loài
hữu tình không có nữ phái hay âm phái và không có các thứ dục lạc thấm quen
nữa. Sắc giới chia có Tứ thiền thiên (4 ngôi thiền định), gồm có mười tám cõi
trời, có chúng sanh tu pháp thiền định, chia ra:
1. Ngôi Sơ thiền gồm có 3 cõi:
a) Phạm chúng thiên: cõi trời có dân chúng của Sơ thiền
thiên chúa cai quản.
b) Phạm phụ thiên: cõi trời có những bầy tôi thân thuộc và
quan liêu của Sơ thiền Thiên chúa.
c) Đại phạm thiên: cõi trời của Sơ thiền Thiên chúa,
thường gọi là Brahma, làm chúa tể cả vạn vật ở trong thế giới.
2. Ngôi Nhị thiền gồm có 3 cõi:
a) Thiểu quang thiên: là cõi trời có ít quang minh.
b) Quang âm thiên: là cõi trời lấy ánh quang minh làm
tiếng nói.
c) Vô lượng quang minh thiên: là cõi Trời có nhiều ánh quang minh.
3. Ngôi Tam thiền gồm có 3 cõi:
a) Thiểu tĩnh thiên: là cõi trời có ít thanh tịnh.
b) Vô lượng tĩnh thiên: là cõi trời rất thanh tịnh.
c) Biến tĩnh thiên: là cõi trời thanh tịnh ở khắp hết mọi
nơi.
4. Ngôi Tứ thiền gồm có 9 cõi:
a) Vô vân thiên: là cõi trời không có mây.
b) Phúc sanh thiên: là cõi trời để những người tu tập nhiều
phước đức sanh lên.
c) Quảng quả thiên: là cõi trời có nhiều quả báu lớn.
d) Vô tưởng thiên: là cõi trời đã có sanh vào là chung
thân không có tưởng niệm nào khác.
e) Vô phiền thiên: là cõi trời không còn phiền não.
f) Vô nhiệt thiên: là cõi trời không có nóng bức não nề.
g) Thiên kiến thiên: là cõi trời thấy rõ thập phương.
h) Thiện hiện thiên: là cõi trời không có chướng ngại, thức
vật gì cũng hiện ra rất rõ ràng.
i) Sắc cứu cánh thiên: là cõi trời một khi đến đó không còn
có sắc tính nữa.
C. VÔ SẮC GIỚI
Vô sắc giới là cõi trời cao tột hơn hết,
không còn lòng tham dục và sắc thân, chỉ còn có tâm thức (ý niệm) mà thôi,
nghĩa là trong năm uẩn chỉ có thọ, tưởng, hành, thức nhưng không có sắc. Trong
cõi Vô sắc có bốn bực thiên gọi là Tứ không thiền thiên, gồm có:
1. Không vô biên xứ thiên: nghĩa là những vị trong cõi Trời này
không còn sắc chất nữa, chỉ có chỗ hư không Tâm với hư không Pháp, tức là Tâm
hư không và sự vật chung quanh cũng thấy là hư không tương ưng(2)
với nhau mà thôi.
2. Thức vô biên xứ thiên: những vị trong cõi Trời này không có
chỗ (xứ) hư không nữa. Xét thảy đều do Tâm thức và pháp (vạn sự, vạn vật trong
hư không tương ưng với nhau mà có).
3. Vô sở hữu xứ thiên: những vị trong cõi trời này không có
thức xứ nữa, Tâm không nương vào đâu cả mà chỉ tương ưng với vô sở hữu xứ pháp
(tức là những sự vật không còn là sự vật).
4. Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiên: Những vị ở cõi trời này không có thức
xứ, tức là không còn hữu tưởng và không có vô sở hữu xứ, nghĩa là cái hữu xứ
không bám dính vào đâu được, tức nhiên không có cả vô tưởng và không có cả cái
định ở vô tưởng cho nên gọi là phi phi tưởng.
Các cõi trời từ Lục dục thiên đến Phi
tưởng phi phi tưởng cộng tất cả là 28 cõi, trong kinh phân định gọi là Tam giới
Nhị thập bát thiên.
Những chúng sanh đặng vào 28 cõi đó,
càng lên cao bao nhiêu thì thọ mệnh càng lâu dài bấy nhiêu như:
– Tứ thiên vương sống 500 tuổi.
– Đao lợi thiên sống 1.000 tuổi.
– Dạ ma thiên sống 2.000 tuổi.
– Đâu suất thiên sống 4.000 tuổi.
– Hoá lạc thiên sống 8.000 tuổi.
– Tha hoá thiên sống 16.000 tuổi.
– Ba-la hay Ba-tuần sống 32.000 tuổi,
v.v…
Nhưng vì chúng sanh ở trong các cõi trời
này còn cái nghiệp sót lại (lậu nghiệp) và sự mê lầm của ái dục trói buộc (ái
hoặc), cho nên chưa thoát luân hồi trong cảnh thế gian.
D. CỬU ĐỊA
Tam giới chia ra làm chín địa như dưới
đây:
1. Cõi dục giới: gọi là Dục giới ngũ thú tạp cư địa,
nghĩa là trong cõi Dục giới có đủ năm thú: Trời, người, ngạ quỉ, súc sanh và
địa ngục đồng ở, mà năm thú này đều có tình dục nên hiệp nhau làm một địa.
2. Cõi Sắc giới có bốn cõi thiền là:
– Sơ thiền, Ly sanh hỉ lạc địa:
là cõi trời sơ thiền ở cõi Sắc giới, tuy trong định tâm còn có giác, có quán
làm phòng ngại, nhưng đã lìa được cái khổ nơi cõi Dục giới mà sanh vui mừng
nên lập làm một địa.
– Nhị thiền, Định sanh hỉ lạc địa:
là từng trời trong Sắc giới đã không còn giác quán mà do nơi định sanh ra vui
mừng, cho nên làm một địa.
– Tam thiền, Ly hỉ diệu lạc địa:
đã lìa được cái mừng của hai địa trước, tâm ưa muốn sự yên tịnh mà có cái vui
thắng diệu cho nên lập làm một địa.
– Tứ thiền, Xả niệm thanh tịnh địa:
đã lìa được cái vui, cái mừng của các địa trước mà tâm thanh tịnh, bình đẳng,
trụ vào chánh niệm, xả thọ, không khổ, không vui cho nên lập làm một địa.
3. Cõi Vô sắc giới có bốn cõi Không thiền là:
– Không vô biên xứ địa: là bực
định thứ nhứt nơi cõi Vô sắc nhàm chán cái sắc thân như lao, như ngục mà muốn
lìa ra cho khỏi, rồi bỏ cái sắc tướng mà chuyên chú tâm về cái hư không vô biên
nên gọi là không vô biên xứ định.
– Thức vô biên xứ địa: là bực
định thứ hai nơi cõi Vô sắc, nhàm chán cái không ở ngoài mà chuyên chú vào cái
thức ở trong nên tâm với cái thức vô biên ấy tương ưng với nhau, nên gọi là
Thức vô biên xứ định.
– Vô sở hữu xứ địa: bực định này
lại nhàm chán cái thức mà quan sát cái tâm thức ấy gốc không chỗ có nên tâm với
cái không có chỗ ấy tương ưng lẫn nhau, nên gọi là Vô sở hữu xứ định.
– Phi tưởng, phi phi tưởng xứ địa:
bực định này thấy thức vô biên xứ là hữu tưởng còn vô sở hữu xứ là vô tưởng nên
bỏ cái hữu tưởng gọi là phi tưởng, và lại bỏ luôn cái vô tưởng nữa nên
gọi là phi phi tưởng.
Nên biết mỗi một địa có 9 món tư hoặc.
Tam giới có 9 địa nên có 9 tư hoặc x 9 = 81 món tư hoặc.
I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1) Tu Di sơn: Cũng gọi là
Tô-mê-lư có nghĩa là Diệu cao, Diệu quang, Thiện tích là hòn núi chúa (lớn hơn
hết) ở trung tâm toàn cầu. Ấy là hòn núi của Tiên Thánh, mỗi ngày các ngôi tinh
tú xây quanh hòn núi ấy, cao 84.000 do tuần. Triền núi mỗi mặt đều có một màu
riêng: màu bạc phía đông, màu sa-phia phía nam, màu san hô đỏ phía tây, màu
vàng phía bắc. Trên đảnh núi là cảnh Tiên của Đức Đế Thích, chung quanh núi có
bốn vị Thiên vương cai trị.
(2) Tương ưng: là ưng thuận với
nhau, cân xứng với nhau.
II. PHẦN VẤN ĐÁP
1) — Tam giới chỉ cõi nào?
— Tam giới có ba cõi là Dục giới, Sắc giới và
Vô sắc giới.
2) — Dục giới có mấy cõi?
— Dục giới có 6 cõi là:
1. Tứ thiên
vương, 2. Đao lợi thiên, 3. Dạ-ma thiên,
4. Đâu suất
thiên, 5. Hoá lạc thiên, 6. Tha hoá Tự tại thiên.
3) — Sắc giới có mấy cõi?
— Sắc giới có 18 cõi:
1. Ngôi
Sơ thiền có Phạm chúng thiên, Phạm phụ thiên, Đại phạm thiên.
2. Ngôi
Nhị thiền có Thiểu quang thiên, Quang âm thiên, Vô lượng quang minh thiên.
3. Ngôi
Tam thiền có: Thiểu tĩnh thiên, Vô lượng tĩnh thiên, Biến tĩnh thiên.
4. Ngôi
Tứ thiền có: Vô vân thiên, Phúc sanh thiên, Quảng quả thiên, Vô tưởng
thiên, Vô phiền thiên, Vô nhiệt thiên, Thiên kiến thiên, Thiện hiện thiên, Sắc
cứu cánh thiên.
4) — Vô sắc giới có mấy cõi?
— Trời Vô sắc giới có bốn cõi là: 1. Không vô
biên xứ thiên, 2. Thức vô biên xứ thiên, 3. Vô sở hữu xứ thiên, 4. Phi tưởng
phi phi tưởng thiên.
5) — Tuổi thọ của các cõi Trời như thế nào?
— Các cõi Trời này hễ tu lên cao chừng nào thì
thọ mệnh càng lâu dài chừng ấy, như cõi Tứ thiên vương sống lâu được 500 năm,
còn cõi Ba-la hay Ba-tuần sống tới 32.000 năm.
6) — Tam giới có mấy địa?
— Tam giới có 9 địa:
a) Dục
giới có một địa là Ngũ thú tạp cư địa.
b) Sắc
giới có bốn cõi thiền thiên nên có 4 địa là Ly sanh hỉ lạc địa, Định sanh
hỉ lạc địa, Ly hỉ diệu lạc địa, Xả niệm thanh tịnh địa.
c) Vô sắc
giới có bốn cõi Không thiền thiên nên có 4 địa là Không vô biên xứ địa,
Thức vô biên xứ địa, Vô sở hữu xứ địa, Phi tưởng phi phi tưởng địa.
7) — Chín địa nghĩa là gì?
— Là chín cảnh giới trong ba cõi do sự tu hành
có thấp, có cao mà phân ra chín địa cũng gọi là 9 phương trời.
III. PHẦN TOÁT YẾU
Tam giới có 3 cõi:
Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới.
Cõi Dục giới gồm có 6
cõi, cõi Sắc giới có 18 cõi và cõi Vô sắc giới có 4 cõi, cộng chung Tam giới
thiên có 28 cõi. Chúng sanh trong Tam giới tuổi thọ có ngắn hay dài tuỳ theo sự
tu hành thấp cao nhưng ít nhứt cũng sống được trong 500 tuổi trở lên.
Tam giới có tất cả 9
địa là: Ngũ thú tạp cư địa, Ly sanh hỷ lạc địa, Định sanh hỉ lạc địa, Ly hỉ
diệu lạc địa, Xả niệm thanh tịnh địa, Không vô biên xứ địa, Thức vô biên xứ
địa, Vô sở hữu xứ địa và Phi tưởng phi phi tưởng xứ địa.
Nam
Mô A Di Đà Phật.
Kính
Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.
————————————————
BÀI 3
H I Ề N
Hiền là các bực tu học các điều lành, có
tài, có đức, có hạnh, nhưng chưa bằng bực Thánh, còn trong vòng tu tập theo
thiện đạo vì chưa đoạn hết hoặc nghiệp và chưa chứng lý.
Trước hết, hàng nhơn thiên phải tu các
cấp bậc Hiền rồi mới tu đến các cấp bậc Thánh. Hiền vị có bảy ngôi, cũng gọi là
Thất hiền hay là Thất phương tiện, gồm có ba cấp bậc đầu là Tam Hiền:
(1. Ngũ đình tâm quán, 2. Biệt tướng niệm xứ, 3. Tổng tướng niệm xứ) và bốn cấp
bậc sau là Tứ thiện căn hay Tứ gia hạnh: (1. Noãn vị, 2. Đảnh vị, 3. Nhẫn vị,
4. Thế đệ nhứt).
A. TAM HIỀN
I. Ngũ đình tâm
quán:
Trước tiên, hàng nhơn thiên phải tu pháp
Ngũ đình tâm quán, dùng năm phép quán sát để đình chỉ những lỗi lầm của năm
vọng tâm.
a) Bất tịnh quán: Để đối trị lòng tham sắc dục. Bất tịnh
là không trong sạch, thân bất tịnh là thân này không có chút gì sạch sẽ cả.
Xét cho kỹ, thân này do tinh huyết là
hai vật nhơ nhớp tạo thành thì làm sao tinh sạch được. Nơi thân có chín khiếu
thường trôi chảy ra những vật bất tịnh như đại, tiểu, ghèn, ráy, mũi dãi v.v…
Đến khi chết, thây sình thúi không ai chịu nổi.
b) Từ bi quán: Từ bi là lòng thương rộng lớn của chư
Phật thường hay ban vui cho tất cả chúng sanh và hay cứu khổ cho cả mọi loài về
vật chất lẫn tinh thần, nhứt là cái khổ sanh, lão, bịnh, tử. Tu pháp quán từ bi
để trị sân hận và dự bị giai đoạn lợi tha sắp đến.
Sân hận là lòng nóng giận, một trong tam
độc. Do sự sân hận mới sanh lòng oán ghét thù hằn, khiến cho mình làm bao nhiêu
tội ác, mất hết các công đức, lại còn chịu tội báo.
Muốn trừ lòng sân hận phải khai mở lòng
từ bi, nghĩa là phải quán xét: tất cả lục đạo chúng sanh(1)
đều là họ hàng cha mẹ ta đã chết đi rồi sanh lại trong nhiều đời, nhiều kiếp
(kinh Bồ-tát Giới), nên ta phải mở lòng từ bi, thương xót, cứu khổ ban vui cho
họ chớ không nỡ giận hờn, oán ghét, thù hận mà làm hại họ khi họ lầm lỗi với
mình.
Quán xét tất cả chúng sanh cùng với ta
đồng một pháp giới tánh,(2) nên chúng sanh đau khổ tức là ta
đau khổ, chẳng khác chi mẹ với các con đồng nhau một hòn máu thịt nên hễ con đau
khổ là mẹ đau khổ. Dù con có làm nên tội lỗi tày trời, mẹ cũng hoan hỉ tha thứ
được, chớ chẳng đem lòng oán hận, giết hại con bao giờ.
c) Sổ tức quán: Ngọn đèn trước gió bị xao xuyến nên
không sáng, Tâm bị thất tình, lục dục chi phối, lục trần bủa vây nên tán loạn
và mờ tối. Muốn chế ngự Tâm tán loạn ấy phải dùng pháp sổ tức quán là quán sát
đếm hơi thở ra vào của mình.
Phương pháp tu sổ tức.
Phải ngồi kiết già hay bán già, lưng
ngay thẳng, chỗ thanh vắng. Hơi thở phải đều đều, không mau, không chậm, nhẹ nhàng.
Nếu thở mạnh và mau thì tâm sanh loạn động, còn thở chậm và ngắn thì sanh ra hôn
trầm.(3) Cách đếm hơi thở có bốn cách:
1) Đếm hơi lẻ: Thở vô đếm một, thở ra đếm hai. Đếm
cho đến mười rồi bắt đầu đếm lại. Ngồi đếm hơi thở nửa giờ, một giờ hay lâu hơn
nữa tuỳ ý mình.
2) Đếm hơi chẵn: Thở vào rồi thở ra đếm một, rồi thở
vô, thở ra nữa đếm hai, đếm cho đến mười mới bắt đầu đếm lại. Nên đếm hơi thở
ra để khỏi bị bịnh tồn khí là chứa hơi lại trong bụng (bụng to).
3) Đếm thuận: nghĩa là đếm như hai cách trên.
4) Đếm nghịch: nghĩa là cũng dụng hai cách trên nhưng
phải đếm mười trước, rồi lần xuống cho đến một, mới bắt đầu đếm mười lại.
Pháp quán sổ tức chuyên môn đối trị về
tâm tán loạn vì chăm chú đếm hơi thở nên tâm quên hết ngoại cảnh. Lại hơi thở
mạnh nhẹ, mau chậm, dài ngắn liên quan đến tâm loạn động, hôn trầm và yên tịnh.
d) Nhơn duyên quán: Phật dạy pháp nhơn duyên quán để đối
trị tâm si mê (ngu si, mê lầm). Người đời không tu học nên không hiểu các sự
vật trong vũ trụ từ đâu mà có, cho nên sanh ra nhiều lối chấp mê lầm như chấp
tự nhiên sanh hay do một vị chúa tể tạo ra v.v… mà không biết muôn sự muôn vật
sanh ra được là do nhơn duyên hoà hợp mà thành. Nhơn là nguyên nhơn, tức
là hột giống, còn duyên là trợ duyên, chỉ những vật có tánh cách liên
quan, trợ giúp cho hột giống ấy được thành tựu.
Trong 12 nhơn duyên, vô minh là nhơn,
còn hành, thức, danh sắc, lục nhập v.v… là những trợ duyên làm cho con người
phải già chết, liên quan cả ba đời (xin xem lại pháp Thập nhị nhơn duyên trong
quyển Giáo lý cấp I).
e) Giới phân biệt quán: Giới là giới hạn, phạm vi có tính cách
riêng biệt như sáu căn riêng khác với sáu trần. Giới phân biệt quán là quán xét
từng phạm vi một của 18 giới, gồm có 6 căn, 6 trần và 6 thức.
Sáu căn: là Nhãn, Nhĩ, Tỉ, Thiệt, Thân và Ý.
Căn có nghĩa là cội rễ, nguồn gốc có sức sanh nẩy làm cho thêm ra, lớn lên, như
mắt có sức làm cho người ta thấy rõ mọi vật nên gọi là nhãn căn. Nhãn, Nhĩ, Tỉ,
Thiệt, Thân và Ý, sáu món có sức phát sanh sự thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc, biết,
nên kêu là lục căn.
Sáu trần: là Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp
(xin xem lục trần trong tập 3, Giáo lý cấp I). Trần là bụi nhơ có tánh cách xao
động, dời đổi, hay làm cho lấm lem, dơ ố những vật mà nó dính vào.
Sáu thức: là sáu sự hiểu biết do 6 căn tiếp xúc
với 6 trần khởi ra phân biệt như:
Nhãn căn đối với Sắc trần khởi ra phân
biệt thì gọi là Nhãn thức.
Nhĩ căn đối với Thinh trần khởi ra phân
biệt thì gọi là Nhĩ thức.
Tỉ căn đối với Hương trần khởi ra phân biệt thì gọi là Tỉ
thức.
Thiệt căn đối với Vị trần khởi ra phân biệt
thì gọi là Thiệt thức.
Thân căn đối với Xúc trần khởi ra phân
biệt thì gọi là Thân thức.
Ý căn đối với Pháp trần khởi ra phân biệt thì gọi là Ý thức.
Nhận thấy có Căn, có Trần mới sanh ra
Thức. Nhờ có Thức người ta mới phân biệt, hiểu biết nên con người mới chấp cái
Thân này là Ta chơn thiệt (ngã chấp).
Căn, Trần, Thức đều là hư vọng.
— Căn nương nơi Thân mà có, nhưng Thân
lại do tứ đại giả hiệp mà thành. Đến lúc già chết thì Thân và Căn đều tan rã ra
hết, đâu còn cái gì là chơn thiệt nên Đức Phật nói Căn là hư vọng.
— Trần cũng là hư vọng như sắc trần là
vật có hình tướng như sắc thân. Trong kinh Kim Cang, Phật dạy rằng “Phàm sở hữu
tướng giai thị hư vọng” thì sắc trần làm sao tồn tại mãi được.
Như thinh trần không bao giờ tự nhiên mà
có, do nơi người nói ra hay vật chạm nhau mà thành. Dù tiếng có lớn, có nhỏ,
xa, gần, rõ ràng đều là pháp hữu vi sanh ra rồi liền mất không quày trở lại
được nên Phật gọi là hư vọng, có thiệt đâu, cho đến hương, vị, xúc, pháp cũng
đều như thế.
— Thức cũng là hư vọng như phần trên đã
nói, thức là sự nhận biết do căn và trần đối nhau mới có. Nếu căn không
đối với trần thì thức không có. Điều ấy chứng tỏ rằng thức là hư vọng.
Thân căn, trần, thức nếu là hư vọng thì
làm sao có cái gì chơn thiệt mà gọi là Ta. Tu pháp giới phân biệt quán để đối
trị bệnh ngã chấp, nghĩa là giác ngộ được không có cái Ta chơn thiệt.
I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1) Lục đạo chúng sanh: Sáu đường sanh tử
của chúng sanh (Thiên, Nhơn, A-tu-la, Ngạ quỉ, Súc sanh và Địa ngục).
(2) Pháp giới tánh: Là thể tánh không
thay đổi của muôn pháp, không sanh, không diệt, không có, không không (chơn
không).
(3) Hôn trầm: là hôn mê, trầm trệ,
nghĩa là mê man không tỉnh.
II. PHẦN VẤN ĐÁP
1) — Tam hiền chỉ cấp bậc nào?
— Tam hiền chỉ ba ngôi là Ngũ đình tâm quán,
Biệt tướng niệm xứ và Tổng tướng niệm xứ.
2) — Tứ gia hạnh hay là Tứ thiện căn chỉ những
vị nào?
— Tứ gia hạnh hay là Tứ thiện căn chỉ Noãn vị,
Đảnh vị, Nhẫn vi và Thế đệ nhứt.
3) — Ngũ đình tâm quán nghĩa là gì?
— Là năm phép quán để đình chỉ năm thứ vọng
tâm, gồm có:
Bất tịnh
quán để trừ lòng tham sắc dục.
Từ bi
quán để trừ lòng sân hận.
Sổ tức
quán để trừ lòng tán loạn.
Nhơn
duyên quán để trừ lòng si mê.
Giới phân
biệt quán để trừ lòng chấp ngã.
4) — Bất tịnh quán nghĩa là gì?
— Là phép quán không cò gì là trong sạch như
Thân không có chút gì sạch sẽ cả. Thân có cửu khiếu hàng ngày các vật nhơ nhớp
trôi chảy ra mãi, hôi tanh, khó chịu.
5) — Từ bi quán nghĩa là gì?
— Là phép quán để mở rộng lòng từ bi cứu khổ,
ban vui cho chúng sanh chớ không còn giận hờn, oán ghét, thù hằn mà làm hại kẻ
khác.
6) — Sổ tức quán nghĩa là gì?
— Là phép quán đếm hơi thở ra vào của mình,
hoặc đếm hơi lẻ, hoặc đếm hơi chẵn, hoặc đếm thuận hay nghịch để chận đứng tâm
tán loạn.
7) — Nhơn duyên quán nghĩa là gì?
— Là phép quán sự vật sanh khởi do nơi nhơn
duyên chớ chẳng phải do tự nhiên mà có hay một vị chúa tể nào tạo ra, để phá
trừ tâm ngu si, mê chấp của chúng sanh.
8) — Giới phân biệt quán nghĩa là gì?
— Là phép quán sáu căn, sáu trần và sáu thức
vốn là hư vọng để phá bệnh ngã chấp.
III. PHẦN TOÁT YẾU
Muốn tu lên bực
Thánh, trước hết phải trải qua tu các cấp bực Hiền, có bảy ngôi phân ra làm hai
cấp:
a) Là Tam Hiền, gồm
có Ngũ đình tâm quán, Biệt tướng niệm xứ và Tổng tướng niệm xứ.
b) là Tứ gia hạnh hay
là Tứ thiện căn gồm có Noãn vị, Đảnh vị, Nhẫn vị và Thế đệ nhứt,
Ngũ đình tâm quán là
năm phép quán để đình chỉ năm thứ vọng tâm là:
– Bất tịnh quán để
trừ lòng tham sắc.
– Từ bi quán để trừ
lòng sân hận.
– Sổ tức quán để trừ
lòng tán loạn.
– Nhơn duyên quán để
trừ lòng si mê.
– Giới phân biệt quán
để trừ lòng ngã chấp.
Nam
Mô A Di Đà Phật.
Kính
Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.
————————————————
BÀI 4
TAM HIỀN
(tiếp
theo)
II. BIỆT TƯỚNG(1) NIỆM XỨ
Kế tiếp phải tu về pháp Biệt tướng niệm
xứ, nghĩa là phân tu (biệt là phân, chia riêng ra từng món, tu riêng từ phép
một). Tứ niệm xứ là bốn chỗ thường
phải để tâm nhớ nghĩ:
1. Quán thân bất tịnh
2. Quán thọ thị khổ
3. Quán tâm vô thường
4. Quán pháp vô ngã
A. Quán thân bất tịnh: (Xin xem bất tịnh quán trong bài Ngũ
đình tâm quán).
B. Quán Thọ thị khổ: Thọ là lãnh chịu, thọ cảm nghĩa là cảm
động mà nhận lấy. Do nơi lục căn đụng chạm với lục trần, người ta cảm động nhận
ra là vui hay buồn, sướng hay khổ, rồi nhận lấy những sự buồn vui, sướng khổ
ấy. Chính cái lãnh thọ là nguyên nhân của các sự khổ như chúng ta lãnh thọ cái
thân này là thân của chúng ta, lãnh thọ cái này đáng ưa (thuận cảnh), lãnh thọ
cái kia đáng ghét (nghịch cảnh); vì thể nên mới hoá ra có khổ.
1. Lãnh thọ cái thân là khổ: Thân là nguồn gốc của sự khổ, vì nó là
nơi phải hứng chịu các quả khổ do nơi nghiệp nhơn của đời trước tạo ra. Những
sự khổ của chúng sanh là vô lượng, nhưng tóm lại chỉ có bốn cái khổ chánh là
sanh, lão, bệnh, tử mà không ai tránh khỏi và bốn cái khổ phụ là sanh ly tử
biệt khổ, cầu bất đắc khổ, oán tắng hội khổ, và ngũ ấm xí thạnh khổ.
2. Lãnh thọ sự ưa vui (cảnh thuận) cũng
khổ: Thiết
tưởng các sự vui sướng ở đời cũng tạm gọi là vui, nhưng không ngoài ngũ dục là
tiền của, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, ngủ kỹ. Nhưng xét ra cho kỹ thì những sự
vui ấy rất ngắn ngủi đâu có vĩnh viễn trường tồn, những sự vui ấy còn đối đãi
với cái khổ, nghĩa là trong cái vui ấy liền có cái khổ kế một bên, như vui về
cờ bạc thì bị thua thiếu, nghèo nàn, nợ nần, đói khát; vui về hút xách thì bị
bệnh ghiền, thân thể ốm đau, gầy mòn, tiền của sự nghiệp tiêu tan; vui về rượu
trà thì bị hao tiền tốn của, say sưa mất trí, tâm tánh nóng nảy, cha mẹ vợ con
cũng bất kể, việc gì ác đức cũng dám làm.
3. Lãnh thọ sự buồn ghét (cảnh nghịch)
cũng khổ: Có cảnh
nào khổ cho bằng gặp nghịch cảnh như mong cầu, ước muốn mà chẳng đặng toại
lòng, thi cử muốn đậu mà vẫn rớt hoài, trai gái thương nhau mà bị cấm ngăn
chẳng nên vợ chồng v.v… có khi quá khổ nạn nhân phải quyên sanh tự tử.
C. Quán tâm vô thường: vô thường là biến đổi, không còn hoài.
Tâm vô thường là chỉ vọng tâm, nó thay đổi luôn luôn không còn hoài. Tâm ấy là
tâm phân biệt, hiểu biết hằng ngày, biến đổi không ngừng nghỉ, khi vui, khi
buồn, lúc thương, lúc ghét, chuyền leo theo ngoại cảnh, tản mác ra các trần duyên.
Thế thì làm sao gọi là thường được. Phật dạy quán tâm vô thường để phá cái chấp
thường của ngoại đạo như bên Số luận thì chấp thần ngã là thường trụ,
còn Đa Thần giáo thì chấp có cái linh hồn còn hoài không chết.
Phật tử biết cái tâm là vô thường để đổi
cái tâm mê lầm ra tâm giác ngộ, đổi tâm tham, sân, si ra làm giới, định, huệ.
D. Quán pháp vô ngã: Pháp theo tiếng Phạn là Dharma, Tàu
dịch là Quỹ trì, nghĩa là nắm giữ khuôn phép của nó như vuông, dài, tròn, méo
v.v… để một khi người ta trông đến, liền phân biệt cái này là vật gì. Chữ Pháp
nghĩa rộng chỉ các vật, hữu hình và vô hình cũng đều gọi là Pháp cả.
Còn ngã là Ta, là chủ tể,(2)
là riêng có tự tướng(3) của mình. Người ta thường chấp các
pháp đều có tự tướng, nhưng trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật nói: “Nhơn
duyên hoà hợp, hư vọng huyễn sanh; nhơn duyên biệt ly, hư vọng danh diệt,”
nghĩa là các nhơn duyên nhóm họp thì giả dối có sanh ra, khi các nhơn duyên
chia rẽ, thì giả dối dứt mất.
Như vậy biết tất cả pháp do nhơn duyên
giả hiệp sanh ra in tuồng là có nhưng không có tự tướng nghĩa là trong
ấy không có cái Ta chơn thiệt nên nói các pháp là vô ngã. Vì không biết lý Pháp
vô ngã nên ngoài bị hoàn cảnh kích thích, trong bị phiền não lay động mà
phải trôi lăn trong vòng sanh tử luân hồi mãi.
III. TỔNG TƯỚNG(4) NIỆM XỨ
Tổng tướng niệm xứ là tổng tu (tu chung
cả bốn pháp) pháp môn tứ niệm xứ. Đại khái luôn luôn phải quán xét Thân này
là không trong sạch, là khổ não, là vô thường, là vô ngã.
Cảm thọ cũng không trong sạch, cũng khổ não, cũng vô
thường, cũng vô ngã, cho đến Tâm và pháp mỗi món cũng đều quán như
vậy hết, nên gọi là Tổng tướng niệm xứ.
I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1) Biệt tướng: biệt là phân chia,
riêng biệt, như nói biệt tướng niệm xứ là chia pháp Tứ niệm xứ ra từ pháp một
để quán xét tu hành.
(2) Chủ tể: là chúa tể, có quyền
lực, thống trị tất cả.
(3) Tự tướng: là tướng sẵn có của
mình, tức là tướng chơn thiệt.
(4) Tổng tướng: Tổng là chung, tóm
hết lại. Tổng tướng niệm xứ là quán xét mỗi pháp đều có chung bốn pháp ấy tổng
hợp lại, như thân thì quán bất tịnh, mà cũng khổ, vô thường, vô ngã chớ chẳng
phải chỉ có bất tịnh.
II. PHẦN VẤN ĐÁP
1) — Tứ niệm xứ chỉ bốn chỗ nào?
— Tứ niệm xứ chỉ Thân bất tịnh, Thọ thị khổ,
Tâm vô thường, Pháp vô ngã.
2) — Sao gọi là Thân bất tịnh?
— Là thân không trong sạch ví như cái túi để
đựng các chất dơ dáy thường do cửu khiếu chảy ra ngoài rất nhơ nhớp.
3) — Thọ thị khổ nghĩa là gì?
— Thọ là lãnh thọ, là sự nhận lãnh những điều
sướng khổ, buồn vui, thương ghét do nơi Căn tiếp xúc với Trần sanh ra. Những điều
ấy là phiền não, nguồn gốc của sự sanh tử nên hễ thọ lãnh là khổ.
4) — Tâm vô thường nghĩa là gì?
— Vô thường là biến đổi không còn hoài, Tâm vô
thường là chỉ vọng tâm, tâm phan duyên sanh diệt. Nếu nhận nó làm tâm chơn
thiệt thì mê bổn tánh, ắt phải trôi lăn trong đường sanh tử luân hồi.
5) — Sao gọi là Pháp vô ngã?
— Pháp vô ngã là các pháp không có cái Ta chơn
thiệt, không có tự tánh, do nhơn duyên giả dối sanh ra và do nhơn duyên giả dối
diệt mất.
III. PHẦN TOÁT YẾU
Tứ niệm xứ là bốn chỗ
thường phải để Tâm nhớ nghĩ:
1. Thân bất tịnh
2. Thọ thị khổ
3. Tâm vô thường
4. Pháp vô ngã.
Quán tu bốn pháp này
có hai cách:
Một là Biệt tướng
quán, nghĩa là quán xét riêng biệt từ pháp.
Hai là Tổng tướng
quán, nghĩa là quán xét trong mỗi pháp đều có đủ chung bốn pháp.
Nam
Mô A Di Đà Phật.
Kính
Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.
————————————————
BÀI 5
TỨ GIA HẠNH
Sau khi rõ biết bốn chơn lý vô thường,
vô ngã, bất tịnh, và khổ, các bậc Tam Hiền liền gia công tu tiếp theo bốn món
gia hạnh để đoạn trừ cho hết 88 món Kiến hoặc hầu phát sanh Thánh trí, dự vào
dòng Thánh giả, nghĩa là sẽ tiến lên được Thánh quả thứ nhứt là Tu-đà-hoàn.
Tứ gia hạnh gồm có:
1. Noãn vị: Noãn là hơi nóng. Chỗ sở đắc của vị
này cũng như người ta cưa cây để lấy lửa đã bắt đầu có hơi nóng, nhưng chưa
thiệt có lửa nên gọi là noãn vị (dụ với trí huệ sắp sửa phát sanh chớ chưa
thiệt sanh).
2. Đảnh vị: Gắng sức tu hành thêm nữa, định và
quán được rõ ràng thì bước lên đảnh vị. Đến địa vị này cũng như người leo núi,
lên đến đỉnh (dụ đứng trên chót đảnh sự mê lầm), trông ra bốn phương đều thấy
được rõ ràng nên gọi là đảnh vị.
3. Nhẫn vị: Lại tiến tu tới nữa thì liền hiểu rõ
chơn lý Tứ đế, nên người tu hành đinh ninh quyết chắc, nhẫn nại để đi cho tới
chỗ kết quả nên gọi là Nhẫn vị.
4. Thế đệ nhứt: Do nơi sự kham nhẫn tu tiến thêm lên
nữa, lần lần thấy được pháp tánh,(1) nhưng
chưa được thực chứng, ví như con diều giấy bay liệng giữa không trung, tự do
qua lại, không còn gì ngăn ngại, chỉ trừ sợi gai nhỏ, cũng như người tu hành
chỉ còn một phần Kiến hoặc nhỏ nhít sau cùng là được giải thoát. Bực này cao
quí nhứt trong đời nên gọi là Thế đệ nhứt.
Bốn cấp bực này gọi là Tứ gia hạnh hay
là Tứ thiện căn. Tứ thiện căn là bốn cấp bực gia công bồi bổ giống lành, cộng
với ba cấp bực trước thì gọi là Thất Hiền hay là Thất phương tiện.
I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1) Pháp tánh: Cái bổn tánh của
các pháp tức là cái thực thể của tất cả chúng sanh và các sự vật. Cái bổn tánh
này vốn là không tịch.
II. PHẦN VẤN ĐÁP
— Tứ gia hạnh nghĩa là gì?
— Tứ gia hạnh cũng gọi là Tứ thiện căn, là bốn
hạnh thêm vào để làm gia tăng, ý nói phải tu thêm bốn hạnh này để trừ cho hết
88 món Kiến hoặc hầu mới chứng quả Thánh Tu-đà-hoàn được, gồm có Noãn vị, Đảnh
vị, Nhẫn vị và Thế đệ nhứt.
III. PHẦN TOÁT YẾU
Bực Tam Hiền cần phải
gia công tu tiếp thêm bốn món gia hạnh để đoạn trừ cho hết 88 món Kiến hoặc hầu
mới đắc đặng quả Thánh thứ nhứt là Tu-đà-hoàn.
Tứ gia hạnh cũng gọi
là Tứ thiện căn gồm có Noãn vị, Đảnh vị, Nhẫn vị và Thế đệ nhứt. Tam Hiền cộng
với Tứ gia hạnh thì gọi là Thất Hiền hay là Thất phương tiện.
Nam
Mô A Di Đà Phật.
Kính
Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.
————————————————
BÀI 6
PHIỀN NÃO, KIẾT SỬ,
KIẾN HOẶC, TƯ HOẶC
và TỨ QUẢ THINH VĂN
I. PHIỀN NÃO
Phiền não là cội gốc của sự sanh tử luân
hồi. Phiền não nói rộng thì đến 84.000 thứ, nói hẹp có 10 thứ phiền não cội gốc là: tham, sân, si, mạn,
nghi, thân kiến, biên kiến, kiến thủ, giới cấm thủ và tà kiến (xin xem lại lời
giải trong quyển Giáo lý căn bản cấp I).
II. KIẾT SỬ
Mười thứ phiền não nói trên, trong kinh
Phật cũng gọi là Thập Kiết sử.(1) Bởi tánh chất của mười sử này có
mau chậm, mạnh yếu không đồng nên chia ra làm hai phần: ngũ lợi sử(2) và ngũ độn sử.(3)
a) Ngũ lợi sử: là năm món rất lanh lẹ, dễ sanh khởi
mà dễ trừ bỏ, gồm có: thân kiến, biên kiến, kiến thủ, giới cấm thủ và tà kiến.
b) Ngũ độn sử: là tham, sân, si, mạn, nghi, tánh chất
của nó ngấm ngầm sanh khởi chậm chạp, khó đoạn trừ nên gọi là Ngũ độn sử.
III. KIẾN HOẶC
Kiến hoặc là 10 món phiến não gốc, có
cái dễ trừ mà cũng có cái khó trừ không đồng nhau nên kinh Phật chia ra làm hai
loại:
1. Kiến hoặc
2. Tư hoặc.
Kiến hoặc cũng gọi là Phân biệt hoặc, là
cái thấy mê lầm về phần phân biệt của ý thức.
Mười món kiến hoặc là: tham, sân, si,
mạn, nghi, thân kiến, biên kiến, kiến thủ, giới cấm thủ và tà kiến.
Tám mươi tám món
kiến hoặc
Nếu đem mười món kiến hoặc phối hợp với
4 Đế và 3 cõi thì thành ra 88 hoặc.
a) Dục giới có 4 đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo).
Khổ đế, đủ → 10 hoặc
Tập đế trừ thân kiến, biên kiến và
giới cấm thủ, còn lại → 7 hoặc
Diệt đế cũng vậy, còn lại → 7 hoặc
Đạo đế trừ thân kiến và biên kiến, còn lại → 8 hoặc
Cộng chung: →
32 hoặc
b) Sắc giới: cũng có 4 đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo).
Cõi này trừ thêm sân vì có tu Thiền định nên không có Sân.
Khổ đế trừ sân nên còn → 9 hoặc
Tập đế trừ thân kiến, biên kiến,
giới cấm thủ và sân, còn → 6 hoặc
Diệt đế cũng vậy, còn → 6 hoặc
Đạo đế trừ thân kiến, biên kiến và sân, còn → 7 hoặc
Cộng
chung → 28
hoặc
c) Vô sắc giới: Cũng như Sắc giới, có → 28 hoặc
Cộng chung Tam giới có 32 + 28 + 28 = 88
kiến hoặc.
IV. TƯ HOẶC
Tư hoặc là suy nghĩ mê lầm do nơi năm
căn tiếp xúc với năm trần mà sanh ra lòng tham, sân, si, mạn. Cái mê lầm này có
từ vô thỉ đến giờ, hễ có Ta là có nó, cũng gọi là Câu-sanh-hoặc rất khó đoạn
trừ.
Phối hợp với Tam giới có 10 món tư hoặc
là:
Dục
giới có → 4 (tham, sân, si, mạn)
Sắc
giới có → 3 (tham, si, mạn)
Vô
sắc giới có → 3 (tham, si, mạn)
Cộng
chung: → 10 Tư hoặc.
CHÍN PHẨM (4)
Ba bực: Vì nó ăn sâu lâu đời vào tâm thức nên
có thứ mạnh, thứ vừa và thứ yếu (ít). Thứ mạnh là bực Thượng, thứ vừa là bực
Trung, thứ yếu là bực Hạ. Mỗi bực lại chia ra làm ba phẩm, thành ra có 9 phẩm
cả thảy.
Như bực Thượng chia ra làm ba phẩm là:
Thượng thượng, Thượng trung, Thượng hạ.
Bực Trung chia ra làm ba phẩm là:
Trung thượng, Trung trung, Trung hạ.
Bực Hạ chia ra làm ba phẩm là:
Hạ thượng, Hạ trung, Hạ hạ.
Nên biết mỗi một địa có 9 phẩm Tư
hoặc, phối hợp với chín địa nên mới có 9 × 9 = 81 phẩm tư hoặc.
V. TỨ QUẢ THINH VĂN
1. Tu-đà-hoàn: như trong bài Tứ gia hạnh đã nói, bực Thế
đệ nhứt chỉ còn phá một phần nhỏ nhít kiến hoặc nữa là được chứng quả Thánh
thứ nhứt là Tu-đà-hoàn, nên bực này cố gắng tu tiến thêm lên nữa, dùng trí huệ
vô lậu đoạn hết phần kiến hoặc nhỏ nhít ấy liền chứng quả Tu-đà-hoàn cũng gọi
là Dự lưu quả hay Thất lai, nghĩa là còn bảy lần sanh lại cõi Dục
giới.
Nên nhớ kỹ: quả Tu-đà-hoàn mới trừ 88 phẩm kiến hoặc trong Tam giới, chớ chưa
trừ được Tư hoặc nào hết trong Tam giới, nên Thất thức tức là Mạt-na-thức
còn chấp Ngã (Ta).
2. Tư-đà-hàm: cũng gọi là nhứt lai, nghĩa là
còn một lần sanh lại cõi Dục giới nữa mới dứt.
a) Tư-đà-hàm hướng hay Nhứt lai hướng: Nên biết, muốn không còn sanh lại
trong cõi Dục giới thì phải đoạn trừ thêm 9 phẩm tư hoặc của cõi Dục
giới cho hết, mới ra khỏi cõi Dục giới được; mà quả Tư-đà-hàm hướng mới khởi sự
đoạn tư hoặc được có 5 phẩm trước của dõi Dục giới nên gọi là Tư-đà-hàm
hướng hay là Nhứt lai hướng.
b) Tư-đà-hàm quả: Khi Nhứt lai hướng hay Tư-đà-hàm hướng
diệt thêm một phẩm tư hoặc nữa là 6 phẩm mới chứng được Tư-đà-hàm quả. Bực này
còn sanh lại cõi Dục giới một lần vì còn 3 phẩm tư hoặc chót chưa trừ hết.
3. A-na-hàm: Cũng gọi là Bất lai hay là bất hoàn
quả, nghĩa là không còn sanh lại trong cõi Dục giới nữa.
a) Bất hoàn hướng: Bực này diệt thêm được hai phần tư
hoặc thứ 7 và 8 của cõi Dục giới, nên gọi là Bất hoàn hướng.
b) A-na-hàm quả: Bực này diệt thêm phẩm tư hoặc thứ 9
nữa là đủ 9 phẩm tư hoặc trong Ngũ thú tạp cư địa, tức là cõi Dục giới, nên
không còn sanh lại cõi Dục giới nữa.
4. A-la-hán: Bực này phải đoạn trừ thêm 72 phẩm Tư
hoặc trong 2 cõi Sắc giới và Vô-sắc-giới mới thoát ly ra khỏi Tam giới (Sắc
giới có 4 địa và Vô sắc giới có 4 địa,(5)
cộng chung là 8 địa; mỗi địa có 9 phẩm tư hoặc thì 8 địa có 72 phẩm tư hoặc).
a) A-la-hán hướng: Bực này diệt hết 71 phẩm tư hoặc của
cõi Sắc và Vô sắc giới nên gọi là A-la-hán hướng.
b) A-la-hán quả: 3 quả trước, Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm và
A-na-hàm gọi là bực hữu học. Bực A-la-hán quả trừ được phẩm tư hoặc chót
trong cõi Vô sắc giới, tức là trừ đủ 81 món tư hoặc trong Tam giới, nên mới dứt
đường sanh tử luân hồi, thoát ly ra ngoài Tam giới. Bực A-la-hán cũng gọi là
bực Vô học.
I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1) Kiết sử: Kiết là trói
buộc, sử là sai sử, nghĩa là 10 thứ phiền não này trói buộc loài hữu
tình, không cho ra khỏi Tam giới và sai sử phải chịu khổ sanh tử, luân hồi
trong 6 đường mãi.
(2) Lợi sử: Lợi nơi đây
có nghĩa là lanh lẹ, nghĩa là dễ sanh khởi mà cũng dễ trừ bỏ.
(3) Độn sử: Độn nơi đây
có nghĩa là chậm lụt, ngấm ngầm, sanh khởi chậm chạp.
(4) Phẩm: hạng, bực.
(5) Địa: là cõi, chỗ ở, cảnh
giới, địa vị.
II. PHẦN VẤN ĐÁP
1) — Xin kể 10 phiền não gốc?
— Tham, sân, si, mạn, nghi, thân kiến, biên
kiến, kiến thủ, giới cấm thủ và tà kiến.
2) — Sao gọi là kiết sử?
— Mười món phiền não căn bản gọi là Thập kiết
sự vì nó hay trói buộc chúng sanh trong Tam giới và sai sử chúng sanh trong lục
đạo luân hồi.
3) — Tại sao phiền não lại chia ra làm hai
phần là kiến hoặc và tư hoặc?
— Trong 10 món phiền não gốc có cái dễ trừ nên
gọi là kiến hoặc, có cái khó trừ nên gọi là tư hoặc.
4) — Mười món kiến hoặc là những gì?
— Là tham, sân, si, mạn, nghi, thân kiến, biên
kiến, kiến thủ, giới cấm thủ và tà kiến, tức là 10 món phiền não căn bản.
5) — Tại sao lại có 88 món kiến hoặc nữa?
— Nếu đem 10 món kiến hoặc này phối hợp với tứ
đế, ba cõi thì thành ra 88 món kiến hoặc.
6) — Mười món tư hoặc là những gì?
— Mười món tư hoặc cõi Dục giới có 4 món
(tham, sân, si, mạn), cõi Sắc giới có 3 món (tham, si, mạn), cõi Vô sắc giới có
3 món (tham, si, mạn), cộng chung là 10 món tư hoặc trong Tam giới.
7) — Chín phẩm nghĩa là gì?
— Mười thứ tư hoặc, có thứ lâu đời đã mạnh,
thứ vừa và thứ mới còn yếu kém, nên phân làm ba bực là Hạ, Trung, Thượng. Rồi
mỗi bực lại chia làm 3 phẩm nữa nên có tất cả là 9 phẩm.
8) — Bốn quả Thinh văn, mỗi quả tu hành đoạn
hoặc cách nào?
— Bực Tu-đà-hoàn trừ được 88 món kiến
hoặc trong Tam giới chớ chưa trừ được phẩm tư hoặc nào cả.
Bực Tư-đà-hàm
hướng trừ được thêm 5 phẩm tư hoặc trong cõi Dục giới.
Bực Tư-đà-hàm
quả trừ thêm 1 phẩm tư hoặc nữa là 6 phẩm.
Bực A-na-hàm
hướng trừ thêm được 2 phẩm tư hoặc nữa trong cõi Dục giới, cộng thành 8 tư
hoặc đã trừ được.
Bực A-na-hàm
quả trừ thêm 1 phẩm tư hoặc chót nữa là đủ 9 phẩm tư hoặc của cõi Dục giới,
nên không còn sanh lại cõi Dục giới nữa.
Bực A-la-hán
hướng trừ thêm 71 phẩm tư hoặc trong 2 cõi Sắc giới và Vô sắc giới.
Bực A-la-hán
quả mới trừ được đủ 81 món tư hoặc trong Tam giới.
III. PHẦN TOÁT YẾU
Mười món phiền não
căn bản cũng gọi là 10 món kiến hoặc là: tham, sân, si, mạn, nghi, thân kiến,
biên kiến, kiến thủ, giới cấm thủ và tà kiến.
Đem 10 món kiến hoặc
này phối hợp trong Tam giới, Tử đế thành ra 88 món kiến hoặc trong 3 cõi.
Mười món tư hoặc
trong Tam giới gồm:
– Dục giới có 4 món:
tham, sân, si, mạn.
– Sắc giới có 3 món:
tham, si, mạn.
– Vô sắc giới có 3
món: tham, si, mạn.
Mười món tư hoặc này
phân ra làm 9 phẩm, phối hợp trong 9 địa thì thành ra 81 phẩm tư hoặc.
Bốn quả Thinh văn nhở
tu đoạn kiến hoặc và tư hoặc mà thành.
Bực Tu-đà-hoàn mới
trừ được 88 món kiến hoặc mà thôi.
Bực Tư-đà-hàm đoạn 88
món kiến hoặc, lại đoạn thêm được 6 phẩm tư hoặc nữa.
Bực A-na-hàm mới đoạn
dứt 88 món kiến hoặc và 9 phẩm tư hoặc trong cõi Dục giới.
Chỉ có bực A-la-hán
mới đoạn hết 88 món kiến hoặc và 81 phẩm tư hoặc trong Tam giới mà chứng Niết
bàn tịch diệt ra khỏi Tam giới.
Nam
Mô A Di Đà Phật.
Kính
Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.
————————————————
BÀI 7
BA MƯƠI BẢY PHẨM TRỢ ĐẠO
Đạo đế có 37 phẩm, chia ra làm 7 loại:
– Bốn món niệm xứ (Tứ niệm xứ)
– Bốn món chánh cần (Tứ chánh cần)
– Bốn món như ý túc (Tứ như ý túc)
– Năm căn (Ngũ căn)
– Năm lực (Ngũ lực)
– Bảy phần Bồ-đề (Thất Bồ-đề phận)
– Tám phần chánh đạo (Bát chánh đạo)
A. TỨ NIỆM XỨ (xin xem bài giảng số 4)
B. TỨ CHÁNH CẦN:
Tứ chánh cần là bốn pháp siêng năng
chánh đáng:
1. Điều ác chưa sanh khởi phải ngăn ngừa
đừng cho phát khởi và
siêng năng tinh tấn, nghĩa là tâm mình chưa móng tưởng những điều ác thì
mình phải cố gắng giữ gìn đừng cho nó phát khởi lên, luôn luôn cần phải cố ý
kiềm chế tâm mình đừng cho nó sanh vọng niệm.
2. Điều ác đã sanh phải trừ cho tuyệt và
siêng năng tinh tấn,
nghĩa là nếu lỡ có phạm tội ác thì chúng ta phải ăn năn sám hối, thệ nguyện
đoạn trừ cho tận gốc, không còn tái phạm nữa.
3. Điều lành chưa sanh phải phát khởi
cho sanh và siêng năng tinh tấn, nghĩa là người tu hành phải hiểu làm ác phải bị cái quả khổ,
còn làm lành mới hưởng được cái quả vui, nên lo phát khởi trong tâm những ý
niệm làm lành và thực hành tu hạnh bố thí.
4. Điều lành đã sanh phải phát triển
thêm lớn và siêng năng tinh tấn mãi, nghĩa là người tu hành đã giữ giới cấm, không tạo ác nghiệp,
tức là điều lành đã sanh, nhưng lại phải làm thêm các việc lành nữa, thì việc
lành ấy lại thêm lớn, như chúng ta tu pháp trừ thập ác, lại tu thêm pháp hành
thập thiện nữa và cứ phát triển thêm lên mãi.
C. TỨ NHƯ Ý TÚC
Như ý là được như ý mình muốn, túc là chân, có nghĩa là nương
tựa, nghĩa là bốn pháp này là nơi nương tựa cho các công đức thiền định, thần
thông được thành tựu như ý muốn của mình, cũng gọi là bốn pháp thiền định hay
là tứ thần túc, gồm có:
1. Dục như ý túc: là mong muốn cho kỳ được pháp thiền
định của mình đang tu đặng chứng lên các quả Thánh như ý của mình muốn.
2. Tinh tấn như ý túc: là tiến tới mãi một cách dũng mãnh để
đạt mục đích tu hành của mình như ý mình muốn.
3. Nhứt tâm như ý túc: là tâm chuyên nhứt vào định cảnh không
bao giờ tán loạn để được thành công như ý muốn của mình.
4. Quán như ý túc: nghĩa là quán xét sáng suốt để thông
đạt chơn lý như ý muốn của mình.
D. NGŨ CĂN
Ngũ căn là năm phần căn bổn, cội rễ để
phát sanh tất cả thiện pháp.
1. Tín căn: là lòng tin mạnh mẽ, sau khi quán sát
kỹ càng rồi. Đó là lòng tin Tam bảo, Tứ đế v.v…
2. Tấn căn: là lòng dũng mãnh, tinh tấn trên bước
đường tu tập không bao giờ thối lui.
3. Niệm căn: là ghi nhớ chánh pháp không quên như
niệm thí (bố thí), niệm giới (giữ giới luật).
4. Định căn: Định là thiền-na, Tàu dịch
là tịnh lự, nghĩa là lắng tâm yên lặng để quán xét các pháp.
5. Huệ căn: là trí huệ sáng suốt, thâu thập được
chơn tướng của muôn pháp tức là thấu rõ được chơn lý.
E. NGŨ LỰC
Ngũ lực là năm thần lực vĩ đại của ngũ
căn có công năng ngự trị thế lực của những sự chướng ngại, gồm có:
1. Tín lực: có sức phá tan những sự tà tín.
2. Tấn lực: có sức phá tan sự giãi đãi của thân tâm.
3. Niệm lực: có sức phá tan những tà niệm.
4. Định lực: có sức phá tan tâm loạn tưởng.
5. Huệ lực: có sức phá tan những lòng mê hoặc
trong Tam giới.
F. THẤT BỒ-ĐỀ PHẦN hay là THẤT GIÁC CHI
Là bảy pháp giúp ta thành tựu quả Bồ-đề,
gồm có:
1. Trạch pháp: là dùng trí huệ lựa chọn pháp lành để
tu, pháp dữ để đoạn. Nếu tu lầm, hành sái, chẳng tiến tới chỗ giác ngộ mà lại
nguy hại không ít.
2. Tinh tấn: hằng dũng mãnh, tinh tiến trên đường
tu tập không khiếp sợ.
3. Hỷ: Tâm hoan hỷ, phấn chí tu hành vì trừ được tất cả phiền não.
4. Khinh an: Nhờ sự tu tập càng tinh tấn nên thân
tâm được thanh tịnh. Do đó người tu hành cảm thấy nhẹ nhàng, khoan khoái tức là
khinh an.
5. Niệm: Lòng thường ghi nhớ chánh pháp để thực
hành vì nếu tâm niệm ta không thường nhớ chánh pháp, tất nhiên tạp niệm phát
sanh, phiền não tăng trưởng.
6. Định: là lắng tâm, yên lặng, chuyên chú vào
chánh pháp để tâm không bị tán loạn.
7. Xả: là xả bỏ, không đắm trước pháp mình đã tu chứng để tu tiến
thêm lên.
8. Bát chánh đạo: (xin xem bài Bát chánh đạo trong quyển
Giáo lý căn bản cấp I).
Ba mươi bảy phẩm trợ đạo giúp người tu
hành thành đạo quả. Các bực Hiền cùng hàng Thinh văn, Duyên giác đều có tu hành
37 phẩm trợ đạo này. Đó là chỗ tu chứng của Tam thừa.
I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
II. PHẦN VẤN ĐÁP
1) — 37 phẩm trợ đạo chia ra làm mấy loại?
— 37 phẩm trợ đạo chia ra làm 7 loại:
1. Tứ niệm xứ 2.
Tứ chánh cần
3. Tứ như ý túc 4.
Ngũ căn
5. Ngũ lực 6.
Thất Bồ-đề phần
7. Bát chánh đạo.
2) — Tứ
chánh cần nghĩa là gì?
— Tứ
chánh cần là 4 phép chánh đáng cần phải siêng năng thực hành là:
1. Các điều ác chưa
sanh phải ngăn ngừa đừng cho phát khởi.
2. Các điều ác đã
sanh phải dứt trừ cho tuyệt.
3. Các điều lành chưa
sanh phải phát khởi cho sanh.
4. Các điều lành đã
sanh phải phát triển cho thêm rộng lớn.
3) — Tứ
như ý túc nghĩa là gì?
— Là
bốn pháp làm nơi nương tựa cho các công đức thiền định và thần thông mau thành
tựu như ý muốn của mình, gồm có:
1. Dục như ý túc 2.
Tinh tấn như ý túc
3. Nhứt tâm như ý túc 4. Quán như ý
túc.
4) — Ngũ
căn, ngũ lực nghĩa là gì?
— Ngũ
căn là 5 phần cội rễ để phát sanh tất cả thiện pháp, gồm có:
1. Tín căn 2.
Tấn căn
3. Niệm căn 4.
Định căn
5. Huệ căn
Ngũ lực là 5 thần lực của 5 căn
có công năng ngự trị thế lực của những sự chướng ngại, gồm có:
1. Tín lực 2.
Tấn lực
3. Niệm lực 4.
Định lực
5. Huệ lực.
5) — Thất
Bồ-đề phần hay là thất giác chi nghĩa là gì?
— Là
7 pháp giúp cho người tu hành mau thành tựu quả Bồ-đề gồm có:
1. Trạch pháp 2.
Tinh tấn
3. Hỷ 4.
Khinh an
5. Niệm 6.
Định
7. Xả.
III. PHẦN TOÁT YẾU
37 phẩm trợ đạo chia
ra làm 7 loại: Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất
Bồ-đề phần và Bát chánh đạo.
Tứ niệm xứ là bốn chỗ thường
phải để tâm nhớ nghĩ gồm có: Quán thân bất tịnh, Quán thọ thị khổ, Quán tâm vô
thường, Quán pháp vô ngã.
Tứ chánh cần là bốn pháp chánh
đáng cần phải siêng năng tinh tấn thực hành: 1) Điều ác chưa sanh phải ngăn
ngừa đừng cho phát sanh, 2) Điều ác đã
sanh phải dứt trừ cho tuyệt. 3) Điều lành chưa sanh phải phát khởi cho sanh. 4)
Điều lành đã sanh phải phát triển cho thêm rộng lớn.
Tứ như ý túc là bốn pháp làm chỗ
nương tựa cho các công đức được mau thành tựu như ý muốn của mình, gồm có: Dục
như ý túc, Tinh tấn như ý túc, Nhứt tâm như ý túc và Quán như ý túc.
Ngũ căn, ngũ lực: ngũ căn là 5 phần
căn bản để phát sanh ra tất cả thiện pháp; và ngũ lực là 5 sức mạnh có công
năng chế ngự những sự chướng ngại gồm có: Tín căn, tín lực, tấn căn, tấn lực,
niệm căn, niệm lực, định căn, định lực, huệ căn và huệ lực.
Thất Bồ-đề phần hay
là thất giác chi là 7 pháp giúp người tu hành mau thành tựu quả Bồ-đề gồm có: 1.
Trạch pháp, 2. Tinh tấn, 3. Hỷ, 4. Khinh an,
5. Niệm, 6. Định, 7. Xả.
Sau rốt là phép Bát
chánh đạo (xin xem bài cấp I, tập 3).
Nam
Mô A Di Đà Phật.
Kính
Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.
————————————————
BÀI 8
LỤC CĂN
Chơn tâm cũng gọi là Tâm diệu giác viên
minh, vốn vô hình vô tướng, thường thanh thường tịnh, không có thân và căn chi
hết. Nhưng vì con người khi đi đầu thai, thụ tinh cha huyết mẹ nên mới có thân.
Trong thân ấy, bốn đại là Đất, Nước, Lửa, Gió hiệp lại, niêm(1)
cái thể thanh trạm, buộc mà chia cái thể viên minh, xé ra làm 6 căn: ở mắt làm
thấy, nơi tai làm nghe, nơi mũi, lưỡi, thân làm biết, nơi ý làm xét, làm cho
cái thể thanh trạm kia phải chịu đục dơ mờ tối.
I. NGUYÊN DO THÀNH CĂN (6 gút)
1. Nhãn căn: Nguyên lai bổn thể Chơn tâm gốc là
Diệu, Viên, Minh, không niêm dính vào đâu cả.
Nhơn vì hai tưởng tối và sáng
luôn luôn chọi lộn nơi Tâm Diệu viên, niêm cái tánh tranh trạm của Chơn tâm như
keo dính vật mà phát dẫn ra cái kiến tinh (tánh thấy). Rồi tánh thấy ấy
chói nơi sắc, kiết sắc lại làm cái căn thắng nghĩa.(2) Căn
ấy gốc thể thanh tịnh của tứ đại tạo ra, nó không có hình tướng, mắt phàm khó
trông thấy được. Nhơn vì có nó làm gốc nên mới kết thành ra căn phù-trần tức là
tướng con mắt. Căn đã kiết thì bốn phù-trần căn lưu dật mà chạy theo sắc luôn.
2. Nhĩ căn: Do hai tướng động tịnh luôn
luôn đánh đổ nơi Tâm Diệu viên, niêm cái tánh thanh trạm lại mà dẫn phát ra cái
Văn tinh (tánh nghe). Rồi tánh nghe chói nơi tiếng, cuốn tiếng lại làm
căn thắng nghĩa. Nhơn căn thắng nghĩa ấy kết lại làm căn phù trần tức là tướng
lỗ tai hình như mời cuốn. Căn đã kiết thì bốn phù-trần căn lưu dật mà chạy theo
tiếng luôn.
3. Tỷ căn: Do hai tướng thông nghẹt phát
khởi nơi Tâm Diệu viên, niêm tánh thanh trạm mà dẫn phát ra khứu tinh
(tánh ngửi). Rồi tánh ngửi chói nơi hương, nạp hương lại làm căn thắng nghĩa.
Nhơn gốc căn thắng nghĩa ấy kiết thành căn phù trần, tức là tướng lỗ mũi như 2
ống dẫn thòng xuống. Căn đã kiết thì bốn phù-trần căn lưu dật mà chạy theo
hương luôn.
4. Thiệt căn: Do hai tướng lại biến tạp hoà
nơi Tâm Diệu viên, niêm tánh thanh trạm(4) mà dẫn
phát ra tánh nếm, chói nơi vị, buộc lại làm căn thắng nghĩa. Rồi nhơn căn thắng
nghĩa mà kiết lại làm căn phù trần tức là tướng lưỡi. Căn đã kiết thì bốn
phù-trần căn lưu dật mà chạy theo vị luôn.
5. Thân căn: Do hai tướng hiệp ly giao thiệp
nơi Tâm Diệu viên, nên tánh thanh trạm dẫn phát ra giác tinh (tánh
biết). Tánh biết chói nơi xúc, kiết xúc lại thành căn thắng nghĩa, rồi do nơi
căn thắng nghĩa kiết thành ra căn phù trần, tức là tướng của thân. Căn đã kiết
thì bốn phù-trần căn lưu dật mà chạy theo xúc luôn.
6. Ý căn: Do hai tướng sanh diệt tiếp tục
nơi Tâm Diệu viên, niêm tánh thanh trạm, dẫn phát ra tri tinh (tánh phân
biệt). Tánh phân biệt chói nơi pháp, trụ pháp lại làm căn thắng nghĩa. Nhơn căn
thắng nghĩa mới kiết thành căn phù-trần. Căn đã lập thì bốn phù-trần căn lưu
dật mà chạy theo pháp luôn.
Như vậy 6 căn là gốc rễ của phiền não,
thì nó tức là cái nguồn vực sanh tử luân hồi, nên Đức Giáo-chủ Minh Trí mới dạy
“thuận theo nó thì sanh tử luôn luôn, còn nghịch với nó thì luân hồi phải hết.”
Vì thế trong quyển Lễ Bái Lục Phương, Ngài dạy tu pháp “Trừ Lục căn, diệt Lục
trần,” nghĩa là không cho 6 căn ô nhiễm 6 trần để cho Tâm được trong sạch mới
đặng giải thoát ra khỏi cõi hồng trần.
II. GIẢI GÚT
Còn Đức Phật thì dạy pháp mở gút (tức là trừ căn) mới đặng giải thoát.
Phật lấy cái khăn Diệp hoa của Trời
Kiếp-ba-la đã cúng dường cho Phật, cột một mối và hỏi ông A-nan cùng đại chúng
kêu là cái gì?
Ông A-nan cùng đại chúng bạch rằng: “Đó
là cái Gút.” Phật cột mối thứ nhì và cột thêm luôn bốn mối nữa, rồi Ngài cũng
hỏi kêu là cái gì?
Ông A-nan và đại chúng cũng bạch là cái Gút.
Cái khăn Diệp hoa hồi chưa thắt gút là
toàn một thể để dụ với Chơn tâm lúc chưa có thân căn. Còn khi đã thắt thành 6
gút rồi, cái thể của khăn liền mất, 6 gút ấy ví với 6 căn đã thành lập, cái
khăn không còn là một thể nữa.
Muốn mở gút, Đức Phật cầm cái khăn Diệp
hoa, xách méo bên tả và hỏi ông A-nan: “Như vậy mở được không?”
— Thưa không.
Phật lại xách méo bên hữu và hỏi: “Như
vậy mở được không?”
— Thưa không.
Phật nói: “Ta xách méo bên tả, bên hữu
mở cũng không đặng, vậy A-nan, ngươi biết cái phương tiện gì mà mở nó?” Ông
A-nan bạch rằng: “Muốn mở phải hạ thủ tại chính giữa cái lòng gút của nó thì nó
phải phân tán liền.” Phật bèn ấn hứa: “Phải rồi, phải rồi, muốn mở gút phải mở
tại trung tâm chỗ gút.”
Hai bên gút để dụ với hai đối pháp như
có đối với không, thường đối với đoạn v.v… Nếu muốn tu hành thành Thánh quả mà
còn chấp thường, chấp đoạn, lấy có bỏ không cũng đều chưa đặng giải thoát, cũng
như muốn mở gút mà xách méo cái khăn bên tả, bên hữu vậy. Mở gút phải hạ thủ
tại trung tâm gút là ý nói muốn trừ đôi biên kiến phải dùng pháp Trung đạo,
nghĩa là chẳng chấp có, chẳng chấp không, đồng thời không còn giữ cái chính
giữa nữa thì tâm thể hoàn về chỗ chơn không, cũng như cái gút đã sút ra rồi thì
khăn hoàn về một thể. Về phần thực hành thì Đức Phật dạy ở nơi cái thấy, cái
biết do căn đối với trần mà trụ chấp thì là gút, trái lại ở nơi cái thấy, cái
biết mà không trụ là mở vậy.
Thế mới biết cũng bởi do nơi sự mê chấp
12 tướng hữu vi: sáng tối, động tịnh, thông nghẹt, lại biến, hiệp ly, sanh
diệt, ngày ngày niêm án Chơn tâm nên mới vọng sanh ra 6 căn chạy mãi theo 6
trần, làm cho Tâm ta không còn thanh tịnh nên mới có sự sanh tử luân hồi là
vậy.
I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1) Niêm: là dán.
(2) Căn thắng nghĩa: căn vi diệu, thanh
tịnh, vi tế làm bằng tứ đại trong sạch, mắt không thể trông thấy được.
(3) Lưu dật: chảy, tràn.
(4) Thanh trạm: trong sạch, không
nhiễm ô.
II. PHẦN VẤN ĐÁP
1) — Do nới đâu mà có 6 căn?
— Do nơi 12 tướng hữu vi là sáng tối, động
tịnh, thông nghẹt, lại biến, hiệp ly, sanh diệt, luôn luôn đối chọi nơi Tâm
Diệu viên minh mới phát sanh ra 6 căn.
2) — Tại sao 6 căn là gốc rễ của sự sanh tử
luân hồi?
— Vì 6 căn là cội gốc sanh ra sự phiền não,
thì tức là nguồn vực của sự sanh tử luân hồi, nếu chúng ta thuận nghe theo nó.
3) — Muốn mở gút phải mở cách nào?
— Muốn mở gút phải mở tại trung tâm của gút.
4) — Muốn trừ Lục căn đặng thành Thánh quả
phải tu cách nào?
— Phải trừ 12 tướng hữu vi, nhưng 12 tướng hữu
đều thuộc về pháp tương đối như sáng đối với tối, động đối với tịnh v.v… Thế
thì ta phải phá 2 pháp tương đối y như phần giáo lý của Đức Phật dạy bực
Thượng: chẳng chấp có, chẳng chấp không v.v… Về phần thực hành tu pháp trừ Lục
căn hằng ngày thì ở nơi mắt thấy, tai nghe chẳng nên trụ chấp những điều thấy
nghe ấy tức là mở gút.
III. PHẦN TOÁT YẾU
Do 12 tướng hữu vi
luôn luôn chiếu dọi nơi Tâm Diệu giác nên mới vọng sanh ra 6 căn thắng nghĩa
trước, rồi do nơi căn thắng nghĩa mới phát hiện ra 6 căn phù-trần có hình tướng
rõ ràng.
Sáu căn là gốc rễ của
phiền não thì nó tức là nguồn vực của sự sanh tử luân hồi.
Muốn trừ 6 căn, 6
trần thì Đức Giáo-chủ Minh Trí dạy không cho 6 căn ô nhiễm 6 trần để cho tâm ta
được thanh tịnh mới đặng giải thoát. Còn muốn mở gút thì Đức Phật dạy phải hạ
thủ tại trung tâm của gút, tức là dùng pháp Trung đạo để phá đôi bên biên kiến
mới đặng giải thoát.
Nam
Mô A Di Đà Phật.
Kính
Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.
————————————————
BÀI 9
BỒ TÁT THỪA
(PHẦN GIÁO LÝ)
(Tiếp
theo bài ở cấp I)
CHƠN LÝ HUYỄN SẮC, HUYỄN KHÔNG
của BỰC SAI BIỆT TRÍ BỒ TÁT
và CHƠN LÝ VÔ TRỤ CỦA BỰC BỒ TÁT
A. Chơn lý Huyễn
sắc, huyễn không
Nhờ Đức Phật khai ngộ nên bực Sai
biệt trí Bồ-tát(1) nhận thấy phàm phu thì chấp có, còn
Nhị thừa lại chấp không. Thế thì sự hiểu biết như vậy chưa thiệt đúng, vì vạn
hữu trong vũ trụ không phải thiệt có, mà cũng không phải thiệt không.
Pháp lý của bực này dạy rằng: “Các pháp
không thiệt có sanh, không thiệt có diệt, nghĩa là các pháp vốn là huyễn(2)
sanh, huyễn diệt. Nếu các pháp thiệt có diệt thì làm sao mà tái sanh được? Làm
sao mà các pháp nối nhau tồn tại mãi mãi từ thế hệ này đến thế hệ khác. Nếu quả
thật các pháp thiệt có diệt thì thế gian này không còn có cái gì nữa mới phải
(trống không)?
Trái lại, nếu các pháp thiệt có sanh thì
ít nữa chúng nó được tồn tại vĩnh viễn, cớ sao nó vẫn tiếp tục tiêu trầm, tan
rã luôn? Tóm lại, nếu thiệt có thì không bao giờ tiêu tan, thiệt không thì
chẳng bao giờ sanh trở lại. Vì lẽ ấy nên mới gọi “sanh” là huyễn sanh, “diệt”
là huyễn diệt để phá chỗ chấp có của cõi nhơn thiên và chỗ chấp không của hàng Nhị
thừa.
B. Chơn lý Vô
trụ
Vô trụ là không chấp, không vướng vào
một sự nào, một lý nào cả, tâm tợ hư không tức là Như-Lai-tánh. Vô trụ là Kim
Cang tam muội của Phật để phá tất cả các sở trụ. Vô trụ tức là Thủ Lăng Nghiêm
tam muội, biết tất cả các pháp mà chẳng vướng vào đâu.
Bực Bồ-tát biết rõ sắc không (hai pháp
tương đối) như huyễn, như hoá, như chiêm bao, như bọt nước ngoài khơi, như
tiếng vang nên chẳng trụ các pháp, vì nếu trụ sắc thì phải kẹt trong sự sanh tử
Phần đoạn như hai cõi nhơn thiên, còn trụ không thì bị kẹt trong sự sanh tử
Biến dịch của hàng Nhị thừa. Bực Bồ-tát nhờ chẳng trụ có, không, nên mới được
hoàn toàn giải thoát, song le chưa đại ngộ được cái bản thể chơn không diệu hữu
tức là chỗ thường trụ (Thường trú Như Lai).
I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1) Sai biệt trí Bồ-tát: Bực Bồ-tát có trí
huệ rõ biết cái lý như huyễn của vạn pháp sai biệt (khác nhau).
(2) Huyễn: là không thật, có
rồi mất, không còn hoài, giả dối.
II. PHẦN VẤN ĐÁP
1) — Pháp lý của bực Sai biệt trí Bồ-tát như
thế nảo?
— Các pháp không thiệt có sanh, không thiệt có
diệt, nghĩa là các pháp vốn là huyễn sanh, huyễn diệt (các pháp là hư vọng, giả
dối, có rồi tiêu diệt chớ không còn hoài).
2) — Vô trụ nghĩa là gì?
— Vô trụ nghĩa là không còn nương vào một sự,
một lý nào cả.
3) — Đức Phật dạy bực Sai biệt trí Bồ-tát chơn
lý huyễn sanh, huyễn diệt và bực Bồ-tát chơn lý Vô trụ để làm gì?
— Đức Phật dạy bực Sai biệt trí Bồ-tát chơn lý
Huyễn sanh huyễn diệt, để phá cái chấp sắc của cõi nhơn thiên và cái chấp không
của hàng Nhị thừa, và dạy chơn lý Vô trụ cho bực Bồ-tát ra khỏi hai sự sanh tử
Phần đoạn và Biến dịch mới được hoàn toàn giải thoát.
III. PHẦN TOÁT YẾU
Đức Phật dạy bực Sai
biệt trí Bồ-tát chơn lý huyễn sắc huyễn không, để phá cái chấp có, chấp không
của Tiểu thừa vì các pháp không thiệt có sanh và không thiệt có diệt; nghĩa là
không phải thiệt có và không phải thiệt không; còn dạy bực Bồ-tát chơn lý Vô
trụ, nghĩa là không trụ có, cũng chẳng trụ không để ra khỏi hai sự sanh tử Phần
đoạn và Biến dịch mới được hoàn toàn giải thoát.
Nam
Mô A Di Đà Phật.
Kính
Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.
————————————————
BÀI 10
BỒ TÁT THỪA (BỰC THƯỢNG)
PHẦN GIÁO LÝ
(Tiếp
theo bài 9)
I. CHIA SẮC LÀM KHÔNG – HIỆP KHÔNG LÀM
SẮC
a) Chia Sắc làm Không
Người bình thường có thể hiểu biết chỗ
chia sắc làm không, hiệp không làm sắc. Như một hột bụi tí rất nhỏ (sắc) ví như
cái đầu lông thỏ kêu là Thỏ mao trần. Nếu Thỏ mao trần chia ra làm 7 phần,
thì mỗi một phần gọi là Thuỷ trần. Mỗi Thuỷ trần chia làm 7 phần, thì mỗi
một phần gọi là Kim trần. Mỗi Kim trần chia ra làm 7 phần thì
mỗi một phần gọi là Vi trần.(1) Mỗi Vi trần chia ra làm
7 phần thì mỗi phần gọi là Sắc tụ vi. Mỗi Sắc tụ vi chia ra làm 7 phần thì
mỗi phần gọi là Cực vi.(2) Mỗi Cực vi chia ra làm 7
phần thì mỗi một phần tựa như hư không, hoặc gọi là Lân hư, Lân tích, hoặc kêu là Biến tế sắc. Đó là chia sắc đến chỗ thiệt không.
b) Hiệp không làm sắc
Ngược lại, nếu chúng ta lấy 7 phần Biến
tế sắc hiệp lại thì thành ra một Cực vi. Lấy 7 phần Cực vi hiệp lại
thì thành ra một Sắc tụ vi. Lấy 7 phần Sắc tụ vi hiệp lại thì thành ra
một Vi trần. Lấy 7 phần Vi trần hiệp lại thì thành ra một Kim trần.
Lấy 7 phần Kim trần hiệp lại thì thành ra một Thuỷ trần. Lấy 7 phần Thuỷ
trần hiệp lại thì thành ra một Thỏ mao trần. Lấy 7 Thỏ mao trần hiệp lại
thì thành ra một hột bụi tí. Và nếu vô lượng hột bụi tí hiệp lại thì thành trái
đất này. Đó là hiệp không làm sắc nên trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật nói:
“A-nan! Như hột bụi tí gần như hư không, đã chia mà thành ra hư không, thì phải
biết hư không cũng sanh ra hột bụi gần như hư không mà thành lại sắc tướng.”
II. SẮC TỨC KHÔNG, KHÔNG TỨC SẮC,
SẮC BẤT DỊ KHÔNG, KHÔNG BẤT DỊ SẮC
Nói cái sắc tức cái không, cái không tức
cái sắc; cũng như nói Sóng tức là Nước, Nước tức là Sóng vậy.
Sóng ví như cái Sắc để dụ với hình tướng
của vạn hữu, Nước ví như cái Không để dụ với bản thể Chơn không của vũ trụ sanh
hoá ra vạn vật.
Nếu chẳng chấp tướng sai biệt, tức là
cái tướng của sóng thì Sóng tức là Nước, Nước tức là Sóng vì đồng nhau một bản
thể là Nước, có chi đâu sai khác. Cũng như thế, nếu không chấp tướng sai biệt
của vạn pháp thì Tướng tức là Tánh, Tánh tức là Tướng. Danh dị mà thể đồng,
Tánh tướng là hai tên khác nhau mà vốn đồng nhau một bản thể. Nên trong kinh
nói: “Tánh tức là Tướng, Tướng tức là Tánh” (Sóng tức là Nước,
Nước tức là Sóng), nên chi Phật dùng chữ “tức” để chỉ Nước với Sóng như nhau,
khi Nước động thì thành Sóng, lúc Sóng lặng thì thành Nước.
Còn nếu chấp tướng sai biệt là hình
tướng bề ngoài của vạn pháp thì chúng ta thấy Sóng hình tướng nó khác với Nước,
còn Nước thì hình tướng nó khác với Sóng.
III. ĐANG SẮC MÀ KHÔNG, ĐANG KHÔNG MÀ
SẮC,
CŨNG NHƯ NÓI ĐANG CÓ MÀ KHÔNG, ĐANG
KHÔNG MÀ CÓ
a) Đang Có mà không: nghĩa là vạn vật đang có đó, sờ sờ
trước mắt ta, nhưng lại nói là không, nghĩa là bản thể của nó là chơn không, mà
chơn không tức là sắc tướng, sắc tướng tức là chơn không đâu có sai khác; như
Sóng đang có đó, mà nó là Nước kia mà. Vậy nên người tỏ ngộ, biết đang có mà
không chớ chẳng phải như sự hiểu biết của Tiểu thừa, đợi tới chừng vạn vật hư
hoại rồi mới nói là không, vì cái không này là ngoan không đối
với cái có; còn cái không kia là chơn không diệu hữu, khác
với nhau nhiều.
b) Đang Không mà Có: nghĩa là cái bản thể chơn không diệu
hữu ấy tuy hiện là không, nhưng tánh của nó là chơn sắc, nghĩa là cái bản chất
của nó toàn là sắc tướng, chớ chẳng phải cái ngoan không tương đối, trống
không, không sanh được gì hết. Nên mới nói Không mà Sắc.
I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1) Vi trần: Hột bụi cực nhỏ.
(2) Cực vi: Hết sức nhỏ, nhỏ
hơn vi trần nữa, cùng cực nhỏ, không còn gì nhỏ hơn.
II. PHẦN VẤN ĐÁP
1) — Chia Sắc làm Không, hiệp Không làm Sắc
nghĩa là gì?
— Nghĩa là từ sắc chất phân tách, chia hoài cho
đến chỗ thiệt không, hết chia được nữa, rồi từ chỗ thiệt không hiệp lài thành
ra sắc tướng.
2) — Sắc tức Không, Không tức Sắc nghĩa là gì?
— Nghĩa là nói cái Sắc với cái Không (chơn
không) như nhau, không sai khác, không đối đãi nhau. Cái không sanh ra sắc
tướng, sắc tướng thể nó là chơn không; như Sóng là Nước, Nước là Sóng.
3) — Đang Sắc mà Không, đang Không mà Sắc
nghĩa là gì?
— Đang Sắc mà Không, nghĩa là vạn vật chưa hư
hoại, đang còn đó mà thể tánh nó là chơn không; còn đang Không mà Sắc nghĩa là
thể tánh chơn không hiện tuy là không (vô hình, vô tướng), nhưng bản chất nó
toàn là sắc tướng.
III. PHẦN TOÁT YẾU
Nếu chia sắc tướng
tới chỗ chia không đặng nữa thì sắc chất đó thành ra như hư không. Nếu hiệp vô
lượng hột bụi gần như hư không thì thành ra sắc tướng. Đây là chỗ hiểu biết của
người bình thường, còn chiếu theo lý viên dung bình đẳng của nhà Phật thì cái
Sắc tức là cái Không, cái Không tức là cái Sắc, không sai không khác nhau nên
trong khi kinh nói đang Sắc mà Không, đang Không mà Sắc. Cái Không đây là chơn
không diệu hữu, bản thể của vũ trụ vạn vật.
Nam
Mô A Di Đà Phật.
Kính
Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.
————————————————
BÀI 11
BỒ TÁT THỪA (Tiếp theo bài 10)
PHẦN PHÁP MÔN TU CHỨNG:
PHƯỚC HUỆ SONG TU
hay là LỤC ĐỘ BA-LA-MẬT
A. LUẬN VỀ MÔN TU PHƯỚC BA-LA-MẬT
CỦA ĐỨC GIÁO CHỦ MINH TRÍ ĐÃ CHỈ DẠY
hay là BỐ THÍ BA-LA-MẬT
Nói đến môn tu Phước, ai ai cũng nghĩ
hoặc đem tiền của, vật thực ra bố thí, hoặc đem thân thể, đem pháp ra bố thí,
hoặc vô uý thí, nhưng nếu bố thí như thế mà trong lòng còn mê muội, chẳng
ngộ được chỗ không tướng của chơn không thì sao gọi là ba-la-mật nghĩa là đến
bờ giác của Phật mà được hoàn toàn giải thoát?
1. Luận về chỗ mượn vật để tu (bố thí)
Trong kinh Kim Cang Chư Gia, phần Đệ
bát, “Nương pháp xuất sanh,” Phật hỏi ông Tu-bồ-đề: “Ý ngươi thế nào?
Bằng có người dùng bảy báu đầy cả Tam thiên thế giới đem ra mà bố thí, người ấy
có đặng phước đức nhiều chăng?” Tu-bồ-đề bạch Phật: “Bạch Đức Thế Tôn! Rất
nhiều. Bởi cớ sao? Bởi phước đức ấy chẳng phải phước đức tánh, cho nên
Như Lai nói phước đức nhiều.” Phật bèn nói: “Bằng có người thọ trì kinh này,
nhẫn đến Tứ cú kệ, lại vì người mà diễn thuyết thì phước này hơn phước kia.”
Đức Lục Tổ Huệ Năng giải: “Bố thí cúng dường là phước đức ở ngoài
thân, thọ trì kinh điển là phước đức ở trong thân. Thân phước là ăn mặc,
tánh phước là trí huệ. Tiền tài là báu của thể, Bát-nhã mới là
báu trong tâm. Dùng bảy báu đầy tam thiên thế giới mà bố thí, đặng phước tuy
nhiều, nhưng không chút chi ích lợi cho tánh cả. Nương theo Bát-nhã ba-la-mật
mà tu hành, khiến cho tự tánh chẳng đoạ vào quả báo, mới gọi là Phước-đức-tánh
(giải thoát).”
Chứa báu mà bố thí là mượn vật để tu,
vật có chừng thì phước đức có chừng, sánh với phước đức tánh(1)
không đặng. Phước đức hữu lậu hưởng hết rồi cũng phải đoạ lạc. Còn Phước đức
tánh (vô lậu), bởi trì kinh mà ngộ tánh, Tứ cú kệ liền hiện ra ở trước, đồng
như chốn thái hư, lịch kiếp cũng không hề hoại, thì phước đức hữu lậu kia làm
sao mà so kịp. Phước đức không tướng (phước vô lậu) sanh ra Ứng
thân Phật,(2) Trí huệ không tướng sanh ra chơn
thân Phật (Pháp thân Phật(3)).
2. Luận về chỗ mượn Thân để tu (bố thí)
Đức Phật nói: “Tu-bồ-đề này! Nếu có trai
lành, gái tín nào, buổi mai dùng thân mạng bằng số cát sông Hằng mà bố thí,
buổi chiều lại cũng dùng thân mạng bằng số cát sông Hằng mà bố thí; dùng thân
mạng mà bố thí vô lượng trăm ngàn muôn số kiếp như vậy. Bằng có người nghe kinh
điển này, lòng tin chẳng trái thì phước đức ấy hơn phước đức kia, huống
chi là biên tả, thọ trì, đọc tụng và vì người mà giải thuyết! Như Lai vì phát
khởi cho bực Đại thừa mà nói, vì phát khởi cho bực Tối thượng thừa mà nói.”
Ông Phó Đại Sĩ giải: “Đem cả thân mạng mà bố thí đặng
cầu Đạo Bồ-đề là còn trụ tướng bố thí. Nếu chẳng rõ đặng Phật tánh thì dù cho
đem cả thân mạng như số cát sông Hằng mà bố thí thì nào có ích chi. Thế thì đem
kinh pháp vô thượng bồ đề của Phật mà khai ngộ cho chúng sanh là những lời nói
suông ư? Những lời nói đầu môi, chót lưỡi ư? Không bằng tiền bạc cơm áo ư?”
3. Luận về mượn pháp để tu (bố thí)
Phần 28, Kim Cang. Đức Phật nói: “Tu-bồ-đề này! Nếu
Bồ-tát dùng bảy báu đầy cả hằng sa(4) số thế giới
đem ra bố thí, bằng lại có người biết cả thảy pháp vô ngã,(5)
đặng thành quả nhẫn (Phật), thì Bồ-tát này chỗ đặng công đức nhiều hơn Bồ-tát
kia.”
Đồng là bực Bồ-tát mà Bồ-tát này dùng
bảy báu đầy cả hằng sa thể giới đem ra bố thí, nhưng so với Bồ-tát chỉ biết cả
thảy pháp vô ngã, đặng thành tựu quả nhẫn thì Bồ-tát này chỗ đặng phước đức
hơn phước đức bảy báu kia.
Đức Lục Tổ giải: Thông đạt(6) cả thảy pháp, không lòng năng sở, ấy là nhẫn địa.(7)
Cái người ấy đặng phước đức hơn phước đức bảy báu kia.
Sao gọi là biết cả thảy pháp vô ngã? Ông Lý Văn Hội giải là chẳng sanh lòng chấp hai bên,
ấy gọi là “Vô sanh nhẫn” thì hơn Bồ-tát bố thí bảy báu trước kia. Ấy là Bồ-tát
tỏ ngộ chơn tánh, tự do hoạt động, lộng lộng như hư không, chẳng hề thêm,
chẳng hề bớt.
4. Luận về bố thí bảy báu nơi tâm (thất
tình)
Tu hạnh bố thí ngoài tức là dùng vật,
tài, thân để bố thí, đều là mượn vật để tu thì làm sao có được phước đức tánh,
làm sao mà ngộ tánh cho đặng? Nên Phật và Tổ dạy phải trì kinh Kim Cang mới ngộ
tánh thành Phật được, tức là biết chơn lý Pháp vô ngã mà thành tựu được
nhẫn địa. Nhưng đó là nói những bực Đại căn, Đại trí nghe được lời Kinh liền
được ngộ tánh, như Đức Lục Tổ Huệ Năng nghe câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”
liền đại ngộ. Thế thì đối với Tịnh Độ Cư Sĩ Phật Hội Việt Nam phải thực hành
Phước Huệ Song Tu, về môn tu Phước vô lậu phải tu như thế nào mới đặng mau ngộ
tánh?
— Đức Giáo-chủ Minh Trí dạy phải bố thí
trong, đừng bố thí ngoài.
Thế nào gọi là bố thí trong?
— Bố thí ngoài là làm việc bố thí mà còn
trụ tướng nên còn lạc trong 6 đường. Bố thí trong là bố thí bảy báu nơi tâm cho
thiệt sạch thì liền ngộ tánh, chừng ấy dù có làm việc bố thí ngoài cũng không
còn trụ tướng mới gọi là Đại thí. Thật là: “Đánh tan vọng niệm, bày chơn lý”
nghĩa là vọng hết thì chơn hiện, Tứ cú kệ liền hiện ra ở trước đồng như chốn
Thái hư, lịch kiếp cũng không hề hoại. Trì kinh ngộ tánh là việc khó, bố thí
bảy báu ở trong là dễ hành, cũng đồng đi đến chỗ kiến tánh vậy. Phật dạy các
hàng Bồ-tát tu pháp Lục độ ba-la-mật thì cũng để trừ lục tệ là: lòng tham lam,
lòng sái quấy, lòng sân hận, lòng giãi đãi, lòng tán loạn và lòng si mê, chớ
đâu có cái lẽ thông suốt 12 bộ kinh mà thất tình lục dục và lòng cống cao ngã
mạn còn đầy đủ mà đòi làm Phật cho được?
Vậy nên người Tịnh Độ Cư Sĩ chúng ta nên
tu pháp bố thí bảy báu trong là hơn hết, nghĩa là thực hành pháp bố thí ngoài,
nhưng trong phải lo trừ lục tệ.
Tóm lại, dù làm việc tài thí, thân thí,
pháp thí hay vô uý thí thì phải rõ chỗ chẳng chấp tướng, nghĩa là tỏ thấu đặng chỗ không tướng của chơn không thì mới gọi là Đệ nhứt ba-la-mật, thì
mới nói trong Phước có Huệ, trong Huệ có Phước, thì mới nói là tu một độ Bố thí
ba-la-mật mà gồm đủ năm độ kia, thì mới nói là bực tự tại giải thoát, chớ còn
làm việc bố thí, nhưng chưa ngộ được tự tánh, rồi tuyên bố là được giải thoát,
chắc không có cái lẽ ấy vậy.
B. LUẬN VỀ MÔN TU HUỆ BA-LA-MẬT
hay là TRÍ HUỆ BA-LA-MẬT
Huệ tức là Trí huệ, ba-la-mật là đáo bỉ
ngạn, nghĩa là đến bờ bên kia là bờ giác của Phật.
Trí huệ ba-la-mật là trí huệ hoàn toàn
sáng suốt của Phật đã tu chứng được, dùng để đoạn trừ tận gốc vô minh phiền
não, kiến tánh thành Phật được hoàn toàn giải thoát.
Trong kinh giải riêng biệt chữ Trí và Huệ như sau đây:
1. Đạt ư hữu vi chi sự tướng tức là Trí: nghĩa là đối với các pháp hữu vi thuộc
về sự tướng của muôn vật đều thấu suốt, không còn ngăn ngại lầm lạc, mê nhiễm nên gọi là Trí, tức là Tánh Chiếu thuộc về Đức giải
thoát.
2. Đạt ư vô vi chi lý không tức là Huệ: nghĩa là thấu suốt chỗ vô vi, tức là
chỗ không tướng của bổn tâm chơn không mới gọi là Huệ, thuộc về Đức Bát-nhã (Thể
Tịch).
Thế thì Trí Huệ là Tâm Tịch Chiếu của chư
Phật vì Tịch phải có Chiếu, Chiếu phải có Tịch, không thể tách riêng được, cũng
như nói có sáng là phải có lặng, có lặng mới có sáng. Tâm này các Tổ sư cũng
gọi là Tịch tịch mà Tinh tinh, Tinh tinh mà Tịch tịch (lặng lặng mà sáng sáng,
sáng sáng mà lặng lặng).
Muốn tu chứng đặng Trí huệ lớn này, Phật
dạy các hàng Bồ-tát tu pháp Lục độ ba-la-mật. Bồ-tát tu theo pháp này, khi chưa
được viên mãn thì chứng được Trí huệ quán chiếu. Đến lúc được tròn đủ chứng quả
thành Phật thì Trí huệ này gọi là Trí huệ Đại quang minh gồm đủ căn bản trí và
hậu đắc trí. Căn bản trí cũng gọi là Như lý trí, Vô phân biệt trí, Chánh trí.
Hậu đắc trí cũng gọi là Như lượng trí hay là Sai biệt trí, gồm có hai phần là Tự
trụ hậu đắc(8) và Thiệp tha hậu đắc.(9)
Làm sao tu chứng đặng Trí huệ lớn này?
Đức Phật dạy phải tu pháp Lục độ
ba-la-mật, Đức Giáo-chủ Minh Trí dạy phải tu pháp Phước Huệ Song Tu, cũng tức
là Lục độ ba-la-mật.
Trong Lục độ ba-la-mật, Phật dạy tu pháp
Bố thí ba-la-mật trước là để thúc liễm cái thân tứ đại của chúng ta vì đem thân
ra tu phước ba-la-mật (bất trụ tướng), để buộc thân ta lìa bỏ các việc làm ác
quấy, nhiễm mê tức là trở về cái dụng tướng Bồ-đề, rời bỏ cái dụng tướng mê lầm
của chúng sanh, cũng tức là chuyển 5 thức ngoài (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân)
làm Thành sở tác trí, đoạn trừ tuyệt lòng Tham.
Kế tiếp Phật dạy tu pháp Trì giới
ba-la-mật, Nhẫn nhục ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền định ba-la-mật để
thúc liễm cái Tâm tà vạy của ta bằng cách trừ tuyệt lòng sái quấy, sân hận,
giải đãi và tán loạn với mục đích chuyển ý thức và mạt-na thức thành Diệu quan
sát trí và Bình đẳng tánh trí. Lúc bấy giờ Tâm sân, si đều tiêu diệt, các chủng
tử hữu lậu bị tẩy sạch, ngã và pháp dứt trừ, A-lại-da thức được chuyển thành
Đại Viên cảnh trí, tròn sáng như trăng rằm trùm soi muôn vật, nhưng không dính
mắc vật nào, cổ kim thường tại một màu không không (chơn không vì có bố thí
ba-la-mật). Đó mới gọi là Trí huệ đến bờ bên kia.
I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1) Phước đức tánh: là tánh sáng suốt
tạo ra công đức vô lậu, vô lượng, vô biên cũng gọi là Trí huệ.
(2) Ứng thân Phật: là thân ứng hoá của
Phật độ chúng sanh trong Tam giới.
(3) Pháp thân Phật: là chơn thân của
Phật, chỉ Thể tánh như như bình đẳng của Tâm Phật.
(4) Hằng sa: Nói cho đủ là Hằng
hà sa số. Hằng là sông Hằng, sa là cát, nghĩa là cát sông Hằng rất nhiều, đếm
chẳng hết được; ý nói số nhiều không thể đếm được.
(5) Pháp vô ngã:
là các pháp không có cái Ta chơn thiệt (các pháp vốn là không).
(6) Thông đạt: là thông suốt, không
có chi ngăn ngại, đạt được chơn lý.
(7) Nhẫn địa: là địa vị nhẫn nhục
tới chỗ vô sanh pháp nhẫn, nghĩa là chứng ngộ hai lẽ không nhơn, không pháp.
(8) Tự trụ hậu đắc: Trí của bực Đại
Thánh duyên cảnh A-đà-na thức. Nhờ trí tự trụ này mới biết được thức A-đà-na.
Đến quả vị Phật về thân thọ dụng thì dùng tự trụ hậu đắc.
(9) Thiệp tha hậu đắc: Trí duyên cảnh, các
pháp nhiễm tịnh; song cũng tức khi đó rõ biết các pháp như huyễn, như hoá, duy
thức biến hiện. Đến quả vị Phật, về thân Tha thọ dụng thì dùng Trí Thiệp tha
hậu đắc.
II. PHẦN VẤN ĐÁP
1) — Thế nào là mượn vật để tu, và có được giải
thoát không?
— Mượn vật để tu là dùng vật dụng, dùng thân,
tiền của đem ra bố thí cầu phước nhưng thuộc về hữu lậu nên không thể nào giải
thoát được.
2) — Đem thân mạng nhiều như số cát sông Hằng
mà bố thí có đặng giải thoát không?
— Dù đem thân mạng nhiều như cát sông Hằng mà
bố thí cũng không giải thoát được, vì phước ấy còn trụ tướng, thuộc về hữu lậu
thiện, chớ chẳng ích lợi chi cho tánh hết (thân thí).
3) — Trì kinh ngộ tánh, dùng tánh ấy thuyết
pháp độ sanh thì phước đức ấy có nhiều không, và được giải thoát không?
— Trì kinh ngộ tánh tức là ngộ được Tứ cú kệ
và vì người mà thuyết giảng thì người được giải thoát, nên phước đức ấy rất
lớn, Phước đó là Phước-đức-tánh nên được giải thoát.
4) — Bố thí bảy báu nơi tâm có được giải thoát
không?
— Bố thí bảy báu nơi tâm thì tâm được trong
sạch vắng lặng, phiền não không còn, chơn tánh hiện ra sáng tỏ làu làu
thì được giải thoát. Nếu dùng tánh ấy vì người mà thuyết pháp thì phước đức
không thể so lường được. Phước đức ấy gọi là Phước đức tánh (Công đức tánh).
5) — Trí huệ ba-la-mật nghĩa là gì?
— Trí huệ ba-la-mật là Trí huệ hoàn toàn sáng
suốt của Phật, dùng để đoạn trừ vô minh, phiền não tận gốc, kiến tánh thành
Phật đặng hoàn toàn giải thoát.
6) — Muốn tu chứng đặng Trí huệ ba-la-mật thì
phải làm sao?
— Phải tu pháp Lục độ ba-la-mật. Trước hết
phải bố thí ba-la-mật đặng thúc liễm cái thân và trừ tuyệt lòng tham. Kế tiếp
tu pháp Trì giới ba-la-mật, Nhẫn nhục ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật và Thiền
định ba-la-mật, đặng thúc liễm cái Tâm, hầu trừ tuyệt lòng sái quấy, sân hận,
giải đãi, tán loạn thì Tâm mới được thường thanh, thường tịnh, Trí huệ quang
minh mới phát hiện ra được. Trí huệ ấy lặng và tròn sáng.
III. PHẦN TOÁT YẾU
A. LUẬN VỀ MÔN TU
PHƯỚC
1. Đem bảy báu chứa
đầy cả Tam thiên Đại thiên thế giới mà bố thí thì phước ấy là phước hữu lậu,
không thể giải thoát được.
2. Đem thân mạng
nhiều như số cát sông Hằng mà bố thí đặng cầu đạo Bồ-đề cũng không giải thoát
được, vì còn trụ tướng chớ không ngộ tánh.
3. Chỉ có trì kinh ngộ
tánh và vì người mà giảng giải cho người ngộ tánh như mình mới được hoàn toàn
giải thoát, vì phước đức ấy thuộc về phước đức tánh, rộng lớn không thể so
lường được.
4. Người tu hạnh bố
thí nên bố thí trong, là bố thí bảy tình cho tâm được trong sạch, phiền não trừ
tuyệt thì cũng được ngộ tánh và giải thoát hoàn toàn.
B. LUẬN VỀ MÔN TU HUỆ
BA-LA-MẬT
Tu Huệ ba-la-mật là
tu chứng được Trí huệ hoàn toàn sáng suốt của Phật dùng để đoạn trừ tận gốc vô
minh phiến não, kiến tánh thành Phật.
Muốn có Trí huệ ấy phải
thực hành pháp Lục độ ba-la-mật. Trước hết tu pháp Bố thí ba-la-mật để thúc
liễm cái thân và trừ tuyệt lòng tham. Kế tiếp tu 5 pháp ba-la-mật sau để thúc
liễm cái Tâm và trừ tuyệt lòng sân si. Tam độc (tham, sân, si) hết thì tâm được
thường thanh, thường tịnh, Trí huệ quang minh tròn sáng mới phát hiện ra được,
gọi là Trí huệ ba-la-mật.
Nam
Mô A Di Đà Phật.
Kính
Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.
————————————————
BÀI 12
PHÁP MÔN NIỆM PHẬT
A. LUẬN VỀ PHÁP MÔN NIỆM PHẬT
Trong đạo Phật, về Tông Tịnh Độ có 7 bộ
kinh lưu truyền từ xưa đến nay, nhưng được lưu hành và căn bản đặc điểm hơn chỉ
có ba bộ:
1. Kinh Vô Lượng Thọ
2. Kinh Quán Vô Lượng Thọ
3. Kinh A Di Đà.
Đã biết trong Tông Tịnh Độ có nhiều
phương pháp tu trì như: Xưng danh niệm Phật, Trì danh niệm Phật và Quán tưởng
niệm Phật, mà dễ nhứt không pháp môn nào hơn phép Trì danh niệm Phật, rất được phổ
thông,(1) chẳng luận là trình độ nào cũng đều có thể thực
hành được cả.
Pháp môn niệm Phật đây chính là pháp
phương tiện để thực hiện được Tự tánh Di Đà, Duy tâm Tịnh Độ, nếu chuyên niệm
được nhứt tâm bất loạn, Phật tánh được tỏ bày thì khác nào kẻ cọ tre đã nảy lửa.
Còn các pháp môn khác, hoặc có pháp quá
rộng khơi khó giữ gìn, hoặc quá sâu xa khó dò nổi. Nay chỉ dùng có mỗi một câu
niệm danh hiệu Phật A Di Đà, liền chứng nhập nhứt tâm và được vãng sanh, tiến
ngay đến chỗ thành Phật. Vì hễ Chánh niệm vừa khởi lên thì tạp tưởng tự nhiên
trừ hết, ví như Sư tử ra khỏi hang, trăm loài đều ẩn núp. Thế thì chính nơi
phương tiện mà thành pháp viên đốn vậy.
Môn niệm Phật không luận kẻ đại căn,
người tiểu cơ, hễ ai niệm Phật thì liền được vãng sanh. Cũng không đợi đến lúc
căn cơ thuần thục mới hội quyền về thật, miễn đặng vãng sanh liền đặng bực bất
thối. Cho nên pháp Trì danh niệm Phật là chỗ tu chứng rất yếu ước vậy, bởi do
chỉ niệm một chữ Phật là đủ. Phật tức là Nhứt tâm. Nay nghe tên Phật, nhứt tâm chấp
trì(2) thật ra rất dễ, không tốn công nhiều, vì muôn pháp
chỉ dạy nhứt tâm, hễ tâm đã thanh tịnh thì việc nào lại không xong, hễ móng
niệm(3) muốn vãng sanh, liền được sanh về nước kia. (Thế
thì pháp quán khó thành, ta chẳng tu tập mà thành).
Nói là niệm danh hiệu Phật có vô lượng
phước đức, nay chỉ niệm có bốn chữ A Di Đà Phật cũng đủ bao trùm hết cả, do vì
Đức Phật A Di Đà tức là toàn thể Nhứt Tâm, mà Tâm nó gồm cả Đức nào? — Thường,
Lạc, Ngã, Tịnh, Bổn giác, Thỉ giác, Chơn như, Phật tánh, Bồ-đề, Niết-bàn ...
cho đến trăm ngàn vạn tên, đều chỉ trong một tên Phật A Di Đà đây thâu gồm được
tất cả.
Tu pháp Trì danh, muôn niệm lự đều dứt,
xét tột là bởi nhờ Nhứt tâm bất loạn.
Số là có niệm, mà không
là chơn niệm; với việc “Sanh” mà hiểu vào “Vô sanh.” Bởi niệm danh hiệu Phật
tức là niệm Tâm ta, còn sanh nước kia, không lìa sanh cõi đây, vì rằng Tâm,
Phật và chúng sanh tuy ba mà vẫn đồng một thể.
Có câu “Sanh mà Vô sanh” vì rõ thể sanh
không có, thì “Sanh mà không sanh, không sanh mà sanh.” Thế gọi là dùng Tâm
niệm Phật chứng nhập bực “Vô sanh nhẫn.” Nên biết trọn ngày niệm Phật, chính là
trọn ngày niệm Tâm, rõ ràng vãng sanh, nhưng lặng trang không có gì là lai
vãng.
Cõi Ta bà dụ ở bên này, cõi Cực lạc dụ ở
bên kia, ban đầu nhàm khổ, ưa vui nên niệm Phật đặng cầu về Cực lạc. Đến khi
cái chấp phân biệt khổ vui đều mất, thì sau rốt không trụ nơi “Phi khổ, phi
vui,” thì Tự tánh sẵn có Đức Phật A Di Đà, Duy tâm sẵn có cõi Tịnh Độ. Thế thì
Pháp Thiền và Pháp Tịnh độ, cả hai tuy khác lối tu, nhưng đồng về một chỗ là Tánh(4) vì không lìa tự
tâm, mà Tâm tức là Phật, là Thiền.
Pháp Trì danh, dù cho kẻ ngu người trí
cũng đều niệm được. Pháp này ví như Trời khắp che, đất khắp chở, một bầu Đại
tạo (vũ trụ) không bỏ một vật nào. Tuy rằng độ sanh rộng lớn, thật ra không
ngoài một niệm của chúng sanh, đặng vào lý vô niệm. Đã nói Hữu niệm đặng
lý Vô niệm, thì cũng ngay nơi Vãng sanh đặng chứng quả Vô sanh.
Thế thì trì danh niệm Phật là đường tắt trong các đường tắt. Hễ nhứt tâm trì
danh hiệu của Đức Phật A Di Đà tức là được bực bất thối chuyển. Đây là chỉ ngay
tự tâm của phàm phu rốt ráo được thành quả Phật. Nếu tin chắc như thế cần gì
phải trải qua ba thừa để học, lâu xa nhiều kiếp để tu, mà chỉ không vượt ra
ngoài một niệm, mau chứng quả Bồ-đề, ấy không phải là đại sự hay sao?
Tu các môn khác gọi là dọc(5)
ra ba cõi, còn niệm Phật cầu vãng sanh kêu là ngang ra ba cõi. Dụ như con mọt ở
trong cây tre, nếu đục bề dọc thì phải qua từng mắc, từng lóng khó thông, đục
bề ngang thì một lỗ thấu phủng ra ngoài liền.
Nên biết:
— Vì lòng đại bi thương xót chúng sanh
nên Phật nói pháp môn này để làm cầu bến cho đời mạt pháp.(6)
— Vì trong vô lượng pháp môn, riêng pháp
môn này là một phương tiện tối thắng.
— Vì chê khổ, khen vui để cho phàm phu
trong đường sanh tử dấy lòng ưa cõi vui, nhàm cái khổ.
— Vì giáo hoá, dẫn dắt hàng Nhị thừa
chấp không, chẳng tu Tịnh độ.
— Vì khuyên các người mới phát tâm tu
hành Bồ-tát đạo, nên gắng tới niệm Phật để được gần gũi Như Lai.
— Vì thâu thập hết căn lợi, độn thảy đều
được độ thoát.
— Vì hộ trì người tu hành nhiều chướng
nạn để khỏi bị sa đoạ.
— Vì chính chỉ ngay nơi Tâm hữu niệm
đặng chứng lý vô niệm.
— Vì cách chỉ dạy rất khéo là nhơn cầu
vãng sanh mà thật ra là ngộ quả vô sanh.
— Vì chỉ rõ đường tắt tu hành, lại là
đường tắt trong đường tắt nữa.
Thuở Phật còn tại thế, vì lòng đại bi
thương xót chúng sanh trong số kiếp ngũ trược ác thế này, nên Ngài mới nói pháp
Trì danh niệm Phật, là pháp mà chúng sanh lấy làm khó tin.
Đến khi Phật diệt độ về sau, kẻ tu hành
phần đông là hạng Phước Huệ càng ngày càng kém, tội chướng mỗi ngày mỗi thêm
nhiều, làm gì mong được thấy Phật, nên Phật nói kinh này để lại cho chúng sanh
đời sau, tuy không được thấy Phật vì Phật đã diệt, nhưng pháp Trì danh niệm
Phật vẫn còn, hễ ai có lòng tin niệm thì tránh khỏi đường sanh tử, được vãng
sanh thấy Phật A Di Đà.
Như trong kinh Đại Bổn nói: Sau khi Phật
diệt độ, khoảng lâu xa đến cuối đời mạt pháp, các bổn kinh to dài dòng và đạo
pháp khó tu, đều lần hồi tiêu diệt hết, vì chúng sanh không đủ sức để tu học
kinh pháp ấy. Chỉ riêng còn một bổn Kinh này ở đời độ sanh đến rốt sau mới
diệt. Thế đủ biết: lúc nước ngập nhẫy Trời còn có thuyền từ cứu vớt; đêm khuya
tăm tối hãy còn đuốc huệ sáng soi. Thật ví như đấng cha lành lo nghĩ đến đàn
con dại, vì lòng thương con vô hạn, nên Phật phòng để pháp môn niệm Phật tế độ
chúng sanh trong lúc đời cùng thế tận.
Thật đáng kính thay! Đáng tôn thờ thay!
PHÁP MÔN TU CHỨNG
I. Công phu niệm Phật vãng sanh.
Tín – Hạnh – Nguyện
— Tín: là đức tin có lý và sự. Lý
là tự tin mình sẵn có tự tánh Di Đà, Duy tâm Tịnh độ. Sự là thật có Đức Phật A
Di Đà thành lập nước Cực lạc bằng 48 nguyên tắc đại nguyện để tiếp chúng sanh
niệm Phật được vãng sanh về cõi ấy.
— Hạnh: là thực hành chấp trì
danh hiệu của Phật để niệm cho đến nhứt tâm bất loạn.
— Nguyện: là nguyện đến khi lâm chung, tập trung tự lực và
thống nhứt tha lực, để được Hoá thân Phật đón tiếp về cõi Cực lạc.
Tóm lại, Tín, Hạnh, Nguyện là công
nghiệp để thành tựu về sự niệm Phật vãng sanh Tịnh độ, nên gọi là Tịnh
nghiệp.
Bí quyết niệm Phật để được vãng sanh là
chuyên niệm đến chỗ Nhứt tâm bất loạn dù chưa đoạn hết phiền não cũng
được vãng sanh, nhứt là đến lúc lâm chung, hễ tâm còn buồn, lo, sợ, thương,
ghét là tâm tán loạn, không thể vãng sanh được vì không nhứt tâm. Nhứt tâm niệm
Phật thì muôn lự đều hết. Trong Kinh nói: “Hễ trọn ngày niệm Phật là trọn ngày
niệm Tâm, dầu còn phiền não, rõ ràng vãng sanh.”
Hễ nhứt tâm trì danh hiệu của Phật A Di
Đà tức là được bực bất thối chuyển, vì nhứt tâm niệm Phật là dụng tướng Bồ-đề
của Tâm chơn như.
Nhưng làm sao được Nhứt tâm?
— Phải phát tâm Tín, Hạnh, Nguyện bất
loạn, nghĩa là tin chắc thực hành pháp niệm Phật, và nhứt tâm nguyện vãng sanh
về cõi Cực lạc. Niệm Phật mà không có Tín tâm và lòng cương quyết
nguyện sanh về cõi Cực lạc thì làm sao có kết quả. Một khi Tâm còn do dự,
dễ bị nội và ngoại ma khuấy rối, Tâm bị tán loạn phải bỏ cuộc nửa chừng. Thế là
hết một kiếp dở dang tu hành.
II. Công phu niệm Phật của người
TĐCSPHVN
Người TĐCSPHVN đang thực hành Phước Huệ
Song Tu tức là phát tâm Bồ-tát đạo, nên có cái công phu niệm Phật như thế này:
1. Nhứt tâm niệm Phật, dứt bỏ muôn việc
trần tức là Bố thí ba-la-mật hay tu Phước ba-la-mật.
2. Nhứt tâm niệm Phật, dứt bỏ các việc
ác tức là Trì giới ba-la-mật.
3. Nhứt tâm niệm Phật cho lòng được nhu
hoà mát dịu tức là Nhẫn nhục ba-la-mật.
4. Nhứt tâm niệm Phật, vĩnh viễn không
bị thối lui đoạ lạc (không bán đồ nhi phế) tức là Tinh tấn ba-la-mật.
5. Nhứt tâm niệm Phật, không còn sanh
các vọng tưởng tức là Thiền định ba-la-mật.
6. Nhứt tâm niệm
Phật, chánh niệm rõ ràng, tức là Bát-nhã ba-la-mật.
Niệm Phật không có Tín, Hạnh, Nguyện thì
làm sao vãng sanh cõi Cực lạc được, vì không có nhứt tâm.
Niệm Phật mà không trừ Lục tệ thì làm sao
thẳng đến bờ giác, chứng quả Vô sanh.
III. Thiền Tịnh công phu
DỤ: Nước dụ với Chơn tâm, Sóng dụ với
Vọng tâm.
Câu hỏi để làm ví dụ. Có câu đáp:
1. Khi sóng chưa nổi lên, thì toàn thể
là gì?
—
Là nước.
2. Khi sóng nổi, mặt nước còn được yên
tịnh không?
—
Không.
3. Khi sóng lặng, thì sóng hoàn về đâu?
—
Khi sóng lặng thì hoàn về nước.
4. Khi sóng nổi lên, trong sóng có gì?
—
Có nước.
5. Thế thì toàn sóng là gì?
—
Là nước.
6. Không có sóng, có nước không?
—
Không.
7. Muốn tìm nước, tìm ở đâu?
—
Ở nơi sóng.
8. Đang sóng có gì?
—
Có nước.
9. Đang nước có gì?
—
Có sóng.
Nương theo những câu hỏi và câu đáp
trên, tự tâm quán xét, đáp những câu hỏi dưới đây, để di đến chỗ ngộ tánh được,
nếu có thể.
1. Khi chưa khởi niệm Phật thì toàn thể
là gì? (nên nhớ không còn niệm chúng sanh).
2. Đến khi khởi niệm Phật thì còn yên
tịnh không?
3. Khi tiếng niệm Phật dứt, thì hoàn về
đâu?
4. Khi niệm Phật, trong niệm ấy có gì?
5. Thế thì toàn những tiếng niệm Phật là
gì?
6. Khi không niệm Phật thì có gì?
7. Ngoài tiếng niệm Phật có gì không?
8. Muốn tìm chơn tánh phải tìm nơi đâu?
9. Vô niệm nghĩa là gì?
10. Đang có niệm nghĩa là có gì?
11. Đang không niệm nghĩa là có gì?
12. Tại sao trong kinh nói: tu Tịnh mà
có Thiền thì ví như cọp mọc sừng?
13. Chơn tánh là gì? Nơi thân ta tánh
bất sanh, bất diệt quyền gởi tại đâu?
14. Tại sao người chỉ lo niệm Phật mà
gọi là người có trí huệ?
I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1) Phổ thông: là thông khắp cho
cả mọi người.
(2) Chấp trì: là nắm giữ, cầm giữ.
(3) Móng niệm: Khởi vọng niệm.
(4) Tánh: là thể tánh, chơn
tánh, Phật tánh.
(5) Dọc: bề dài.
(6) Mạt pháp: thời kỳ đạo pháp vào
lúc điêu tàn. Đạo pháp của Phật phân ra làm ba thời kỳ:
a. Chánh pháp:
người tu hành dễ đắc đạo.
b. Tượng pháp:
Người tu hành khó đắc đạo.
c. Mạt pháp:
thời kỳ đạo pháp điêu tàn, người ác trược thì nhiều, rất ít người tu hành đắc
đạo.
II. PHẦN VẤN ĐÁP
1) — Xin kể ba bộ kinh của Tông Tịnh Độ được
lưu hành và căn bản đặc điểm nhứt?
— Ba bộ kinh ấy là: Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh
Quán Vô Lượng Thọ và Kinh A Di Đà.
2) — Xin kể các phương pháp tu trì trong Tông
Tịnh Độ?
— Một là Xưng danh niệm Phật. Hai là
Trì danh niệm Phật. Ba là Quán tưởng niệm Phật.
3) — Trong các phương pháp tu trì này, pháp
nào dễ tu nhứt và được phổ thông nhứt?
— Pháp Trì danh là dễ tu nhứt và được phổ
thông nhứt, vì trình độ nào cũng có thể thực hành được cả.
4) — Tu pháp Trì danh niệm Phật kết quả ra
sao?
— Tu pháp Trì danh bực thấp thì được vãng sanh
về nước Cực lạc, không còn sanh lại trong Tam giới nữa, bực cao thì được chứng
quả Vô sanh.
5) — Muốn được vãng sanh phải niệm Phật cách
nào?
— Phải niệm Phật tới chỗ nhứt tâm bất loạn mới
đặng vãng sanh. Muốn được nhứt tâm bất loạn thì phải có Tín, Hạnh, Nguyện, vì
Tín, Hạnh, Nguyện là Tịnh nghiệp, tức là công nghiệp để thành tựu về sự niệm Phật
vãng sanh.
6) — Muốn được chứng quả Vô sanh phải niệm
Phật cách nào?
— Nhờ có niệm mà tỏ ngộ chỗ Vô niệm. Số là khi
niệm là có, khi không niệm là không, nghĩa là có niệm mà không chấp tức là chơn
niệm. Nhờ vãng sanh mà tỏ ngộ chỗ vô sanh. Có câu: sanh ma vô sanh vì rõ thể
sanh không có, thì sanh mà không sanh, không sanh mà sanh, thế gọi là dùng tâm
niệm Phật chứng nhập bực vô sanh nhẫn.
7) — Người TĐCSPHVN nên niệm cách nào?
— Người TĐCSPHVN đang thực hành Phước Huệ Song
Tu nên niệm Phật theo sáu phép ba-la-mật, nghĩa là:
nhứt tâm
niệm Phật để bố thí cho sạch lòng tham, ấy là bố thí ba-la-mật.
nhứt tâm
niệm Phật để dứt trừ lòng sái quấy, tức là trì giới ba-la-mật.
nhứt tâm
niệm Phật để dứt trừ lòng sân hận ấy là nhẫn nhục ba-la-mật.
nhứt tâm niệm
Phật để trừ lòng tán loạn nên gọi là thiền định ba-la-mật.
nhứt tâm
niệm Phật để trừ lòng si mê mới gọi là trí huệ ba-la-mật.
Niệm Phật mà
không trừ sáu cái tệ (lục tệ) thì không thể nào thẳng đến bờ giác, chứng bực Vô
sanh nhẫn được.
III. PHẦN TOÁT YẾU
Trong Đạo Phật về
Tông Tịnh Độ có ba quyển Kinh được lưu hành và đặc điểm căn bản nhứt là Kinh Vô
Lượng Thọ, Kinh Quán Vô Lượng Thọ và Kinh A Di Đà.
Trong các pháp tu trì
như Xưng danh niệm Phật, Trì danh niệm Phật và Quán tưởng niệm Phật thì pháp Trì
danh niệm Phật là dễ tu nhứt và được phổ thông nhứt, chẳng luận trình độ nào
cũng có thể thực hành được cả.
Muốn được vãng sanh
về cõi Cực lạc của Đức A di Đà thì phải trì niệm danh hiệu của Phật A Di Đà tới
chỗ nhứt tâm bất loạn và muốn được nhứt tâm bất loạn phải phát tâm có đủ Tín,
Hạnh, Nguyện.
Bực cao tu pháp niệm
Phật trì danh nhờ chỗ có niệm mà được ngộ vô niệm, nhờ tu pháp vãng sanh mà tỏ
ngộ chỗ vô sanh. Thế mới gọi là dùng tâm niệm Phật chứng nhập bực Vô sanh.
Người TĐCSPHVN đang
thực hành Phước Huệ Song Tu nên niệm Phật theo sáu pháp ba-la-mật. Phải nhứt
tâm niệm Phật để dứt trừ Lục tệ (tham lam, sái quấy, sân hận, giãi đãi, tán
loạn, si mê), mới có trí huệ ba-la-mật để đến bờ giác của Phật, chứng được bực
Vô sanh nhẫn.
Pháp niệm Phật là một
pháp môn tối thắng, gồm cả Tiểu thừa và Đại thừa, chỉ rõ con đường tắt tu hành,
lại là đường tắt trong đường tắt nữa, chẳng khác chi con mọt ở trong cây tre,
không đục bề dọc mà đục bề ngang, chỉ một lỗ thấu phủng ra ngoài liền.
Nam
Mô A Di Đà Phật.
Kính
Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.
(CÒN TIẾP - CẤP V
TRỌN BỘ)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét