TỊNH ĐỘ CƯ SĨ PHẬT HỘI VIỆT NAM
GIÁO
LÝ CĂN BẢN
CẤP
3
(TÀI
LIỆU DÙNG ĐỂ ĐÀO TẠO THUYẾT TRÌNH VIÊN)
Ban Soạn thảo:
pgs. Như Tâm –
pgs. Liễu Như
Lương Văn Lang –
Nguyễn Ngọc Thanh
Biên soạn chính: pgs. Liễu
Như
— 1970 —
————————————————
Thay lời tựa
Chúng tôi
nhận thấy rất kém tài, thiếu đức, nên chẳng dám tự phụ đem những điều hiểu biết
thiển cận của mình để hướng dẫn chư huynh đệ, tỷ muội trong Giáo hội trên đường
tu Huệ, học hỏi về Giáo lý Phật đà, sợ e lỗi với Đức Phật và Đức Giáo-chủ Minh
Trí trong khi còn nương tựa nơi cõi Ta bà này và dưới mái chùa Tịnh Độ của Đức
Giáo-chủ Minh Trí đã dày công sáng lập. Chúng tôi luôn luôn nhớ ơn Phật và Thầy
Tổ, nên nguyện chẳng dám bỏ Nội qui Ban Đạo Đức của Đức Giáo-chủ, nguyện y theo
những lời vàng ngọc đã dạy bảo của Đức Giáo-chủ trong Nội Qui ấy mà thực hành
mới gọi là phụng mạng và trung thành với Đức Ngài.
Vì những lý
do trên đây, nên chúng tôi phải dùng đường lối dạy Đạo của Đức Phật và Đức
Giáo-chủ Minh Trí để giúp đỡ phần nào cho quí Ông, quí Bà cùng Anh, Chị, Em
trong Giáo hội học tập Đạo Đức như Thánh ý của Đức Giáo-chủ Minh Trí đã dạy
bảo. Toàn thể Giáo hội, anh chị em chúng ta nhớ ơn Chư Phật và Thầy Tổ không
thể thờ ơ với vấn đề tu Huệ được. Quên lời dạy này là quên ơn Phật và Thầy Tổ.
Thầm nghĩ,
học Phật mà không học theo đường lối, cách thức của Phật và Đức Giáo-chủ Minh
Trí đã chỉ dạy thì làm sao thấu triệt nhanh chóng được cái chánh pháp vi diệu,
thậm thâm của Đức Như Lai và Đức Minh Trí Giáo-chủ.
Hai đường
lối này đồng như một mà quí vị đã thấy rõ trong lúc học Khoá huấn luyện Đạo
Đức.
Trong Kinh
Kim Cang, Chư Tổ giải chữ Kinh là con đường tắt của Phật chỉ thẳng vào Tâm
người đặng minh tâm kiến tánh thành Phật.
Thế mà bỏ
con đường tắt này để theo nẻo quanh co của bậc phàm phu, biết đời nào tu học
đến nơi, đến chốn mà được tự tại giải thoát.
Chúng tôi
chẳng bao giờ dám có ý nghĩ soạn thảo bài vở Đạo Đức với tài hèn đức bạc của
mình, vì đây là một ngành chuyên môn mà chúng tôi lại thiếu khả năng phương
tiện. Vả lại, chúng tôi chẳng có trách nhiệm trong Ban Soạn thảo của Trung
Ương. Song vì hoàn cảnh hiện tại của Giáo hội và nhiệm vụ Giảng huấn, Hoằng
pháp của Trung Ương giao phó trong niên khoá 1969-1970, không có tài liệu giảng
huấn nên đành phải bạo dạn đem cái đường lối dạy Đạo của Đức Phật và Đức
Giáo-chủ Minh Trí ra để làm phương tiện nhứt thời.
Áp dụng
đường lối dạy Đạo này, chúng tôi phân ra làm ba cấp (I, II, III) để giảng huấn.
Trong cấp I chúng tôi giảng tổng lược giáo pháp của ba cấp ấy để
Thuyết-trình-viên hiểu biết được phần nào về Phật pháp, vừa đủ làm nhiệm vụ của
mình cho tròn đối với Thầy Tổ và Giáo hội.
Viết bài
cho Thuyết-trình-viên học mau tỏ thông Phật pháp và có kết quả trong khoá học
chỉ có hơn mười ngày là một việc rất khó; còn huấn luyện học viên trở thành một
Thuyết-trình-viên Đạo Đức chuyên môn cũng với thời gian ấy lại càng khó hơn
nữa.
Trong giai
đoạn mà trình độ người học Phật của phần đông tín đồ còn quá thấp kém, không
thể tự mình cầm một quyển Phật-học đọc hiểu được, và đủ sức giảng giải lại cho
người khác nghe, thì Ban Giảng huấn và Ban Hoằng pháp phải đóng một vai tuồng
hết sức quan trọng vì bài soạn thảo dù đặc tài đến đâu mà học viên còn quá kém
cũng đành phải xếp cất trong tủ kinh, nếu thiếu Ban Giảng huấn và Ban Hoằng
pháp.
Công việc
của Ban Giảng huấn và Hoằng pháp mới khởi làm, còn nhiều chỗ khuyết điểm, mong
nhờ quí vị học thức cao xa, hoan hỷ chỉ bảo cho những chỗ sai lầm và giúp thêm
sáng kiến cho toàn thể Ban Đạo Đức của Giáo hội ra khỏi chỗ bế tắc trong bấy
lâu nay. Đó cũng là nhiệm vụ thiêng liêng của Chư quí vị đối với Chư Phật và
Thầy Tổ vậy.
Rất mong
thay!
Chúng tôi
đồng thành tâm kính bái.
Nam Mô A Di
Đà Phật.
Kính Đức
Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.
BAN
GIẢNG HUẤN
và
HOẰNG PHÁP TRUNG ƯƠNG
————————————————
MỤC LỤC
Bài 1 Bản đồ Tứ Thánh Lục
Phàm
Bài 2 Luật thăng trầm
Bài 3 Các thừa của Đạo Phật
và Đường lối dạy Đạo của Đức Thế Tôn
Bài 4 Ý nghĩa và cách thức
dạy Đạo của Đức Phật
Bài 5 Nhơn–Thiên thừa bực
Hạ
Bài 6 Đường lối dạy Đạo bực
Hạ của Đức Giáo-chủ Minh Trí
Bài 7 Pháp môn tu chứng của
cõi Người phần Phật đạo
Bài 8 Pháp môn tu chứng của
cõi Trời
— Phần
nghe kinh bực Hạ: “Luận về phước báo và tội báo”
— Phần ôn
bài bực Hạ
Bài 9 Thinh văn, Duyên giác
thừa bực Trung
Bài 10 Pháp môn tu chứng của
bực Trung (Thinh văn thừa)
Bài 11 Pháp môn tu chứng của
bực Trung (Duyên giác thừa)
Bài 12 Đường lối dạy Đạo bực Trung của Đức Giáo-chủ
Minh Trí: Trừ Lục căn, diệt Lục trần
— Phần nghe kinh bực Trung
— Phần ôn bài bực Trung
Bài 13 Bồ-tát thừa bực Thượng
Bài 14 Pháp môn tu chứng của
bực Thượng
Bài 15 Đường lối dạy Đạo bực
Thượng của Đức Giáo-chủ Minh Trí: Phước Huệ Song Tu
— Phần ôn
bài bực Thượng
————————————————
BÀI 1
BẢN ĐỒ TỨ THÁNH LỤC PHÀM
(THẬP GIỚI ĐỒ)
TỨ THÁNH: (giải
thoát)
PHẬT
BỒ
TÁT
DUYÊN
GIÁC
THINH
VĂN
LỤC PHÀM: (sanh tử
luân hồi)
THIÊN
NHƠN
A-TU-LA
NGẠ
QUỈ
SÚC
SANH
ĐỊA
NGỤC
Lời giải: Tứ Thánh là bốn bực Thánh. Bốn bực này
gồm có:
1. Bực Phật, 2. Bực Bồ-tát, 3. Bực Duyên
giác, 4. Bực Thinh văn.
Bốn bực này tu hành đặng giải thoát tuy
có chênh lệch cao thấp khác nhau, nhưng đều ở trong cảnh giới (1)
giác
ngộ (2) nên gọi là Tứ Thánh.
Lục Phàm là sáu cõi Phàm; sáu cõi này
gồm có:
1. Thiên, 2. Nhơn, 3. A-tu-la, 4. Ngạ
quỉ, 5. Súc sanh, 6. Địa ngục.
Sáu cõi này còn kẹt trong vòng sanh tử
luân hồi thọ quả báo khổ vui bất đồng, nhưng đều là ở trong cảnh giới mê
vọng (3) nên gọi là Lục Phàm.
Thập Giới là danh từ gọi tắt của Thập
Pháp Giới, tức là mười cảnh giới (cõi) trong đó chia ra có bốn cõi Thánh và sáu
cõi Phàm.
Danh từ Thập Giới xuất xứ từ Kinh Hoa Nghiêm.
I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1) Cảnh giới: là cõi.
(2) Giác ngộ: là hiểu biết thông
suốt, hội được chơn lý, mở mang chơn trí.
— Như phàm phu tỉnh
ra nhận được thân nầy là cội khổ, bèn tinh tấn tu hành là Tiểu Giác ngộ.
— Như Phật thành
Đạo nơi cội Bồ đề lên bực chánh đẳng, chánh giác, là Đại Giác ngộ.
(3) Mê vọng: là không tỉnh; tối
tăm đối với sự và lý là mê, hư dối, sái quấy chẳng thật là vọng.
II. PHẦN VẤN ĐÁP
1) — Tứ Thánh nghĩa là gì? Tại sao gọi là Tứ
Thánh?
— Tứ Thánh là bốn bực Thánh: Phật, Bồ-tát, Duyên
giác và Thinh văn. Bốn bực này tu hành đặng giải thoát, nên gọi là Tứ Thánh.
2) — Lục Phàm nghĩa là gì? Tại sao gọi là Lục
Phàm?
— Lục Phàm là sáu cõi Phàm: Thiên, Nhơn,
A-tu-la, Ngạ quỉ, Súc sanh và Địa ngục. Sáu cõi này còn kẹt trong vòng sanh tử
luân hồi, nên gọi là Lục Phàm.
3) — Thập giới nghĩa là gì?
— Thập giới là mười cõi, có bốn cõi Thánh và sáu
cõi Phàm.
III. PHẦN TOÁT YẾU
Tứ Thánh là bốn bực
Thánh tu hành đã được giải thoát, như bực Phật, Bồ-tát, Duyên giác và Thinh
văn.
Lục Phàm là sáu cõi
Phàm còn trong vòng sanh tử luân hồi như cõi Địa ngục, Súc sanh, Ngạ quỉ,
A-tu-la, Nhơn và Thiên.
Tứ Thánh, Lục Phàm
tức là Thập Giới hay là Thập Pháp Giới.
BÀI TẬP
Lựa những chữ sau đây
điền vào chỗ trống trong bài cho đúng nghĩa của mỗi câu: Tứ Thánh, Thập
Giới, Lục Phàm.
. . . . . . . . . . .
. . . là mười cõi, có bốn cõi Thánh và sáu cõi Phàm. Bốn cõi được giải thoát
gọi là . . . . . . . . . . . . . . . . . Còn bị kẹt trong vòng sanh tử luân hồi
chịu quả báo vui khổ bất đồng, nên gọi là . . . . . . . . . . . . . . . .
BÀI LÀM (MẪU)
Thập Giới là mười cõi, có
bốn cõi Thánh và sáu cõi Phàm. Bốn cõi này được giải thoát gọi là Tứ Thánh.
Còn bị kẹt trong vòng sanh tử luân hồi thọ quả báo vui khổ bất đồng, nên gọi là
Lục Phàm.
Nam
Mô A Di Đà Phật
Kính
Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.
————————————————
BÀI 2
LUẬT THĂNG TRẦM
Bản đồ Tứ Thánh
Lục Phàm
chỉ chỗ Siêu và
Đoạ của cõi Người
LUẬT THĂNG TRẦM
Thăng là bay lên: Một cái bong bóng được bơm vào một chất
hơi nhẹ hơn không khí, bay bổng lên trời nếu ta buông thả nó ra. Ấy gọi là
Thăng.
Trầm thì chìm xuống: Một cục đất cầm nơi tay, nếu ta buông
nó ra thì nó rớt xuống. Nếu ta ném nó xuống nước thì nó chìm xuống đáy, vì sức
nặng của nó, nên gọi là Trầm.
Cũng như thế, nếu con người không biết tu
hành, chỉ lo tạo những tội nghiệp thì đến lúc chết, Thần thức nặng nề khi xuất
ra khỏi thân thì phải chìm xuống (đọa).(1)
Trái lại, nếu biết Đạo Đức tu hành, lo
làm các điều lành thì Thần thức được nhẹ nhàng, nên khi ra khỏi xác thân thì
được Siêu(2) thăng.
Bản đồ Tứ Thánh
Lục Phàm chỉ chỗ Siêu và Đoạ của cõi Người
SIÊU
|
Phật
|
→
|
Tu pháp Lục Độ Ba-la-mật hay là Phước
Huệ Song Tu viên mãn
|
Bồ tát
|
→
|
Tu pháp Lục Độ Ba-la-mật hay là Phước
Huệ Song Tu
|
|
Duyên giác
|
→
|
Tu pháp Thập Nhị Nhơn Duyên
|
|
Thinh văn
|
→
|
Tu pháp Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo
|
|
Thiên
|
→
|
Tu pháp Trừ Thập Ác, Hành Thập Thiện
|
|
Nhơn
|
→
|
Tu pháp Trì Ngũ Giới
|
|
ĐỌA
|
A-tu-la
|
→
|
Tâm
tánh nóng nảy, hung dữ, giết hại
|
Ngạ quỉ
|
→
|
Tâm
tham lam, bỏn xẻn, không bố thí
|
|
Súc sanh
|
→
|
Tâm
hay làm việc sát sanh hại mạng
|
|
Địa ngục
|
→
|
Tâm
phạm bốn trọng tội: 1. Bất hiếu, 2. Huỷ báng kinh sách của Thánh Hiền, 3.
Giết hại người tu hành vô cớ, 4. Làm cho thân Phật chảy máu.
|
SIÊU và ĐOẠ:
* Nếu con người biết tu hành, giữ Ngũ
Giới Cấm thì được bình, không bay lên cao cũng không sa xuống thấp, tái sanh
lại cõi Người.
* Nếu tu theo pháp Thập Thiện thì được
sanh lên Cõi Trời.
* Nếu tu theo pháp Tứ Diệu Đế, Bát Chánh
Đạo thì sẽ được chứng quả cõi Thinh văn.
* Nếu tu theo pháp Thập Nhị Nhơn Duyên
thì sẽ chứng được quả vị bực Duyên giác.
* Nếu tu theo pháp Lục Độ Ba-la-mật hay
Phước Huệ Song Tu thì sẽ chứng được quả vị bực Bồ-tát và Phật.
* Trái lại, nếu con người tâm tánh còn
hung dữ, nóng nảy và hay giết hại thì phải bị đoạ xuống cõi A-tu-la (cõi Quỉ
thần).
* Nếu tâm tánh còn tham lam, bỏn xẻn,
không chịu bố thí thì sẽ bị đoạ vào chỗ Ngạ quỉ (cõi Quỉ đói).
* Nếu hay sát sanh hại mạng thì sẽ bị
đoạ vào cõi Súc sanh (cầm thú).
* Nếu phạm nhằm bốn trọng tội: 1. Bất
hiếu, 2. Huỷ báng kinh sách của Thánh hiền, 3. Giết hại người tu hành vô cớ, 4.
Làm cho thân Phật chảy máu; thì sẽ bị đoạ vào cõi Địa ngục.
I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1) Đoạ: là rơi, sa xuống.
(2) Siêu: là vượt khỏi, vượt
quá. Như siêu thăng là vượt khỏi cõi Phàm lên được cõi Thánh.
II. PHẦN VẤN ĐÁP
1) — Luật Thăng Trầm nghĩa là gì?
— Luật Thăng Trầm là nhẹ thì bay lên (siêu),
còn nặng thì chìm xuống (đoạ).
2) — Làm những điều gì mà con người được siêu?
— Làm phước lành thì được siêu lên.
3) — Làm những điều gì mà phải bị đoạ?
— Làm điều ác thì phải bị đoạ.
III. PHẦN TOÁT YẾU
Hễ nhẹ nhàng thì bay
lên (siêu), còn nặng nề thì chìm xuống (đoạ).
Bản đồ Tứ Thánh Lục
Phàm chỉ chỗ Siêu và Đoạ của cõi Người.
Con người làm lành
Tâm thức được nhẹ nhàng nên được siêu thoát khi lìa bỏ xác thân, hoặc được sanh
lên cõi Trời hay sẽ được về các cõi Phật.
Trái lại, nếu tạo ác
nghiệp nặng nề thì tránh sao cho khỏi đoạ lạc.
BÀI TẬP
Với những chữ sau
đây, tập làm thành một câu đủ ý nghĩa và gọn gàng: Siêu, Đoạ, Tội, Phước.
BÀI MẪU
SIÊU: Người
ngộ lo tầm đường siêu thoát trong sự tu hành.
ĐỌA: Kẻ
mê mãi lo tạo ác, tránh sao cho khỏi chỗ đọa lạc.
TỘI: Chiến
tranh gây nhiều tội ác.
PHƯỚC: Tu
là cội phước, tình là giây oan.
Tịnh Độ Cư Sĩ Phật Hội VN lấy
môn tu Phước để cứu độ bịnh nhân.
Nam
Mô A Di Đà Phật.
Kính
Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.
————————————————
BÀI 3
CÁC THỪA CỦA ĐẠO PHẬT
và ĐƯỜNG LỐI DẠY ĐẠO
của ĐỨC THẾ TÔN
I. BẢN ĐỒ CÁC THỪA
CỦA ĐẠO PHẬT
PHẬT
|
←
|
NHỨT THỪA
(PHẬT
THỪA)
|
||||
NGŨ
THỪA
PHẬT
GIÁO
|
→
|
TAM THỪA THÁNH GIÁO
|
→
|
BỒ TÁT
|
||
→
|
→
|
DUYÊN GIÁC
|
←
|
NHỊ THỪA
|
||
→
|
→
|
THINH VĂN
|
←
|
|||
→
|
THIÊN
|
|||||
→
|
NHƠN
|
LỜI GIẢI:
Nhứt thừa: là Phật thừa.
Nhị thừa: là chỉ Thinh văn thừa và Duyên giác
thừa.
Tam thừa Thánh giáo(1): là chỉ Thinh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ-tát thừa.
Ngũ thừa Phật giáo: là chỉ Nhơn thừa, Thiên thừa, Thinh văn
thừa, Duyên giác thừa và Bồ-tát thừa.
Đạo Phật chỉ có Nhứt thừa là Phật thừa.
Nhị thừa hay Tam thừa và Ngũ thừa chỉ là Quyền thừa.(2)
II. ĐƯỜNG LỐI DẠY ĐẠO
CỦA ĐỨC THẾ TÔN
Đại thừa(3)
(9 năm)
|
PHẬT
|
→
|
Bực Thượng
(Giải thoát tuyệt đối)
|
BỒ TÁT
|
→
|
||
Tiểu thừa(4)
(40 năm)
|
DUYÊN GIÁC
|
→
|
Bực Trung
(Giải thoát tương đối)
|
THINH VĂN
|
→
|
||
THIÊN
|
→
|
Bực Hạ
(Còn sanh tử luân hồi)
|
|
NHƠN
|
→
|
LỜI GIẢI:
Đức Phật ra đời dạy Tiểu thừa trước
trong 40 năm, rồi sau mới dạy Đại thừa trong 9 năm.
Tiểu thừa có bốn cõi: Nhơn, Thiên, Thinh văn và
Duyên giác.
Đại thừa có hai cõi: Bồ-tát và Phật.
Chúng ta có thể phân bốn cõi của Tiểu
thừa và hai cõi của Đại thừa ra làm ba bực: Hạ, Trung và Thượng.
* Bực Hạ: chỉ cõi Nhơn và
Thiên còn trong vòng sanh tử luân hồi.
* Bực Trung: chỉ cõi Thinh
văn và Duyên giác được giải thoát trong vòng tương đối.
* Bực Thượng: chỉ hai cõi
Bồ-tát và Phật, được giải thoát tuyệt đối (hoàn toàn giải thoát).
I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1) Tam thừa Thánh giáo: là ba Quyền thừa
đều được giải thoát hết, nên gọi là Thánh giáo; có Thinh văn bực Hạ, Duyên giác
bực Trung và Bồ-tát bực Thượng.
(2) Quyền thừa: Quyền đối với Phật
có nghĩa là tạm, cũng có nghĩa là phương tiện hay phương pháp dùng tạm để đạt
đến chỗ chơn thật mà chẳng trái với lý Đạo. Đức Phật dùng pháp môn phương tiện
dạy Đạo dẫn dắt lần lần từ thấp lên cao để rồi đi đến chỗ chơn thiệt là Phật
thừa.
(3) Đại thừa: chỉ cõi Bồ-tát thừa
và Phật thừa, có nghĩa là cỗ xe lớn tự chở mình và nhiều người khác đi đến nơi,
đến chốn, tức là bực Tự giác, Giác tha đi đến chỗ Viên mãn.
(4) Tiểu thừa: chỉ chung bốn cõi
Nhơn, Thiên, Thinh văn và Duyên giác. Riêng bực Thinh văn và Duyên giác thì gọi
là Nhị thừa.
Tiểu thừa là cỗ xe
nhỏ, tượng trưng cho giáo lý nhỏ hẹp, chỉ có phần tự giác, tự độ chứ thiếu phần
giác tha, độ tha.
II. PHẦN VẤN ĐÁP
1) — Trong các Thừa của đạo Phật, Thừa nào là
chơn thiệt, Thừa nào là Quyền?
— Trong các thừa của Đạo Phật, chỉ có Phật thừa
là chơn thiệt, còn mấy thừa kia thuộc về Quyền thừa.
2) — Đức Phật dạy Tiểu thừa bao nhiêu năm? Và
dạy Đại thừa bao nhiêu năm?
— Đức Phật dạy Tiểu thừa trong 40 năm và dạy
Đại thừa trong 9 năm.
3) — Tiểu thừa có mấy cõi? Và Đại thừa có mấy
cõi?
— Tiểu thừa có bốn cõi: Nhơn, Thiên, Thinh văn
và Duyên giác. Đại thừa có hai cõi là Bồ-tát và Phật.
4) — Tại sao chúng ta có thể phân Tiểu thừa và
Đại thừa ra làm ba bực?
— Chúng ta có thể phân Tiểu thừa và Đại thừa
ra làm ba bực, vì chỗ tu chứng của ba bực này không đồng với nhau, như hai cõi
Nhơn và Thiên (bực Hạ) thì còn kẹt trong vòng sanh tử, còn hai cõi Thinh văn và
Duyên giác thì mới giải thoát trong vòng tương đối mà thôi. Chỉ có cõi Bồ-tát
và Phật mới được hoàn toàn giải thoát.
III. PHẦN TOÁT YẾU
Đạo Phật chỉ có một
thừa là Phật thừa. Nhưng vì chúng sanh trình độ rất thấp kém, không thể học
liền Phật thừa nổi, nên Phật mới quyền dạy các Thừa kia.
Đức Phật dạy Đạo Tiểu
thừa và Đại thừa mà chúng ta có thể phân ra làm ba bực: Hạ, Trung, Thượng cho
dễ học, dễ hiểu.
BÀI TẬP
Lựa những chữ sau
đây, điền vào chỗ trống trong bài cho đúng nghĩa của mỗi câu: Hạ, Trung,
Thượng (4) – Nhứt thừa (1)
– Đại thừa (3) – Tiểu thừa (2).
Ba thừa là giả, chỉ
có . . . . . .(1) . . . . . . . . là thiệt.
Đức Phật ra đời dạy .
. . . . . .(2) . . . . . . . trong 40 năm và 9 năm dạy . . . . . . (3). . . . .
. . Chúng ta có thể phân các cõi trong Tiểu thừa và Đại thừa ra làm ba bực là:
. . . . . . . . .(4) . . . . . . . . . . . . .
Nam
Mô A Di Đà Phật.
Kính
Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.
————————————————
BÀI 4
Ý NGHĨA
và CÁCH THỨC DẠY
ĐẠO
của ĐỨC PHẬT
Ý nghĩa dạy Tiểu thừa: Đức Phật dạy Tiểu thừa để giải quyết
vấn đề chúng sanh đa khổ tức là Nhơn Sanh Quan(1) bằng
cách chỉ cho chúng sanh tu học thấu rõ đặng cái lý Vô ngã (không có cái ta chơn
thiệt). Chừng ấy chúng sanh mới đặng giải thoát dứt hết các sự khổ não.
Ý nghĩa dạy Đại thừa: Đức Phật dạy Đại thừa để giải quyết vấn
đề Vũ Trụ Quan.(2)
Bực Tiểu thừa tuy đã đặng giải thoát
nhưng chưa hoàn toàn vì còn mê chấp vạn vật trong vũ trụ là thật có (chấp
pháp). Phật bèn dạy phải phá cái chấp pháp ấy, cho chúng sanh biết vạn vật (vạn
pháp) vốn là hư vọng, là không. Tuy là không, nhưng vạn pháp sanh ra do nơi cái
bản thể chơn thiệt của vũ trụ tức là cái Nguyên lý tuyệt đối bất sanh,
bất diệt và cũng là cái Tâm chung của muôn loài vạn vật. Tỏ ngộ và tu chứng
đặng cái Chơn tâm rộng lớn này mới được hoàn toàn giải thoát thành Phật.
CÁCH THỨC DẠY
ĐẠO CỦA ĐỨC PHẬT
Đức Phật dạy Đạo có ba phần: Một là
chỉ cho biết các Cung, các Cõi (bản đồ Tứ Thánh Lục Phàm). Hai là phần
Giáo lý của mỗi bực. Ba là phần Thực hành để cầu chứng quả, tức là phần
Pháp môn tu chứng của các bực ấy.
BẢN ĐỒ
CÁCH THỨC DẠY ĐẠO CỦA ĐỨC PHẬT
PHẦN
GIÁO LÝ
|
CÁC
CÕI
|
PHẦN
PHÁP MÔN TU CHỨNG
|
Phi sắc không nhưng
bất ly sắc không
|
PHẬT
|
Viên mãn Lục độ ba-la-mật
|
1. Sắc không như
huyễn,
2. Sắc không vô trụ,
3. Sắc không viên
dung bình đẳng
|
BỒ
TÁT
|
Lục độ ba-la-mật
|
Sắc không tương đối
|
DUYÊN
GIÁC
|
Mười hai nhơn duyên
|
THINH
VĂN
|
Tứ diệu đế và Bát chánh đạo
|
|
Dứt các điều ác, làm
các điều lành
|
THIÊN
|
Hành Thập thiện
|
NHƠN
|
Trì Ngũ giới
|
|
Tâm tánh si mê, sân hận,
tạo các nghiệp ác, dữ
|
A-TU-LA
|
Không tu các thiện nghiệp, sống thuần bằng các
tình thức mê lầm của thế gian, lại phạm thêm các trọng tội.
|
NGẠ
QUỈ
|
||
SÚC
SANH
|
||
ĐỊA
NGỤC
|
I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1) Nhơn sanh quan: là quan niệm về đời
sống của con người. Đức Phật quan niệm đời người rất khổ (chúng sanh đa khổ).
Muốn hết khổ phải tu giải thoát, muốn đặng giải thoát phải trừ ngã chấp.
(2) Vũ trụ quan: Vũ trụ chỉ chung
tất cả trời đất, tinh tú, vạn vật. Vũ trụ quan là quan niệm về vũ trụ. Đức Phật
quan niệm về vũ trụ có hai phần: Một
là về phần Hiện tượng giới tức là mê giới, chỉ vạn vật, vạn pháp hữu hình, hữu
tướng hư vọng. Hai là về phần bản
thể vô hình, vô tướng tức là ngộ giới vốn chơn thiệt không hư hoại, là nguồn
gốc sanh ra hiện tượng giới. Bản thể này cũng gọi là nguyên lý tuyệt đối.
(3) Nguyên lý tuyệt đối: Nguyên lý là chơn lý
từ lúc vô thỉ (gốc đầu tiên). Tuyệt đối là không còn đối đãi, so sánh, lìa cả
hai pháp tương đối như có đối với không, hoàn toàn rốt ráo.
Nguyên lý tuyệt đối
là Chơn lý hay Thể tánh cội gốc, vô hình, vô tướng, nguồn gốc sanh hoá vạn vật.
II. PHẦN VẤN ĐÁP
1) — Phật dạy Tiểu thừa với ý nghĩa ra sao?
— Phật dạy Tiểu thừa để giải quyết vấn đề chúng
sanh đa khổ bằng cách tu hành phá ngã chấp, được giải thoát trong vòng
tương đối.
2) — Ý nghĩa Phật dạy Đại thừa như thế nào?
— Phật dạy Đại thừa để giải quyết vấn đề Vũ
trụ quan phá thêm pháp chấp, chứng đặng Thể tánh tuyệt đối mới được hoàn
toàn giải thoát.
3) — Cách thức dạy Đạo của Đức Phật ra sao?
— Đức Phật trước hết chỉ cái Bản đồ Thập giới
cho chúng sanh biết rõ các Cõi. Tiếp theo Ngài dạy phần Giáo lý, sau nữa là
phần Pháp môn tu chứng để thực hành mới đi tới chỗ chứng quả được.
III. PHẦN TOÁT YẾU
Đức Phật dạy Tiểu
thừa phá Ngã chấp để giải quyết vấn đề chúng sanh đa khổ (nhân sinh
quan) và dạy Đại thừa vấn đề Vũ trụ quan để phá Pháp chấp, ngộ đặng
nguyên lý tuyệt đối mới đặng hoàn toàn giải thoát.
Muốn
tu hành cho có kết quả thì trước hết phải học phần Giáo lý của mỗi bực và sau
phải dùng phần Pháp môn tu chứng mà thực hành mới chứng quả được.
BÀI TẬP
Tìm tiếng phản nghĩa
của những chữ sau đây:
Có, Đen, Thấp, Tiểu,
Tương đối, Tại gia, Sanh tử.
Nam
Mô A Di Đà Phật.
Kính
Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.
————————————————
BÀI 5
NHƠN THIÊN THỪA
BỰC HẠ
A. PHẦN GIÁO LÝ
Đức Phật dạy cõi Nhơn – Thiên:
1) Dứt các điều ác để tránh các quả khổ
nơi cõi Ngạ quỉ, Súc sanh và Địa ngục.
2) Làm các điều lành đặng hưởng các quả
vui nơi cõi Nhơn – Thiên, nhưng còn bị kẹt trong sự Sanh tử phần đoạn(1)
vì còn chấp ngã(2) và chấp pháp.(3)
Làm lành mà còn mong hưởng nên gọi là Thiện
hữu lậu.(4)
B. PHẦN PHÁP MÔN TU CHỨNG
I) Của cõi Người (Nhơn thừa):
Muốn đặng sanh về
cõi Người thì Đức Phật dạy tu pháp Trì Ngũ Giới: 1) Nhứt bất Sát sanh. 2) Nhị bất Du đạo. 3) Tam bất Tà dâm. 4)
Tứ bất Vọng ngữ. 5) Ngũ bất Ẩm tửu.
II. Của cõi Trời (Thiên thừa):
Cõi Trời tương đối cao hơn cõi Người,
nhưng cũng còn trong vòng bực Hạ; hưởng đủ các sự khoái lạc, nhưng chỉ còn chịu
cái khổ sanh tử mà thôi.
Để được sanh lên cõi Trời, Đức Phật dạy
tu pháp Trừ Thập Ác và Hành Thập Thiện.
THẬP ÁC NGHIỆP
|
THẬP THIỆN NGHIỆP
|
||
Thân
ác nghiệp
|
Sát
|
Thân
thiện nghiệp
|
Phóng sanh
|
Đạo
|
Bố thí
|
||
Dâm
|
Tiết dục
|
||
Khẩu
ác nghiệp
|
Ác ngữ
|
Khẩu
thiện nghiệp
|
Nói lời dịu ngọt
|
Vọng ngữ
|
Nói lời chơn thiệt
|
||
Ỷ ngữ
|
Nói lời ngay thẳng
|
||
Lưỡng thiệt
|
Nói lời phân giải
|
||
Ý
ác nghiệp
|
Tham
|
Ý
thiện nghiệp
|
Giải thoát ra ngoài vòng
tham ái
|
Sân
|
Nhẫn nhục
|
||
Si
|
Suy nghĩ chánh lý
|
I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1) Sanh tử phần đoạn: là sự sanh tử từ
phần, từ đoạn, nghĩa là bỏ thân này liền thọ thân khác.
(2) Ngã chấp: chấp thân, tâm vô
thường này là ta thiệt.
(2) Pháp chấp: chấp vạn vật trong
vũ trụ, tức là vạn pháp, cho rằng thật có nên gọi là chấp pháp.
(4) Thiện hữu lậu: việc lành còn bị kẹt
trong sự sanh tử luân hồi vì còn mê lầm mong hưởng.
II. PHẦN VẤN ĐÁP
1) — Về phần Giáo lý, Đức Phật dạy cõi Nhơn –
Thiên ra sao?
— Đối với bực Hạ (cõi Nhơn – Thiên), Đức Phật
dạy dứt hết các điều ác để tránh các quả khổ, làm các điều lành để hưởng những
quả vui.
2) — Muốn đặng sanh làm người thì phải tu theo
pháp nào?
— Muốn đặng sanh lên cõi Người, phải tu theo
pháp Trì Ngũ Giới.
3) — Muốn đặng sanh lên cõi Trời, phải tu theo
pháp nào?
— Muốn đặng sanh lên cõi Trời, phải y theo
pháp Trừ Thập Ác và Hành Thập Thiện mà tu.
III. PHẦN TOÁT YẾU
Đối với cõi Nhơn –
Thiên (bực Hạ), Đức Phật dạy dứt các điều ác và làm các điều lành để hưởng các
quả vui nơi cõi Trời – Người.
Về phần pháp môn tu
chứng, cõi Người phải tu pháp Trì Ngũ Giới và cõi Trời phải tu pháp Trừ Thập Ác
và Hành Thập Thiện.
BÀI TẬP
1) Dùng những chữ sau
đây làm một câu văn có đầy đủ ý nghĩa: Hữu lậu, Sanh tử, Ngã chấp, Pháp
chấp.
2) Tìm tiếng phản
nghĩa của những chữ sau đây: Lục phàm, Phàm phu, Thiện hữu lậu, Quả khổ.
3) Lựa những chữ sau
đây, điền vào chỗ trống trong bài cho đúng nghĩa của mỗi câu: Thiện hữu lậu,
Chấp ngã, Điều lành, Quả khổ.
Đức Phật dạy dứt các
điều ác để tránh các . . . . . . . . . . nơi cõi Ngạ quỉ, Súc sanh và Địa ngục;
làm các . . . . . . . . . . để hưởng các quả vui nơi cõi Trời – Người. Nếu muốn
ra khỏi sự sanh tử Phần đoạn thì đừng . . . . . . . . . . . và đừng làm . . . .
. . . . . . . . . . . . .
Nam
Mô A Di Đà Phật.
Kính
Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.
————————————————
BÀI 6
ĐƯỜNG LỐI DẠY ĐẠO BỰC HẠ
của ĐỨC MINH TRÍ
Giáo-chủ
TỊNH ĐỘ CƯ SĨ PHẬT HỘI VIỆT NAM
A. PHẦN GIÁO LÝ
Chúng ta nên biết về phần Giáo lý, Đức
Giáo-chủ Minh Trí chỉ dạy tổng quát ba bực vỏn vẹn chỉ có một câu: “Chư ác mạc
tác, chúng thiện phụng hành,” nghĩa là: “Các điều dữ chớ làm, mỗi việc lành chớ
bỏ” (xin xem lòng-phái của Đức Giáo-chủ đã phát cho tín đồ). Hễ bực Hạ thì việc
lành thuộc về Thiện hữu lậu, còn bực Thượng thì các điều lành thuộc về Thiện vô
lậu.
B. PHẦN PHÁP MÔN TU CHỨNG
CÕI NGƯỜI: Trong quyển Lễ Bái
Lục Phương, Đức Giáo-chủ Minh Trí dạy cõi Người tu về phần Nhơn đạo, trước là
hành Lễ Bái Lục Phương là lễ lạy sáu hướng, có sáu bổn phận làm người phải giữ
cho tròn Nhơn đạo.
Ý nghĩa lạy sáu
hướng
I. Lạy hướng Đông là bổn phận làm con thờ cha mẹ có 5
điều:
1) là bổn phận làm con phải giữ cho tròn
Hiếu đạo.
2) là lúc cha mẹ đau ốm phải săn sóc
thuốc thang điều trị.
3) là phải cung phụng cho cha mẹ từ chén
cơm, bát nước.
4) là phải biết ơn cha mẹ mười tháng cưu
mang, ba năm bồng ẳm bú sữa, mớm cơm.(1)
5) là phải giữ tròn phận làm con cho cha
mẹ vui lòng đẹp dạ.
–
Bổn phận cha mẹ thương con có năm điều:
1) là phải dạy con trung hiếu vẹn toàn.
2) là phải cho con gần người hiền nhơn,
trí giả.
3) là phải dạy con học tập kinh luật cho
mở mang trí hoá.
4) là đến tuổi cập kê(2)
thì phải liệu chừng gả cưới.
5) là gia sản tiền của phải chia cho
đồng.
II. Lạy hướng Tây là chồng đối với vợ có năm điều:
1) là chớ có ỷ quyền áp chế.
2) là tiền bạc thâu xuất bình quyền.
3) là chẳng đặng làm điều phóng đãng
trai gái, cờ bạc rượu trà.
4) là đối với vợ phải dùng câu nhơn từ
đức hạnh.
5) là phải dạy vợ điều phải lẽ ngay, dắt
dìu vào đường Đạo đức.
–
Bổn phận làm vợ thờ chồng có năm điều:
1) là phải cung kỉnh chồng, chẳng nên dễ
duôi khinh bạc.
2) là phải cần kiệm chẳng nên lãng phí
bạc tiền, cùng giữ câu tam tùng, tứ đức.(3)
3) là phải tề gia nội trợ, gầy dựng gia
thất cho chồng.
4) là phải phụng sự cha mẹ chồng cho hết
lòng hết dạ.
5) là phải cố khuyên chồng làm điều
chánh, lánh điều tà.
III. Lạy hướng Nam là bổn phận học
trò kỉnh trọng Thầy có năm điều chấp sự:
1) là kỉnh trọng Thầy cũng như cha mẹ.
2) là phải siêng năng trì chí, việc học
hành thì phải cố công.
3) là phải phấn chấn cho hơn chúng bạn.
4) là phải siêng
năng thức khuya dậy sớm, lo trông nom học tập cho rành.
5) là phải bảo tồn danh giá Thầy. Khi
Thầy qui vị rồi cũng phải giữ lời Thầy dạy dỗ.
–
Bổn phận làm Thầy dạy học trò có năm điều:
1) là đừng than cực nhọc mỏi mê.
2) là dạy học trò cho mau thành công.
3) là phải siêng năng hết lòng dạy dỗ.
4) là dạy cho nó hơn mình chớ đừng nệ
cố.(4)
5) là phải dạy đứa tối cho bằng đứa
sáng.
IV. Lạy hướng Bắc ấy là mình đối với người có năm điều:
1) là đối với bà con cùng xóm riềng phải giữ lòng ngay thật.
2) là nhịn nhục thuận hoà giữ tình liên ái.
3) là lúc giao thiệp đàm luận cùng người, phải cho có trật tự
lớn nhỏ, trai gái phải cho phân minh, giữ phẩm hạnh theo địa vị của mình.
4) là khi ai bịnh hoạn mình đến săn sóc giùm, như mình có tiền
nên giúp cho người làm nghĩa.
5) là người có việc khốn khó, mình đến lo giùm, tận tâm giúp đỡ.
V. Lạy Hậu thổ, ấy là bổn phận người học Đạo có năm
điều:
1) là muốn thành Phật, Tiên, Thánh thì phải giữ dạ thảo hiền,
trung thứ, từ bi, bác ái nơi lòng.
2) là phải một lòng hành Lễ Bái Lục Phương, niệm Lục Tự Di Đà, trừ
Lục căn, diệt Lục trần,(5) hành Lục độ,(6)
phát Lục thông(7) cầu cho thoát vòng Lục đạo.(8)
3) là phải giữ Giới luật của nhà Phật cho rành.
4) là phải chí tâm lo trau giồi tâm tánh của mình.
5) là phải kiên nhẫn dày công tham thiền hầu mau đắc Đạo.
– Bổn phận Thầy chỉ
giáo có năm điều:
1) là gắng khuyên Thiện nam, Tín nữ hay đệ tử làm theo 6 phép
này:
a) bố thì thì hết tiếc
tham
b) giữ Luật thì khỏi
huỷ phạm
c) hiền từ, nhẫn nhục
thì khỏi hờn giận
d) tinh tấn thì không
giãi đãi.
e) an tâm, định thần
thì khỏi rối loạn.
f) trau giồi trí huệ
thì hết tối tăm.
2) là đừng bê trễ, phải có oai nghi, lấy chơn lý luận cho người
thông hiểu.
3) là dạy cho nó lập nhiều hạnh tốt hơn là lời nói nhiều.
4) là dạy niệm Lục Tự Di Đà, mở rộng lòng nhơn, thương tất cả
người cùng các loài động vật.
5) là phải dạy cho mau hiểu thông kinh luật và đức hạnh hoàn
toàn, sau đi ta-bà đặng chỉ cho người tu niệm.
VI. Lạy Hoàng thiên, ấy là bổn phận tôi tớ kính trọng chủ
có năm điều:
1) là thức khuya dậy sớm theo phận sự của mình.
2) là phải siêng năng đừng làm nhục đến chủ.
3) là đối với chủ phải giữ điều cung kính lễ nghi.
4) là chớ lấy của chủ đem ra mà phá hoại.
5) là phải trung thành với chủ.
– Chủ nhà đối với
tôi tớ có năm điều:
1) là sai khiến đứa ở đi đâu thì phải liệu sức đường xa gần, mưa
nắng, phải coi nó đói hay no.
2) là khi nó có bịnh thì mình phải cho tiền thang thuốc.
3) là phải thương người như thể thương thân.
4) là nó làm điều chi quấy thì dạy biểu nó chớ đừng đánh đập.
5) là mình có ăn vật chi thì phải chia cho nó.
Lạy Sáu hướng có năm điều chấp sự. Nếu
không biết có năm điều ấy mà làm theo, thì lạy sáu hướng nào có ích gì?
I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1) Mớm cơm: là nhai cơm đút cho
con (còn nhỏ) ăn.
(2) Cập kê: Kê là cái trâm. Tuổi
cập kê là đến kỳ cài trâm, nghĩa là đến tuổi lấy chồng.
(3) Tam tùng, Tứ đức: chữ tùng là
phụ theo, nương theo. Tam tùng là tại gia tùng phụ, xuất giá tùng phu, phu tử tùng tử. Tứ đức là công,
dung, ngôn, hạnh.
(4) Nệ cố: là cố chấp điều cổ
xưa, quá thời.
(5) Trừ Lục căn, diệt
Lục trần:
Lục căn là Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt,
Thân, Ý.
Lục trần là Sắc, Thinh,
Hương, Vị, Xúc, Pháp.
Trừ Lục căn, diệt Lục
trần
là: người tu hành không cho sáu căn mê nhiễm sáu trần để cho tâm được thanh
tịnh.
(6) Lục độ: độ là đò.
Lục độ là sáu chiếc đò tức là sáu pháp tu hành của hàng Bồ-tát để tự độ và độ
tha (Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định và Trí huệ).
(7) Lục thông: là sáu phép thần
thông: 1. Thiên nhãn thông, 2. Thiên nhĩ thông, 3. Tha tâm thông, 4. Túc mạng
thông, 5. Thần túc thông, 6. Lậu tận thông.
(8) Lục đạo: là sáu đường trong
sự sanh tử luân hồi từ cõi Địa ngục cho đến cõi Nhơn, Thiên.
II. PHẦN VẤN ĐÁP
1) — Về phần Giáo lý của bực Hạ, Đức Giáo-chủ
Minh Trí dạy như thế nào?
— Đức Giáo-chủ Minh Trí dạy “Chư ác mạc tác,
chúng thiện phụng hành.”
2) — Về phần Nhơn đạo, Đức Giáo-chủ Minh Trí dạy tu pháp nào?
— Về phần Nhơn đạo, Đức Giáo-chủ Minh Trí dạy tu
pháp “hành Lễ Bái Lục Phương.”
III. PHẦN TOÁT YẾU
Đức Giáo-chủ Minh Trí
dạy cõi Người về phần Nhơn đạo tu pháp “hành Lễ Bái Lục Phương” là lễ lạy sáu
hướng Đông, Tây, Nam, Bắc, Hạ phương và Thượng phương để biết sáu bổn phận làm
người đặng lo cho tròn phần Nhơn đạo. Sáu bổn phận ấy là:
1) là con đối với cha mẹ và cha mẹ đối với con.
2) là vợ đối với chồng và chồng đối với vợ.
3) là bổn phận học trò đối với thầy và thầy đối với học trò.
4) là bổn phận mình đối với người.
5) là bổn phận người học Đạo đối với thầy và thầy dạy Đạo đối
với người học Đạo.
6) là bổn phận tôi tớ
đối với chủ nhà và chủ nhà đối với tôi tớ.
Lạy Sáu hướng mà
không biết sáu bổn phận của mình nào có ích lợi gì?
Nam
Mô A Di Đà Phật.
Kính
Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.
————————————————
BÀI 7
PHÁP MÔN TU CHỨNG
CỦA CÕI NGƯỜI
PHẦN PHẬT ĐẠO
Đức Giáo-chủ Minh Trí dạy cõi Người về
phần Phật đạo tu pháp Thọ Tam Qui, Trì Ngũ Giới.
Thọ là lãnh, chịu, Tam là ba, Qui là tuân
theo. THỌ TAM QUI là lãnh chịu,
tuân theo ba ngôi báu là Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo, tức là Qui y Phật, Qui
y Pháp và Qui y Tăng.
Qui y Phật: nghĩa là tuân theo Phật, nguyện y theo
Phật, vì Phật là bực toàn giác, toàn minh thoát ly ra ngoài biển khổ, còn chúng
sanh thì say mê nơi bể ái trầm luân, chịu luân hồi đời đời kiếp kiếp.
Nay ta muốn lướt qua biển khổ mà đến bến
Bồ
đề(1) thì phải tuân theo Phật, phải làm y theo Phật, mới
gọi là Qui y Phật.
Qui y Pháp: nghĩa là y theo Pháp của Phật dạy tức
là Kinh, Luật và Luận mà tu hành.
Kinh: là lời nói của Phật giảng dạy chúng sanh trong 49 năm mà các
hàng đệ tử của Phật gia công chép lại có đủ nghĩa lý thấp cao, rộng hẹp ra từng
tập, lưu truyền cho đến ngày nay gọi là Tạng Kinh.
Luật: là Giới luật, như Ngũ giới, Thập giới v.v… mà Phật chế ra để
các hàng đệ tử tu hành cho khỏi phạm nhằm tội lỗi nên gọi là Tạng Luật.
Luận: là luận bàn. Sau khi Đức Phật tịch rồi có nhiều vị cao tăng tu
hành đắc đạo, vì thấy Phật pháp cao sâu, mầu nhiệm quá mà phần nhiều người hiểu
lầm, hành sai, nên ra công viết sách giải nghĩa lý cho rõ ràng minh bạch, nên
gọi là Tạng Luận.
Qui y Tăng: là tuân theo ông Thầy học Phật, là
những vị chơn tu đắc đạo(2) thay thế cho Phật để dạy Đạo. Nay ta được
biết Phật, biết giáo pháp mà tu hành là nhờ ông Thầy học Phật. Vậy nên ta phải
noi theo gương ông Thầy để học hỏi và kính trọng người.
Qui y Tam Bảo được sự lợi ích lớn là
khỏi đoạ trong Tam đồ(3) là ba đường dữ: Ngạ quỉ, Súc sanh và Địa
ngục (Qui y Tam Bảo bất đoạ tam đồ).
TRÌ NGŨ GIỚI
Trì là cầm, nắm, giữ; Ngũ là năm; Giới
là điều răn cấm. Trì Ngũ Giới là nắm giữ năm điều răn cấm không để cho
phạm tội lỗi.
Ngũ Giới cấm là:
1)
Không được Sát sanh.
2)
Không được Trộm cắp.
3)
Không được Tà dâm.
4)
Không được Nói dối.
5)
Không được Uống rượu.
1) Cấm sát sanh: là cấm người giết hại lẫn nhau, không giết hại loài động vật vì
các giống ấy có tánh như người, biết tham sống sợ chết, biết có đôi bạn như
người, biết khát uống đói ăn, biết lạnh trốn gió, biết nực dầm nước, biết đau,
sợ đánh, sợ đâm, chúng nó cũng biết ơn đền nghĩa trả mà nỡ nào sát hại mạng nó
cho đành.
Người và loài vật cũng đồng một bản thể
(bổn tâm) vì chúng nó tu cũng thành Phật như mình vậy.
Theo luật nhân quả của Tạo
hoá,(4) nếu giết nó thì gây cuộc oan trái, nối tiếp luân
hồi quả báo cho hậu thân. Người tu hành có lòng từ bi, bác ái nên không giết
hại nó. Muốn tránh tội sát sanh thì không gì bằng ăn chay.
2) Cấm trộm cắp: Thử hỏi mình mất tiền của có biết ưu sầu tiếc nuối không? Dẫu
cho ai cũng phải trả lời là có vậy. Như vậy nếu mình trộm cắp, cướp giật của
người, lẽ cố nhiên người cũng phải đau khổ, khốn cùng, có khi phải quyên sinh
tự tử nữa. Vậy nên Phật cấm chẳng đặng trộm cắp.
3) Cấm tà dâm: Vì gian dâm với vợ hay chồng người rủi bị bắt được, vì ghen
tương mới có sự chém giết lẫn nhau. Gian dâm con của người, làm cho gia đình
người bị nhục đến đỗi trầm mình tự tử vì bị danh nhơ. Sự dâm dục là nguồn gốc
của sự sanh tử, nên Phật cấm không cho tà dâm.
4) Cấm nói dối: Nói dối là một sự rất ác độc vì hễ nói thêm thì dư cho người
cũng hại, còn nói bớt thì thiếu cho người cũng nguy. Thường ở đời có lắm người
bị đổ thừa nói thêm hoặc bị dối trá lường gạt mà bậu bạn phải xa lìa, cửa nhà
tan nát, làm cho cha xa con, vợ rẽ chồng, đến đỗi có lúc phải quyên sinh tánh
mạng. Thiệt là hại thay! độc ác thay!
5) Cấm uống rượu: Rượu là một thứ thuốc dễ làm say người. Uống vào thì khôn lanh
hoá ra khờ dại. Hễ rượu vào thì lời ra, sanh lắm điều tác tệ, việc gì ác đức
cũng dám làm, dù cho cha mẹ, vợ con cũng không kể đến. Nó làm cho lửa lòng
phừng lên, tâm tánh rối
loạn, mất gương trí huệ, quên cả bổn tánh. Vậy nên Phật cấm uống rượu để tâm
tánh được vững vàng, yên thần, lặng trí.
I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1) Bồ đề: là Trí Giác ngộ hay
là Đạo quả Giác ngộ. Bồ đề là bờ giác của Phật (hoàn toàn rốt ráo).
(2) Đắc đạo: là tu hành đến chỗ
chứng được Đạo quả Giác ngộ hay là đạt đến Chơn lý của Đạo.
(3) Tam đồ: chữ đồ nghĩa
là đường đi. Tam đồ là ba đường, chỉ cõi Ngạ quỉ, Súc sanh và Địa ngục.
Chữ đồ cũng có nghĩa là đau khổ, chỉ ba cái khổ: đao đồ, thuỷ đồ
và hoả đồ.
(4) Tạo hoá: tạo là gây
dựng nên, hoá là làm thành; có nghĩa là Trời đất gây dựng,
hoá sanh muôn vật.
II. PHẦN VẤN ĐÁP
1) — Qui y Tam Bảo nghĩa là gì?
— Qui y Tam Bảo là đem thân mạng trở về nương
theo ba ngôi báu là Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo.
2) — Qui y Pháp nghĩa là sao?
— Qui y Pháp nghĩa là y theo pháp của Phật dạy
Kinh, Luật, Luận để tu hành.
3) — Tu theo pháp Ngũ giới cấm, kết quả ra sao?
— Tu theo pháp Ngũ giới cấm sẽ được sanh về cõi
Người.
III. PHẦN TOÁT YẾU
Về phần Phật đạo, Đức
Giáo-chủ Minh Trí dạy cõi Người tu theo pháp Thọ Tam qui, Trì Ngũ giới.
Tam qui là qui y
Phật, qui y Pháp và qui y Tăng. Nếu qui y theo Tam Bảo thì sẽ khỏi đoạ trong
Tam đồ, còn trì được Ngũ giới thì kết quả sẽ được sanh lên cõi Người.
Nam
Mô A Di Đà Phật.
Kính
Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.
————————————————
BÀI 8
PHÁP MÔN TU CHỨNG
của CÕI TRỜI
Muốn tu chứng lên cõi Trời, Đức Giáo-chủ
Minh Trí dạy tu pháp Tịnh Tam Nghiệp.
Tịnh là trong sạch, tam là ba, nghiệp là
sự tạo tác, hành động.
Tịnh
tam nghiệp là ba
nghiệp Thân, Khẩu, Ý phải giữ cho trong sạch.
– Vì Thân có làm ra thì gọi là Thân
nghiệp.
– Vì Khẩu (miệng) có nói ra thì gọi là
Khẩu nghiệp.
– Vì Ý có suy nghĩ ra thì gọi là Ý
nghiệp.
Trong các nghiệp có nghiệp lành, nghiệp
dữ nên quả báo khác nhau. Cả đời làm dữ thì phải chịu quả báo dữ, cả đời làm
lành thì được quả báo lành. Thế nên người tu hành cần phải Tịnh Tam nghiệp cho
Thân, Khẩu, Ý được trong sạch.
Thân nghiệp tịnh: là không giết hại người cùng loài thú
vật, không làm điều trộm cắp, lường gạt của người, không tà dâm lang
chạ(1) mà luôn luôn phải phóng sanh, bố thí, tiết dục.
Khẩu nghiệp tịnh: là không chửi mắng, rầy la, hăm doạ,
không nói sự trái lẽ làm buồn lòng người, không nói láo xược, không nói đâm
thọc, không nói thô ác, không nói thêu dệt(2) mà luôn
luôn phải thường nói chơn thiệt, hiền lành, ngay thẳng, dịu ngọt và phân giải.
Ý nghiệp tịnh: là không tưởng điều quấy, không tham danh lợi, tài sắc, không
tưởng phú quí, công danh, ăn ngon, mặc tốt, không tưởng đến buồn, giận, oán
thù, cố chấp, ích kỷ, hại nhơn mà luôn luôn phải giải thoát ra khỏi vòng tham
ái, suy nghĩ chánh lý và tu hạnh nhẫn nhục.
Xuyên qua đường lối dạy đạo bực Hạ của
Đức Phật và Đức Giáo-chủ Minh Trí, chúng ta nhận thấy hai đường lối này đều như
nhau không khác.
I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1) Lang chạ: là chung chạ, lẫn
lộn, không đúng đắn.
(2) Thêu dệt: là thêm thắt, bịa
đặt để làm cho chuyện nhỏ thành ra chuyện lớn.
II. PHẦN VẤN ĐÁP
1) — Tam nghiệp thanh tịnh nghĩa là sao?
— Tam nghiệp thanh tịnh nghĩa là Thân, Khẩu và Ý
phải trong sạch.
2) — Muốn cho ba nghiệp trong sạch phải làm cách nào?
— Muốn cho ba nghiệp được trong sạch thì phải
trừ mười điều ác và làm mười điều thiện.
III. PHẦN TOÁT YẾU
Đức Giáo-chủ Minh Trí
dạy tu pháp Tịnh tam nghiệp thì sẽ được lên cõi Trời. Tam nghiệp là Thân
nghiệp, Khẩu nghiệp và Ý nghiệp.
Muốn cho ba nghiệp
được trong sạch, phải trừ Thập ác và hành Thập thiện.
Nam
Mô A Di Đà Phật.
Kính
Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.
————————————————
PHẦN NGHE KINH BỰC HẠ
“LUẬN VỀ TỘI BÁO VÀ PHƯỚC BÁO”
I. LUẬN VỀ TỘI BÁO
Trong kinh “Luân Chuyển Ngũ Đạo Tội
Phước Báo Ứng,” Đức Phật dạy:
1) Những người bị thân hình nhỏ bé là trước kia hay khinh mạn người.
2) Những người bị thân hình xấu xa là trước kia
hay giận tức người.
3) Những người sinh ra không biết gì hết là trước
kia không có học vấn.
4) Những người ngu đặc là trước kia không hay dạy
bảo người.
5) Những người câm ngọng là trước kia hay huỷ
báng người.
6) Những người mù loà là trước kia không hay nghe
theo kinh pháp.
7) Những người làm tôi tớ là trước kia còn mang
nợ chưa trả.
8) Những người ti tiện là trước kia không lễ kính
Tam Bảo.
9) Những người sinh trong cõi (nước) khoả thân là trước kia hay mặc
áo mỏng, xốc xếch, đường đột vào trong chùa, tháp hay tịnh xá.
10) Những người sinh trong
nước có phong tục bó chơn như móng ngựa, là trước kia hay đi giày, guốc vào
trước Phật.
11) Những người sinh trong
nước có phong tục xuyên ngực là trước kia tuy bố thí làm phước nhưng còn có tâm
hối tiếc.
12) Những người thân thể
mọc như ung thư ác độc điều trị khó khỏi là trước kia hay đánh đập chúng sanh.
13) Những người bị huyện
quan gông xiềng thân thể, giam giữ trong lao ngục là đời trước làm người hay
nhốt trói chúng sanh, khiến cho chúng sanh không được theo tự do của mình.
14) Những người sứt môi là
nhiều đời trước hay câu cá làm cá sứt môi.
15) Những người ngu si,
nghe những lời thuyết pháp mà tâm không chịu ghi nhận, sau sẽ bị đoạ vào trong
loài lừa, ngựa tai dài.
16) Những người sẻn so,
tham ăn một mình sau sẽ đoạ sinh vào trong loài quỉ đói, nếu sau sinh làm người
bị nghèo cùng đói thiếu, áo không che kín mình, ăn không đủ cung miệng.
17) Những người tự mình ăn
thức ngon, cho người ăn thức dở, sẽ đoạ sinh vào trong loài lợn, chó, bọ hung.
18) Những ai cướp đoạt súc
vật người, sau sẽ bị đoạ, sinh vào trong loài dê, bị lột sống da để đền trả nợ
trước.
19) Những ai hay sát sanh
sau đoạ sinh làm con trùng, phù du trên mặt nước, sáng sanh chiều chết.
20) Những ai hay ăn trộm
tài vật của người, sau phải đoạ sinh vào trong hàng tôi tớ, trâu, ngựa đền trả
nợ trước.
21) Những người gian dâm
vợ hay con gái người, khi chết vào địa ngục, con trai phải ôm cột đồng, con gái
phải nằm giường sắt, đến khi ở địa ngục ra, thường sinh nơi hạ tiện và phải đoạ
sinh vào trong loài gà, vịt.
22) Những người hay tham
lam sức lực của người khác, sau phải đoạ sinh vào trong loài voi.
23) Những người đứng đầu
châu, quận thọ tước lộc quan trường, hay bắt người vô tội, hay lẩn lút của dân,
biên tên, lùng bắt, trói chăng, dùng roi gậy đánh đập, cưỡng bức người dân đem
đi và tố cáo những chuyện không đâu, rồi đem gông xiềng giam giữ khiến cho dân
đau khổ, oan ức; sau đó phải bị đoạ vào
trong địa ngục, lại phải bị đoạ vào loài thuỷ ngưu, xuyên thủng lỗ mũi, kéo
thuyền, kéo xe, roi gậy đánh đập đền trả tội trước.
24) Những người không được
trong sạch, là từ trong kiếp lợn mà tới.
25) Những người sẻn so,
tham lam không được trong sạch, ngay thẳng là từ trong kiếp chó mà tới.
26) Những người có những
hơi hôi tanh là từ trong kiếp cá, kiếp ba ba mà tới.
27) Những người hung ác,
mang tâm địa độc, khó hiểu là từ trong kiếp trăn, rắn mà tới.
28) Những người ưa ăn thức
ngon, hay sát hại chúng sanh là từ trong kiếp chó sói, hùm beo, chồn, chim ưng
mà tới.
29) Những người bị chết
non, bào thai bị thương truỵ, mệnh đà mất sớm là đời trước hay đi săn bắn, đốt
cháy núi rừng, tìm ổ đập trứng, chăn lưới bắt cá, sát hại hết thảy chúng sanh.
Ôi! Ham muốn da
thịt chúng sanh để mình ăn uống, mà thường phải chịu quả báo đoản mạng đời này
đến đời khác. Vậy nên phải cẩn thận. Thực đau xót không thể nói sao cho xiết
được.
II. LUẬN VỀ PHƯỚC BÁO
Đức Phật dạy: “Người ta làm phước ví như
trồng một cây ăn trái.” Hồi trồng chỉ có một hột, đến chừng trái quả thì vô
lượng, hưởng hoài không dứt.
1) Hiện nay những người hào quí như quốc vương, trưởng giả là từ
trong chỗ chăm chú lễ Phật, thừa sự Tam Bảo trước kia mà được.
2) Hiện nay những người đại phú, của cải vô hạn là từ trong chỗ chăm
làm hạnh Bố thí trước kia mà được.
3) Hiện nay những người trường thọ, không có tật bệnh, thân thể cường
tráng, là từ trong chỗ chăm làm hạnh Trì giới trước kia mà được.
4) Hiện nay những người đoan chính, nhan sắc tốt đẹp, dáng dấp sáng
sủa đệ nhứt, thân thể mềm mại, hơi miệng thơm sạch, người ta trông thấy tư
dung, không ai là không hoan hỷ, trông không chán mắt là từ trong chỗ làm hạnh Nhẫn
nhục trước kia mà được.
5) Hiện nay những người tu tập, không hay trễ biếng, ham làm phước
đức, là từ trong chỗ chăm làm hạnh Tinh tấn mà được.
6) Hiện nay những người an nhàn, thư thái, lời nói việc làm xác thực
là từ trong chỗ chăm làm hành Thiền định trước kia mà được.
7) Hiện nay những người tài năng, minh mẫn, hiểu thấu pháp sâu xa,
tán thán nghĩa nhiệm mầu, khai ngộ người tối tăm, người ta nghe thấy lời nòi
của họ, không ai là không thăm hỏi tín thụ, tuyên truyền và tin dùng như trân
bảo là từ trong chỗ tu hành Trí huệ trước kia mà được.
Phật bảo ông A-nan
rằng:
“Phàm làm công đức
gì đều ứng vào mình. Thắp hương, cúng trai, cúng dàng đồ vật là pháp thường
làm, lại Bố thí nữa sẽ được phúc chư Thiên tiếp đãi, muôn ác đều lui, mọi ma
trừ sạch không dám đương đầu. Tội, phúc theo mình như bóng theo hình. Bố thí
một phần, được gấp muôn phần. Đấy là Ta nói thực, không chút dối trá.”
Bấy giờ Đức Phật
nói bài tụng rằng:
Hiền giả hay Bố
thí,
Thiên thần tự
giúp đỡ.
Cho một được
gấp muôn,
Yên vui và sống
lâu.
Ngày nay Bố thí
nhiều,
Phúc ấy không
thể lường.
Đều sẽ thành
Phật đạo,
Độ thoát khắp
mười phương.
***
Nhơn duyên hội hợp
chỉ nên thân,
Năm giới, mười
thiện, trừ bỏ giận.
Không mong
người hứa, tự làm thân,
Vinh lạc thế
gian như mây nổi.
Vòng quanh năm
đường như bánh xe,
Kể gì thọ mệnh,
tiếc vàng bạc.
Trời đất còn
hoại, lọ thân mình,
Vâng giữ giới
kinh, là rất quí.
Đừng tham tài
sắc, … nhục lầm người,
Chúng sanh ba
cõi như đàn dê.
Đi, lại năm
đường thân tan tác.
Mệnh nhanh,
nước chảy có thường đâu,
Làm ác rất
chóng, chịu tội lâu,
Đoạ vào địa
ngục, vạc dầu nóng.
Ngăn lòng, bền
ý, xa tai vạ,
Phạm tội vào
trong khổ khó chịu.
Đức Phật bảo ông A
Nan:
“Người đời không có
trí huệ, nên phải sanh tử luân hồi. Vì nhục nhãn (mắt thịt) nên không biết tội
phúc. Nay ta dùng Đạo nhãn (mắt Đạo) trông thấy sự báo ứng của tội và phúc từ
vô số kiếp cho tới thân này, rõ như xem hạt ngọc lưu ly trong bàn tay, sáng
suốt tất cả trong ngoài không còn chút ý tưởng ngờ vực nào nữa!”
BÀI TẬP
Gạch dưới những chữ
quan trọng trong bài để cho biết bài ấy nói về cõi nào? Bực nào?
1) – Thiên đường có nẻo
thẳng, cho hay nhà kín có trời xanh.
– Địa ngục không ngỏ
ra, cũng bởi tấc lòng theo đất tối.
2) Cõi Thiên đường vui
tươi, sáng sủa, có con lộ rộng lớn để nương theo về cõi ấy.
Dù di chẳng đặng đến
nơi, ở giữa đường cũng nhờ phước báo đắc phục đặng Nhơn thân, hưởng được sự
giàu sang phú quí, khỏi các sự khổ sở nơi ba đường dữ.
Nam
Mô A Di Đà Phật.
Kính
Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.
PHẦN ÔN BÀI BỰC
HẠ
1 — Thập giới nghĩa là
gì?
— Thập giới còn gọi là Thập Pháp giới, tức là
mười cảnh giới (cõi), trong đó có bốn cõi Thánh và sáu cõi Phàm. Danh từ Thập
giới xuất xứ từ kinh Hoa Nghiêm.
2 — Tam thừa Thánh giáo
nghĩa là gì? và chỉ cõi nào?
— Tam thừa Thánh giáo là ba bực tu hành đều
được giải thoát: Thinh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ-tát thừa (cũng gọi là xe
Dê, xe Nai và xe Trâu).
3 — Nhị thừa chỉ cõi
nào? Tiểu thừa có phải là Nhị thừa không? Tiểu thừa và Tiểu thánh có khác nhau
không? Tại sao vậy?
— Nhị thừa chỉ cõi Thinh văn và Duyên giác,
Tiểu thừa không phải là Nhị thừa, vì Tiểu thừa có bốn bực là Nhơn, Thiên, Thinh
văn và Duyên giác. Tiểu thừa và Tiểu thánh khác nhau, vì Tiểu thừa có bốn cõi
còn Tiểu thánh có hai cõi mà thôi.
4 — Tiểu thừa có mấy
cõi? Đại thừa có mấy cõi?
— Tiểu thừa có bốn cõi: Nhơn, Thiên, Thinh văn
và Duyên giác. Đại thừa có hai cõi: Bồ-tát và Phật.
5 — Nhứt thừa chỉ cõi
nào? Còn cõi nào gọi là Quyền thừa?
— Nhứt thừa là Phật thừa, còn từ Bồ-tát trở
xuống hay Nhị thừa, Tam thừa Thánh giáo, Ngũ thừa Phật giáo đều gọi là Quyền
thừa.
6 — Tại sao Đức Như Lai
nói Đạo của Ngài chỉ có một thừa là Phật thừa mà thôi?
— Theo trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa, sở dĩ
Đức Thế Tôn ra đời vì ý nguyện của Ngài muốn dạy cho chúng sanh đều đặng thành
Phật viên mãn rốt ráo y như Ngài, nên Ngài mới nói Đạo của Ngài chỉ có một thừa
là Phật thừa mà thôi, nhưng vì chúng sanh căn cơ thấp kém nên Ngài tuỳ duyên
phương tiện lập Quyền thừa mà dạy chúng sanh từ thấp lên cao, cũng như dạy cho
chúng ta leo từ nấc thang, để sau cùng dạy qua Phật thừa.
7 — Quyền thừa nghĩa là
gì?
— Quyền nghĩa là tạm, cũng có nghĩa là phương
tiện hay là phương pháp dùng đỡ để đạt đến chỗ chơn thiệt mà chẳng trái với lý
Đạo.
8 — Ý nghĩa của Đức Phật
dạy Tiểu thừa và Đại thừa như thế nào?
— Ý nghĩa Đức Phật dạy Tiểu thừa để giải quyết
vấn đề “chúng sanh đa khổ” tức là Nhơn sanh quan. Đức Phật quan niệm đời sống
con người rất khổ, nếu muốn hết khổ phải tu giải thoát, muốn đặng giải thoát
phải trừ Ngã chấp.
Ý nghĩa Đức
Phật dạy Đại thừa để giải quyết vấn đề Vũ trụ quan, là vì bực Tiểu thừa tuy đã
đặng giải thoát nhưng chưa rõ vạn vật hữu hình, hữu tướng vốn là hư hoại (chấp
pháp). Cho nên Đức Phật dạy phá cái Pháp chấp cho chúng sanh biết vạn vật (vạn
pháp) là hư vọng, là không; nhưng vạn pháp sanh ra do nơi cái bản thể Chơn
thiệt của Vũ trụ, tức là cái nguyên lý tuyệt đối. Nguyên lý là chơn lý nguyên
thỉ (gốc đầu tiên). Tuyệt đối là không còn đối đãi lìa cả hai pháp tương đối,
để chứng đặng cái Tâm Chơn không Diệu hữu, tức là cái bản thể Vũ trụ vạn hữu,
mới được hoàn toàn giải thoát.
9 — Nguyên lý tuyệt đối
nghĩa là gì?
— Nguyên lý tức là cái lý cội gốc đầu tiên,
tuyệt đối là không còn hai tướng đối đãi. Nguyên lý tuyệt đối là chỉ cái bản
thể của Vũ trụ vạn hữu, là tâm Chơn không Diệu hữu hay là Tâm chung của muôn
loài vạn vật.
10 — Phần Giáo lý, Đức Phật dạy bực Hạ cõi
Nhơn – Thiên như thế nào?
— Đức Phật dạy cõi Nhơn – Thiên: a) Dứt các
điều ác để tránh các quả khổ nơi cõi Ngạ quỉ, Súc sanh và Địa ngục. b) Làm các
điều lành đặng hưởng các quả vui nơi cõi Trời, Người. Nhưng còn bị kẹt trong sự
sanh tử phần đoạn vì còn chấp ngã và chấp pháp. Làm lành mà còn mong hưởng nên
gọi là Thiện hữu lậu.
11 — Phần pháp môn tu chứng, Đức Phật dạy cõi
Nhơn – Thiên tu cách nào?
— Phần pháp môn tu chứng, Đức Phật dạy cõi
Nhơn tu pháp Trì ngũ giới: Nhứt bất sát
sanh, Nhị bất Du đạo, Tam bất tà dâm, Tứ bất vọng ngữ, Ngũ bất ẩm tửu.
Đức Phật dạy
cõi Thiên tu pháp trừ Thập ác và hành Thập thiện.
THẬP ÁC NGHIỆP
|
THẬP THIỆN NGHIỆP
|
||
Thân ác nghiệp
|
Sát
|
Thân thiện nghiệp
|
Phóng sanh
|
Đạo
|
Bố thí
|
||
Dâm
|
Tiết dục
|
||
Khẩu ác nghiệp
|
Ác ngữ
|
Khẩu thiện nghiệp
|
Nói lời dịu ngọt
|
Vọng ngữ
|
Nói lời chơn thiệt
|
||
Ỷ ngữ
|
Nói lời ngay thẳng
|
||
Lưỡng thiệt
|
Nói lời phân giải
|
||
Ý ác nghiệp
|
Tham
|
Ý thiện nghiệp
|
Giải thoát ra ngoài vòng
tham ái
|
Sân
|
Nhẫn nhục
|
||
Si
|
Suy nghĩ chánh lý
|
12 — Xin giải nghĩa: Ngã chấp, Pháp chấp,
Thiện hữu lậu, Sanh tử phần đoạn?
— Ngã chấp là chấp cho cái Ta này là
chơn thiệt, Pháp chấp là chấp vạn vật hữu hình, hữu tướng là có thiệt
(chấp vạn vật thật có). Thiện hữu lậu là làm việc lành mà còn mê lầm,
nên còn kẹt trong sự sanh tử luân hồi. Sanh tử phần đoạn là sự sanh tử
từ phần, từ đoạn, buông thân này bắt thân khác nối tiếp với nhau mãi mãi.
13 — Đức Giáo-chủ Minh Trí dạy bực Hạ về cõi
Nhơn – Thiên:
A. Phần Giáo
lý ra làm sao?
— Phần Giáo lý Đức Giáo-chủ Minh Trí dạy tổng
quát vỏn vẹn có một câu: “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành,” nghĩa là các
điều dữ chớ làm, mỗi việc lành chớ bỏ, hễ bực Hạ thì việc lành thuộc về Thiện
hữu lậu, còn bực Thượng thì các việc lành đều thuộc về Thiện vô lậu.
— B. Phần pháp môn tu chứng như thế nào?
— Phần pháp môn tu chứng, Đức Minh Trí dạy cõi
Người hành Lễ Bái Lục Phương, có sáu bổn phận làm người phải giữ cho tròn Nhơn
đạo. Còn về phần Phật đạo thì Ngài dạy tu pháp Thọ Tam qui và Trì Ngũ giới.
Muốn tu lên
cõi Trời, Đức Giáo-chủ Minh Trí dạy tu pháp Tịnh Tam nghiệp. Tịnh là
trong sạch, Tam là ba, nghiệp là tạo tác, hành động. Tịnh Tam
nghiệp là: ba nghiệp Thân, Khẩu và Ý phải giữ cho trong sạch (ba nghiệp tịnh
thì Phật xuất thế, ba nghiệp bất tịnh thì Phật nhập diệt).
Nam
Mô A Di Đà Phật.
Kính
Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.
————————————————
BÀI 9
THINH VĂN, DUYÊN
GIÁC THỪA
BẬC TRUNG
A. PHẦN GIÁO LÝ
Cõi Nhơn – Thiên còn bị kẹt trong sự
sanh tử Phần đoạn vì còn chấp có (có Ngã và Pháp), cho nên Đức Phật dạy hàng
Nhị thừa Thinh văn, Duyên giác bốn cái chơn lý Vô thường, Vô ngã, Bất tịnh(1) và Khổ để phá Ngã chấp trước, chớ chưa
phá nổi Pháp chấp, mới ra khỏi sự sanh tử Phần đoạn, chứng đặng Niết-bàn Tịch
diệt tức là cái Tâm Không, nhưng còn bị kẹt trong sự sanh tử Biến
dịch(2) vì còn chấp Pháp.
Trí huệ này gọi là Sanh không Chơn-như (3)
hay là Nhơn không Bát-nhã.(4)
Nhận thấy phàm phu Nhơn – Thiên thì chấp
có, Tiểu Thánh Nhị thừa lại chấp không, thế thì pháp lý của Tiểu thừa còn trong
vòng tương đối thì Sắc, Không cũng phải ở trong vòng đối đãi với nhau, nghĩa là
cái có (sắc) đối với cái không, cái không đối với cái có,
cái có chẳng phải cái không, cái không chẳng phải cái có.
Cái có và cái không phản nghĩa cùng nhau. Cái không này có nghĩa là không có
gì hết (tâm trống không), nó tiêu trầm cái hữu hình để trở thành cái vô
hình. Tất cả vạn vật là Sắc,
khi vạn hữu tiêu trầm là Không,
nên chơn lý này gọi là Chơn lý Sắc
Không tương đối của Tiểu thừa.
Sắc Không là hai pháp tương đối của Vũ
trụ, là nguồn gốc của sự sanh tử. Đạo Phật là đạo giải thoát, lẽ cố nhiên phải
liễu ngộ nguồn gốc sanh tử là Sắc và Không, nên hễ chấp Sắc thì kẹt trong sự
sanh tử phần đoạn, còn chấp Không thì bị kẹt trong sự sanh tử biến dịch.
Tại sao Đức Thế Tôn dùng hai chữ Sắc–Không để dạy đạo về phần
giáo lý của ba bực?
Như bực Tiểu thừa thì Phật dạy Chơn lý
Sắc-Không tương đối, bực Sai biệt trí Bồ-tát thì dạy Chơn lý Sắc-Không như
huyễn, bực Bồ-tát thì dạy Chơn lý Vô trụ và Đại Bồ-tát thì dạy Chơn lý
Sắc-Không viên dung bình đẳng? Chỉ có Phật thừa thì mới nói Chơn lý phi sắc,
phi không nhưng bất ly sắc, bất ly không?
Riêng về bực Tiểu thừa thì Đức Phật dạy
Chơn lý Sắc-Không tương đối, vì Sắc-Không là hai tướng đối đãi bề ngoài của Vũ
trụ vạn hữu tức là hai cái giả tướng luôn luôn đối đãi với nhau để sanh sanh,
hoá hoá muôn loài vạn vật. Vậy nên hễ chấp Sắc thì bị kẹt bên hữu hình, hữu
tướng, còn nếu chấp Không thì bị kẹt bên vô hình (ngoan không).
Vạn vật dù có sanh hoá cũng trong vòng
đối đãi nhau như người thì có Nam có Nữ mới có sanh được, thú thì có đực có cái
mới có sanh hoá, cầm thì có trống có mái mới có sanh hoá v.v… Cái Không và cái
Sắc này, mắt chúng ta đều thấy được cả. Vì bực Tiểu thừa căn cơ còn thấp kém,
chưa có đủ trí huệ để nhận biết cái bản thể Chơn không Diệu hữu vô hình vô
tướng của Vũ trụ. Nên Đức Phật phải tuỳ cơ dạy hai tướng Sắc Không tương đối bề
ngoài trước cho bực Tiểu thừa dễ thấy, dễ nhận, mới hợp với trình độ của bực
Tiểu thừa rồi lần lần dẫn dắt tu học qua bực Đại thừa.
I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1) Vô thường: là biến đổi không
còn hoài.
Vô ngã: là không có cái Ta
chơn thiệt.
Bất tịnh: là không trong sạch.
(2) Sanh tử biến dịch: là sự sanh tử biến
đổi trong lúc tu hành, bỏ cái quả vị thấp đã chứng rồi bước lên cái quả vị cao
mới vừa tu được sau.
(3) Sanh không Chơn-như: Chúng sanh vốn là
không, chẳng thiệt có, cũng gọi là ngã không, nhơn không. Sanh không nghĩa là
sanh mạng ta, sanh mạng của người khác, của các chúng sanh vốn là không.
(4) Nhơn không Bát-nhã: Sanh không
hay Ngã không, Nhơn không là quan sát thân con người do năm uẩn mượn lẫn
nhau để hoà hợp làm một cái nhơn tướng, lại do nơi nhơn duyên đủ điều kiện mới
sanh thành ra được bằng cách giả dối, vì biết trong đó nó chẳng có cái ngã thể
là thường hay nhứt định gì hết, nên gọi là Nhơn không.
II. PHẦN VẤN ĐÁP
1) — Tiểu thừa và Tiểu Thánh khác nhau ra sao?
— Tiểu thừa chỉ bốn cõi: Nhơn, Thiên, Thinh văn
và Duyên giác. Còn Tiểu Thánh chỉ có hai cõi Thinh văn và Duyên giác mà thôi.
2) — Tiểu Thánh và Nhị thừa có khác nhau
không?
— Tiểu Thánh và Nhị thừa không khác nhau vì
tiểu Thánh và Nhị thừa đều chỉ hai cõi Thinh văn và Duyên giác.
3) — Bực Nhị thừa ra khỏi sự sanh tử nào và
còn bị kẹt trong sự sanh tử nào?
— Bực Nhị thừa phá được Ngã chấp nên ra khỏi
sự sanh tử phần đoạn, nhưng còn bị kẹt trong sự sanh tử biến dịch vì còn Pháp
chấp.
4) — Trí huệ của hàng Nhị thừa tu chứng đặng
Niết-bàn Tịch diệt gọi là gì?
— Trí huệ này gọi là Sanh không Chơn-như hay
là Nhơn không Bát-nhã.
5) — Tại sao gọi là Chơn lý Sắc-Không tương
đối của Tiểu thừa?
— Bực Nhơn Thiên chấp có (Sắc) còn hàng Nhị
thừa chấp Không. Mà Sắc lại đối với Không, nên Chơn lý này mới gọi là Chơn lý
Sắc-Không tương đối của Tiểu thừa.
6) — Hai chữ Sắc và Không chỉ cái gì?
— Nếu chúng ta nhìn xem vũ trụ, chúng ta liền
thấy một bên là vạn vật hữu hình hữu tướng như mặt trời, mặt trăng, trái đất,
sao, núi, sông, biển v.v… Những vật này có hình tướng, màu sắc nên gọi là Sắc.
Kế bên vạn vật là cái trống không vô cùng, vô tận gọi là Không. Thế thì,
Sắc-Không chỉ hai tướng tương đối làm ra vũ trụ (sắc tướng và hư không).
III. PHẦN TOÁT YẾU
(Học
thuộc lòng bài này)
Về phần Giáo lý, Đức
Phật dạy:
1) Cõi Nhơn Thiên còn
bị kẹt trong sự sanh tử Phần đoạn vì còn Ngã chấp và Pháp chấp. Cho nên Đức
Phật dạy hàng Thinh văn và Duyên giác phá Ngã chấp chớ chưa phá được Pháp chấp,
để ra khỏi sự Sanh tử Phần đoạn.
2) Chứng đặng
Niết-bàn Tịch diệt tức là Tâm Không.
– Được giải thoát
trong vòng tương đối.
– Nhưng còn bị kẹt
trong sự sanh tử Biến dịch vì còn Chấp pháp.
3) Trí huệ này gọi là
Sanh không Chơn-như hay là Nhơn không Bát-nhã.
4) Nhận thấy cõi Nhơn
Thiên thì chấp có, còn hàng Nhị thừa thì chấp không. Cái có đối với cái không,
cho nên Chơn lý này gọi là Chơn lý Sắc Không tương đối của Tiểu thừa.
Sắc (cái có) chỉ vạn vật
hữu hình, hữu tướng như mặt trời, mặt trăng, trái đất, sao, núi, sông, biển
v.v… Không (cái không) chỉ cái hư không, trống không vô cùng, vô tận.
Sắc Không là hai
tướng tương đối tạo thành Vũ trụ vạn vật, là nguồn gốc của sự sanh sanh, hoá
hoá, cũng là nguồn gốc của sự sanh tử; vì hễ chấp sắc thì bị kẹt trong sự sanh
tử Phần đoạn, còn chấp không thì bị kẹt trong sự sanh tử Biến dịch.
Đạo Phật là đạo giải
thoát, lẽ cố nhiên người Phật tử phải liễu ngộ nguồn gốc ấy mới tu giải thoát
được. Vì lẽ đó mà Đức Phật mới dùng hai chữ Sắc Không để dạy Đạo về phần Giáo
lý của ba bực.
BÀI TẬP
1) Gạch dưới những
chữ quan trọng để tìm hiểu ý nghĩa trong bài, nói về cõi nào? bực nào? lý gì?
Thiện ác đáo đầu
chung hữu báo. Đó là luật nhơn quả, sự vay trả của sáu cõi Phàm khó tránh khỏi.
Có-không, không-có
luôn luôn đối đãi với nhau, làm cho kẻ chấp có phải mang thân hình tứ đại hư
vọng, khi sanh lên cõi Trời Người, lúc đoạ xuống cõi Súc sanh, Địa ngục, người
chấp không thì được giải thoát trong vòng tương đối, ra khỏi sự sanh tử Phần
đoạn mà thôi.
2) Tìm tiếng tương
đối (phản nghĩa) của những chữ và câu sau đây: Hữu ngã, Hữu vi, Ta bà, Mê tín,
Cha ăn cơm, Đời nhập thế, Bờ sanh tử bên này.
3) Tìm những danh từ
tương ứng điền vào chỗ trống cho đủ nghĩa trong bài dưới đây:
Phật dạy bực Tiểu
thừa cái Chơn lý . . . . . . . . . . . . . . . . . . . Phàm phu thì được hưởng
Phước báo nơi cõi . . . . . . . . . . . . . . Còn Tiểu Thánh chứng đặng Tâm
Không tức là . . . . . . . . . . . . . . . . Tuy ra khỏi sự . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . mà lại bị kẹt trong sự . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Hàng Thinh văn Duyên giác hiểu thấu đặng cái lý Vô ngã nên đắc đặng Trí huệ . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Nam
Mô A Di Đà Phật.
Kính
Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.
————————————————
BÀI 10
PHÁP MÔN TU CHỨNG CỦA BỰC TRUNG
(THINH VĂN THỪA )
Muốn tu chứng quả vị Thinh văn, Đức Phật
dạy tu pháp Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo.
Tứ Diệu Đế là bốn điều chắc thật, không
bao giờ thay đổi, cũng gọi là bốn Chơn lý.(1)
1) Khổ Đế 2) Tập Đế chỉ
Nhơn quả Nhập thế.
3) Diệt Đế 4) Đạo Đế chỉ
Nhơn quả Xuất thế.
KHỔ ĐẾ: Đức Phật dạy sự khổ của chúng sanh kể không thể hết, nhưng tóm
lại chỉ có bốn cái khổ chánh là Sanh, Lão, Bệnh, Tử và bốn cái khổ phụ
là Ái biệt ly khổ (sanh ly tử biệt khổ), Cầu bất đắc khổ (cầu
không đặng toại nguyện khổ), Oán tắng hội khổ (oán thù gặp nhau khổ), Ngũ
ấm xí thạnh khổ (Sắc ấm, Thọ ấm, Tưởng ấm, Hành ấm, Thức ấm, trong năm ấm
này mà có một ấm hưng thạnh hơn các ấm kia thì nó chi phối nhau làm cho con
người khổ).
TẬP ĐẾ: Tập là nhóm họp, Đế là chắc thiệt.
Tập Đế chỉ tất cả nguyên nhân nhóm họp trong Tâm mình làm cho mình phải chịu
khổ. Những nguyên nhân ấy gọi là phiền não(2) tức là
lòng tham, sân, si, mạn,(3) nghi, tà kiến, thân
kiến,(4) biên kiến,(5) kiến
thủ,(6) và giới cấm thủ.(7)
DIỆT ĐẾ: Diệt là dứt trừ, là làm cho tiêu mất,
dứt mất. Muốn hết khổ, người tu hành phải diệt trừ tập nhơn phiền não ấy. Phiền
não hết thì quả khổ không còn nữa.
ĐẠO ĐẾ: Đạo là quả, chỗ kết quả của sự tu chứng tức là Niết-bàn. Nếu
trừ được phiền não sạch, thì Tâm chúng ta được hoàn về chỗ không-tịch, vắng
lặng tức là Niết-bàn tịch diệt, gọi là Đạo Đế. Như trường hợp ông Bàn Đặc ngộ
hai chữ chổi quét là quét cho sạch lòng phiền não thì liền chứng
quả Thánh. Thế thì Diệt Đế là Nhơn, Đạo Đế là Quả.
Chúng ta cũng giảng được theo cách thứ
nhì là Đạo Đế là Nhơn, Diệt Đế là Quả. Trong trường hợp này Diệt Đế chỉ
Niết-bàn tịch diệt. Muốn chứng đặng Niết-bàn ấy phải dùng Đạo Đế mà thực hành.
Đạo Đế là Bát Chánh Đạo hay 37 phẩm trợ đạo. Thế thì, Đạo Đế là Nhơn mà Diệt
Đế là Quả, là Niết-bàn vậy.
BÁT CHÁNH ĐẠO: Để thực hành trừ lòng phiền não, phải
dùng pháp Bát Chánh Đạo. Bát Chánh Đạo là tám con đường chánh: Chánh
kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh
niệm, Chánh định.
1) Chánh kiến: là thấy chánh, nghĩa là không còn thấy
thiện ác như cõi Nhơn–Thiên nữa mà chỉ chỗ không của bổn tâm mình.
2) Chánh tư duy: là suy nghĩ chánh, nghĩa là suy nghĩ
xét biết thiện và ác là hai hột giống của sự sanh tử, do
lòng phiền não tạo ra, nên cần diệt hai hột giống ấy nơi tâm mình mới chứng
đặng quả giải thoát.
3) Chánh ngữ: là lời nói chánh, nghĩa là không còn
nói thiện ác của phàm phu nữa, mà chỉ nói chỗ không tịch, pháp Tứ đế, Bát Chánh
Đạo cùng các phẩm trợ đạo là chỗ tu chứng giải thoát của mình.
4) Chánh nghiệp: là nghiệp chánh, chuyên lo sự tu hành,
tạo nghiệp giải thoát chớ không tạo nghiệp sanh tử của thế gian nữa.
5) Chánh mạng: là mạng sống chơn chánh, nghĩa là sống
theo sự chơn chánh của người tu hành giải thoát.
6) Chánh tinh tấn: là tu hành tiến tới mãi cho đến chỗ
giải thoát, không để cho bị đứt đoạn.
7) Chánh niệm: nghĩa là tưởng nhớ chơn chánh, luôn
luôn nghĩ đến quả Vô lậu xuất thế, quán sát cảnh Chơn đế, năng tưởng niệm các
pháp trợ đạo, v.v…
8) Chánh định: là lẳng lặng chơn chánh, làm cho gió
cảnh và sóng thức không còn xao động được nguồn chơn tâm, để cho tâm mình hoàn
về chỗ tịch diệt.
BỐN QUẢ THINH VĂN
1) Tu-đà-hoàn: cũng gọi là Thất lai, còn sanh lại bảy
lần trong cõi Dục giới, vì mới trừ đặng Kiến hoặc trong Ba cõi (Dục giới, Sắc
giới và Vô sắc giới) nhưng chưa trừ đặng Tư hoặc.
2) Tư-đà-hàm: cũng gọi là Nhứt lai, còn sanh lại cõi
Dục giới một lần vì đã trừ đặng Kiến hoặc và thêm một phần Tư hoặc.
3) A-na-hàm: cũng gọi là Bất lai, vì đã trừ đặng
Kiến hoặc và Tư hoặc trong cõi Dục giới nên không còn trở lại cõi này nữa.
4) A-la-hán: Cũng gọi là Ứng cúng,(8)
phá
ác,(9) Vô sanh(10) giải thoát
ra khỏi Tam giới, vì đã đoạn trừ Kiến hoặc và Tư hoặc trong ba cõi Dục, Sắc và
Vô sắc giới, chứng đặng Niết-bàn tịch diệt.
KIẾN HOẶC và TƯ HOẶC
Kiến hoặc: là sự thấy mê lầm do nơi ý thức khởi
phân biệt nên sự thấy ấy thuộc về Tà kiến.
Tư hoặc: là sự suy nghĩ mê lầm do nơi năm căn:
Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt và Thân tiếp xúc với năm trần là: Sắc, Thinh, Hương, Vị,
Xúc mới sanh ra lòng Tham, Sân, Si v.v…
I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1) Chơn lý: là lẽ thật, có tự
nhiên của sự vật.
(2) Phiền não: là sự phiền muộn,
não nuột làm cho khổ đau trong lòng.
(3) Mạn: là tự nâng cao mình
lên và lấn lướt hiếp đáp, khinh dễ người khác. Do khinh dễ nên thường bị tổn
đức.
(4) Thân kiến: chấp thân ngũ ấm tứ
đại giả hiệp này là Ta.
(5) Biên kiến: là chấp một bên,
thiên về một bên như chấp có hay là chấp không, v.v…
(6) Kiến thủ: là bảo thủ sự thấy
biết sai lầm của mình.
(7) Giới cấm thủ: là giữ theo giới cấm
vô lý của ngoại đạo tà giáo.
(8) Ứng cúng: ruộng phước rộng
lớn, xứng đáng cho cõi Nhơn, Thiên cúng dường.
(9) Phá ác: phá tan những phiền
não hung ác, chúng không còn khuấy phá, sai sử trói buộc nữa.
(10) Vô sanh: bực không còn bị
sanh tử luân hồi nữa.
II. PHẦN VẤN ĐÁP
1) — Bực Thinh văn tu theo pháp nào?
— Bực Thinh văn tu theo pháp Tứ Diệu Đế và Bát
Chánh Đạo.
2) — Nguyên nhân nào làm cho con người phải
khổ?
— Lòng phiền não là nguyên nhân làm cho con
người phải chịu khổ mãi.
3) — Muốn hết khổ người tu hành phải làm gì?
— Muốn hết khổ phải trừ lòng phiền não, hễ
phiền não hết thì khổ liền dứt.
4) — Muốn chứng quả Thinh văn, Phật dạy tu
pháp Tứ Diệu Đế, sao còn dạy tu pháp Bát Chánh Đạo nữa?
— Bát Chánh Đạo dùng để thật hành trừ tập nhân
phiền não.
5) — Tam giới là sao?
— Tam giới là ba cõi: Dục giới, Sắc giới và Vô
sắc giới.
III. PHẦN TOÁT YẾU
Bực Thinh văn tu pháp
Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo.
Tứ Diệu Đế là bốn
Chơn lý chắc thiệt không dời đổi:
1) Khổ đế,
2) Tập đế,
3) Diệt đế,
4) Đạo đế.
Bát Chánh Đạo là tám
con đường chánh:
1) Chánh kiến,
2) Chánh tư duy,
3) Chánh ngữ,
4) Chánh nghiệp,
5) Chánh mạng,
6) Chánh tinh tấn,
7) Chánh niệm,
8) Chánh định.
Tu hai pháp này sẽ
chứng được bốn quả Thánh:
1) Tu-đà-hoàn,
2) Tư-đà-hàm,
3) A-na-hàm,
4) A-la-hán.
Trong bốn quả này,
chỉ có quả A-la-hán mới thoát ra khỏi Tam giới.
Nam
Mô A Di Đà Phật.
Kính
Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.
————————————————
BÀI 11
PHÁP MÔN TU
CHỨNG CỦA BỰC TRUNG
(DUYÊN GIÁC THỪA
)
Để tu chứng bực Duyên giác, Đức Phật dạy
tu pháp Thập Nhị Nhơn Duyên.
BẢN ĐỒ THẬP NHỊ NHƠN DUYÊN
12
NHƠN DUYÊN
liên quan đến ba đời Nhơn
Quả
|
1. Nhơn quá khứ
|
→
|
1.Vô minh
|
(Hoặc1)
|
←
|
Căn bản
Vô minh
(có Ái, Thủ, Hữu)
|
→
|
2. Hành
|
(Nghiệp)
|
←
|
|||
2. Quả hiện tại
|
→
|
3. Thức
|
(Khổ)
|
←
|
Thân hiện
tại
|
|
→
|
4. Danh sắc
|
←
|
||||
→
|
5. Lục nhập
|
←
|
||||
→
|
6. Xúc
|
←
|
||||
→
|
7. Thọ
|
←
|
||||
3. Nhơn hiện tại
|
→
|
8. Ái
|
(Hoặc)
|
←
|
Chi mạt
Vô minh
(có Vô minh, Hành)
|
|
→
|
9. Thủ
|
←
|
||||
→
|
10. Hữu
|
(Nghiệp)
|
←
|
|||
4. Quả vị lai
|
→
|
11. Sanh
|
(Khổ)
|
←
|
Thân vị
lai
|
|
→
|
12. Lão, tử
|
←
|
THẬP NHỊ NHƠN DUYÊN:
1. Vô minh:
nghĩa thông thường là không sáng, tối tăm, mờ ám, si mê. Cũng có nghĩa là Tâm
bất giác vọng động.
2. Hành: là hành
động, tạo tác sự thiện ác.
3. Thức: là Tánh
biết và phân biệt vạn vật, hay là Thần thức, Nghiệp thức.
4. Danh sắc: là
tên và hình. Danh là phần tinh thần (Tâm), Sắc là phần hình tướng (Thân).
5. Lục Nhập: là sáu chỗ vào,
chỉ sáu căn là sáu chỗ để cho sáu trần nhập vào.
6. Xúc: là tiếp
xúc.
7. Thọ: là lãnh
nạp vào lòng.
8. Ái: là ưa muốn
(lòng ái dục).
9. Thủ: là giữ
lấy.
10. Hữu: là có, tức là nghiệp mới làm cho có
thân sau.
11. Sanh: là sanh ra.
12. Lão, tử: là già, chết.
Phép Quán 12
Nhơn Duyên có 2 cách
1) Lưu chuyển quán,(4) 2) Hoàn diệt
quán(5)
1) Lưu chuyển quán: Do một niệm bất giác trong đời vô thỉ
khởi lên (Vô minh) nên mới có (Hành) tức là sự tạo tác lành, dữ
mà thành ra mới có nghiệp (Thức). Nghiệp thức này mới dẫn dắt chúng sanh
đi đầu thai, sanh lại để trả quả mới có thân tâm là (Danh sắc); hễ có
thân thì phải có sáu căn (Lục nhập). Sáu căn mới tiếp xúc (xúc)
hằng ngày với sáu trần nên thường sanh ra cảm (Thọ). Nhơn Thọ mới sanh
ra (Ái) là ưa muốn mới giữ vào lòng (Thủ) mà sanh ra nghiệp mới
nữa là (Hữu). Hễ nghiệp thức có thì làm sao tránh khỏi có thân sau (Sanh)
và thân này sẽ già chết (Lão, Tử).
2) Hoàn diệt quán:
1. — Tại sao có già, chết?
— Vì
có sanh ra.
2. — Tại sao có sanh?
— Vì
có nghiệp là Hữu.
3. — Tại sao có nghiệp?
— Vì
có Thủ là giữ sự ưa muốn vào lòng nên mới có nghiệp thức.
4. — Tại sao có Thủ?
— Vì
có Ái.
5. — Tại sao có Ái?
— Vì
có Thọ.
6. — Tại sao có Thọ?
— Vì
hằng ngày sáu căn tiếp xúc với sáu trần.
7. — Tại sao có Xúc?
— Vì
có Lục nhập là sáu căn, chỗ của Lục trần nhập vào.
8. — Tại sao có Lục nhập?
— Vì
có Thân tâm là Danh sắc.
9. — Tại sao có Danh sắc?
— Vì
có Thức (Thần thức dẫn dắt con người đi đầu thai).
10. — Tại
sao có Thức?
— Vì
có Hành là việc tạo tác.
11. — Tại
sao có Hành?
— Vì
có lòng mê muội, tối tăm, vọng động (Vô minh).
Thế thì, Vô minh là nguồn gốc của
sự Lão, tử. Nếu người tu hành diệt trừ Vô minh thì Hành
phải diệt, Hành dứt thì Thức diệt, Thức diệt thì Danh
sắc cũng diệt, v.v… cho đến khi Hữu diệt thì Sanh cũng diệt, Sanh
diệt thì Lão, tử cũng phải diệt.
Già chết đã diệt rồi thì cái máy sanh tử
phải bị tuyệt, người tu hành mới chứng đặng bực giải thoát thành Phật
Bích chi(6) hay là Độc giác.(7)
I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1) Hoặc: là mê lầm, hoặc
nghiệp là nghiệp sai lầm.
(2) Căn bản Vô minh: là Vô minh cội gốc
để sanh ra các thứ Vô minh khác.
(3) Chi mạt Vô minh: là Vô minh ngọn
ngành do Vô minh căn bản sanh ra.
(4) Lưu chuyển quán: Lưu chuyển là dời
đổi, trôi chảy. Lưu chuyển quán là quán sát trạng thái sanh khởi của 12 Nhơn
Duyên.
(5) Hoàn diệt quán: là quán sát sự tiêu
diệt của 12 Nhơn Duyên như: Vô minh diệt thì Hành diệt v.v…
(6) Bích chi Phật: là bực tu hành sanh
ra gặp Phật chỉ dạy tu pháp 12 Nhơn Duyên mà được đắc quả.
(7) Độc giác Phật: là bực tu hành sanh
ra không gặp Phật nhưng gặp pháp 12 Nhơn Duyên quán xét tự tu mà được đắc quả.
III. PHẦN VẤN ĐÁP
1) — Bực Duyên giác tu theo pháp nào?
— Bực Duyên giác tu theo pháp Thập Nhị Nhơn
Duyên.
2) — Khi tu pháp quán 12 Nhơn Duyên, cái gì là
nguồn gốc của sự sanh tử?
— Vô minh là nguồn gốc của sự sanh tử. Trừ Vô
minh thì Lão, tử hết.
3) — Có mấy cách quán Thập Nhị Nhơn Duyên?
— Có 2 cách quán: một là Lưu chuyển quán, hai
là Hoàn diệt quán.
4) — Tu pháp Thập Nhị Nhơn Duyên sẽ được chứng
quả cách nào?
— Tu pháp Thập Nhị Nhơn Duyên sẽ được chứng
quả bực Bích chi Phật hay là Độc giác Phật.
IV. PHẦN TOÁT YẾU
Muốn được chứng quả
Duyên giác Phật thì phải tu pháp Thập Nhị Nhơn Duyên. Mười Hai Nhơn Duyên là:
1. Vô minh
2. Hành
3. Thức
4. Danh sắc
5. Lục nhập
6. Xúc
7. Thọ
8. Ái
9. Thủ
10. Hữu
11. Sanh
12. Lão, tử.
Pháp quán 12 Nhơn
Duyên có hai cách, một là Lưu chuyển quán, hai là Hoàn diệt quán.
Tu theo pháp này sẽ
được chứng bực Phật Duyên giác tức Bích chi Phật hay là Độc giác Phật.
Nam
Mô A Di Đà Phật.
Kính
Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.
————————————————
BÀI 12
Đường Lối Dạy Đạo Bực Trung
của đức Giáo-chủ MINH TRÍ:
TRỪ LỤC CĂN, DIỆT LỤC TRẦN
Đức Giáo-chủ Minh Trí dạy rằng: cái kiếp
con người sanh ra chịu trăm cay ngàn đắng để trả cho rồi nghiệp chướng. Bởi con
người tạo nghiệp nên phải chịu luân hồi đời đời không biết đâu là giới hạn.
Nguyên nhân chủ yếu của sự sanh tử luân hồi ấy, chính là thân của ta gây nên
cả, vì thân của ta có sáu căn hằng ngày tiếp xúc với sáu trần làm cho ta gây ra
thất
tình(1) để khuấy rối Tâm ta không lúc nào buông tha.
Muốn tránh khỏi cái khổ sanh tử luân hồi
này, Đức Giáo-chủ Minh Trí dạy chúng ta tu pháp Trừ Lục Căn, Diệt Lục Trần,
nghĩa là ngăn cấm sáu căn không cho thâu thập sáu trần để cho Tâm ta được trong
sạch.
Sáu căn là: Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân
và Ý.
Nhãn là mắt để thấy Sắc.
Nhĩ là tai để nghe Thinh.
Tỷ là mũi để ngửi Mùi (Hương).
Thiệt là lưỡi để nếm Vị.
Thân là xác thịt để biết Xúc là sự nóng lạnh, cứng mềm, v.v…
Ý là lòng để phân biệt Pháp là những cái có thể tưởng
tượng được.
Sáu trần cũng gọi là Lục
tặc,(2) Lục kiếm,(3) Lục
thỉ.(4)
LUẬN VỀ CHỖ SÁU CĂN NHIỄM SÁU TRẦN
SẮC: là sắc thân, hình sắc, nói tóm lại
những cái hình dạng coi xinh đẹp, quí báu đều gọi là Sắc. Mắt thấy cái giả sắc
ấy cho rằng tốt đẹp, sanh lòng ham muốn làm cho Tâm ta rối loạn nên kêu là
Trần.
THINH: là tiếng, như giọng nói, lời ca
hát, tiếng đờn, tiếng quyển, tiêu tao, thanh nhã, làm cho tai nghe tới, tinh
thần phải mê mệt, làm cho Tâm ta rối loạn. Ta cứ ưa nghe nó hoài, thì cái Chơn
tâm mờ ám, ngày kia ắt sa vào Lục đạo.
HƯƠNG: là các mùi thơm tho như dầu thơm,
phấn thơm v.v… Mũi ngửi vào bắt tinh thần ưa muốn, cũng như bướm kia đói hoa,
khát nhuỵ mà phải đổ đường tìm hoa, xúi cho ta mua sắm cho thoả lòng dục vọng,
làm như vậy nên tinh thần u ám.
VỊ: là mùi ngon trong vật ăn uống. Cách
cư xử của người Đạo đức, ăn no bụng thì đủ, chẳng cầu cao lương mỹ vị. Phật nói
“Thực thiểu vô cầu,” nghĩa là “Ăn ít không tham.” Nếu ăn ngon miệng tốn kém
nhiều, phải sanh lòng tham ác.
XÚC: là đụng chạm vào xác thân và tinh
thần, xúc vào xác thân như: nóng, lạnh,
cứng, mềm, xúc vào tinh thần như: hơi thơm, thúi v.v… Vậy ăn mặc miễn phương
tiện thời đủ, cách giản tiện đó là cao thượng hơn cách xa hoa mỹ lệ.(5)
PHÁP: là cái pháp trần như những cái có
thể tưởng tượng được như tưởng đến việc công danh, phú quí và các điều lợi
mình, hại người, cũng như việc trái với đạo lý, đều hại cho tinh thần cả.
Có bài thi rằng:
Sắc
tướng đừng xem giữ tánh không,
Thinh
âm nghe đến khiến xao lòng.
Hương
nồng ngào ngạt xin đừng mến,
Vị
thắm ngọt ngon dặn chớ trông.
Xúc
cảm cao sang sanh dục vọng,
Pháp
cầu danh lợi chớ nên mong.
Sáu
điều hư, thiệt bày rành rẽ,
Giữ
đặng ngày sau thoát cõi hồng.
Nhận thấy đường lối dạy Đạo bực Trung
của Đức Giáo-chủ Minh Trí giống như của Đức Phật.
I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1) Thất tình: là bảy tình: hỉ,
nộ, ai, lạc, ái, ố, dục, nghĩa là mừng, giận, buồn, vui, thương, ghét,
muốn.
(2) Lục tặc: là sáu tên ăn cướp
chơn tánh của người.
(3) Lục kiếm: là sáu lưỡi gươm bén
để đâm mình, bằm thây mình, hễ rờ tới thì chết.
(4) Lục thỉ: là sáu mũi tên để
bắn yết hầu mình.
(5) Xa hoa mỹ lệ: xa hoa là xa xí, mỹ
lệ là đẹp đẽ. Nghĩa là sự xa xí để làm cho lộng lẫy đẹp đẽ.
II. PHẦN VẤN ĐÁP
1) — Tại sao con người phải bị cái khổ sanh tử
luân hồi?
— Con người phải bị sanh tử luân hồi vì tạo
nghiệp (dữ).
2) — Sáu căn và sáu trần là gì?
— Sáu căn là Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân và Ý.
Sáu trần là
Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc và Pháp.
3) — Trừ Lục căn, diệt Lục trần nghĩa là sao?
— Trừ Lục căn, diệt Lục trần nghĩa là không cho
Lục căn ô nhiễm thâu thập Lục trần.
4) — Tu pháp trừ Lục căn, diệt Lục trần có
được giải thoát không? Và chứng quả bực nào?
— Tu pháp này được giải thoát ra khỏi cõi hồng
trần, chứng quả bực Trung là Thinh văn và Duyên giác vậy.
III. PHẦN TOÁT YẾU
Đức Giáo-chủ Minh Trí
dạy bực Trung tu pháp trừ Lục căn, diệt Lục trần.
Lục căn là: Nhãn,
Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân và Ý.
Lục trần là: Sắc,
Thinh, Hương, Vị, Xúc và Pháp. Trừ Lục căn, diệt Lục trần là không cho sáu căn
ô nhiễm, thâu thập sáu trần để cho tâm tánh được trong sạch không còn tạo
nghiệp sanh tử nữa.
BÀI TẬP
I. Tìm câu để đối với
những câu sau đây:
1) Làm lành được lên Thiên đường.
2) Ba độc nhận người nơi biển khổ.
3) Thập thiện hưởng vui nhưng còn sanh tử.
II. Gạch dưới những
chữ quan trọng để tìm hiểu ý văn nói về Lý nào? Cõi nào? Bực nào?
Tứ đại nguyên không thiệt.
Sắc thân tức thị
không.
Nam
Mô A Di Đà Phật.
Kính
Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.
————————————————
PHẦN NGHE KINH
BỰC TRUNG
LÝ VÔ NGÃ (KHÔNG TA)
* * *
VẤN ĐÁP VỀ ĐẠO LÝ
(KHÔNG CÓ TA)
Vua Di Lan Đà lại gần Đức Na Tiên và
chào ngài. Chào xong, vua cung kính ngồi một bên. Đức Na Tiên đáp lễ làm cho
vua đẹp lòng. Đoạn vua khởi chuyện hỏi:
— Bạch Đại đức, ngài tên chi?
— Người ta gọi bần tăng là Na Tiên và
các bạn Tỳ kheo cũng kêu tôi bằng tên đó. Nhưng dầu cho cha mẹ đặt tên Na Tiên
hay tên nào khác nữa, ví như Duy Tiên, Thủ La Tiên, Duy La Tiên thì cũng chẳng
qua là những tên đặt để phân biệt từng người cho tiện mà thôi, chớ trong đó
không có ta đâu mà tìm.
— Này năm trăm quan chức với tám mươi
ngàn Tỳ kheo hãy nghe đây, hôm nay Đức Na Tiên nói với trẫm như vầy: “Không có
Ta đâu mà tìm.” Vậy trẫm có thể tin nhận lời ngài chăng? — Và vua phán hỏi Đại
đức rằng — Bạch ngài! Nếu không có Ta thì ai đem lại cúng dường cho các Sư
những vật cần ích như đồ ăn, đồ mặc, đồ ngủ, phòng xá, và thuốc men cho những
Thầy đau ốm? Ai lại thâu nhận, ăn dùng mấy món ấy? Ai bảo tồn luân lý đạo
nghĩa? Ai ngồi tham thiền? Ai hành Đạo? Ai đắc
quả? Và ai nhập Niết bàn? Ai sát
sanh, trộm cắp, tà dâm? Ai láo xược, say sưa, phạm Ngũ giới? Nếu vậy thì không
lành, không ác, không ai làm lành, cũng không ai làm ác. Những việc làm dầu
tốt, dầu xấu cũng không có quả báo gì hết? Bạch ngài! Vậy thì kẻ giết Tỳ kheo
không phải là sát nhơn và bạch các ngài! Các ngài không có ai là Thầy, không có
ai là người giảng dạy, khuyên răn, và không có ai là người tiếp truyền ngôi thứ
theo Đạo pháp. Nếu ngài nói rằng “Này Tỳ kheo các huynh! nhà vua kêu tôi là Na
Tiên” thì Na Tiên đó là gì? Bạch ngài!
Xin ngài giải cho. Hay là tóc trên đầu là Na Tiên?
— Không phải đâu bệ hạ.
— Hay là lông, móng, răng, da, thịt,
gân, xương, tuỷ, trái cật, trái tim, gan, lá lách, ruột, cái cuống để giữ lấy
ruột, đồ ăn chưa tiêu hoá, đồ ăn đã tiêu hoá thành phẩn, đàm lạnh, đàm khạc,
mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, nước trĩn hơi da, nước miếng, nước dãi, nước
trong mấy lóng xương, nước tiểu, sọ?
— Cũng không phải.
— Bây giờ hình sắc thân thể, sự nhận
biết vui buồn sướng khổ, sự tưởng phải quấy, hay thế này, thế khác, sự toan
tính hành động trong lòng, hay là cái Tâm thức có phải là Na Tiên không?
— Cũng không phải.
— Hay ngoài ra ngũ uẩn, còn có cái gì
nữa là Na Tiên chăng?
— Cũng không.
— Bạch ngài! Trẫm đã hỏi ngài tường tận
mà trẫm không thấy Na Tiên. Bây giờ thật ra Na Tiên chỉ là tiếng nói thôi. Vậy
ai là Na Tiên? Bạch ngài! Ngài nói ngài là Na Tiên, ấy là ngài nói dối, thật
không có Na Tiên.
Bấy giờ Đại đức nói với vua rằng:
— Bệ hạ là một nhà vua thanh nhã lắm.
Nếu giữa ban ngày mà bệ hạ đi trên đất nóng và đạp cát nóng, ắt chơn bệ hạ
nóng, người bệ hạ mệt, trí bệ hạ loạn và tâm ý bệ hạ lấy làm khó chịu. Mà bệ hạ
ngự đến đây bằng bộ hay bằng xe?
— Bạch ngài! Trẫm không đến bộ. Trẫm đến
bằng xe.
— Nếu bệ hạ đến bằng xe, xin cho bần
tăng biết cái xe với. Gọng có phải xe không?
— Không phải.
— Cây cốt có phải xe không?
— Không phải.
— Vành, bánh có phải xe không?
— Không phải.
— Miếng cây bọc cái cốt có phải là xe
không?
— Không phải.
— Cây cột cổ có phải là xe không?
— Không phải.
— Cái ách có phải là xe không?
— Không phải.
— Chỗ gác chơn có phải là xe không?
— Không phải.
— Mui có phải là xe không?
— Không phải.
— Những món ấy hiệp
lại và đóng chung với nhau có phải là xe không?
— Không phải.
Na Tiên lại hỏi:
— Giả như không hiệp mấy món ấy lại thì có món chi là xe không?
— Không.
— Tiếng khua động có phải là xe không?
— Không.
— Vậy chớ cái xe là cái gì?
Vua lặng thinh không trả lời.
Na Tiên nói:
— Trong kinh Phật có giảng như vầy:
“Cũng như hiệp các món kia lại đặng làm thành một cái mà người ta tạm gọi là
xe. Cũng như thế, sự hiệp lại của tất cả đầu, mặt, mắt, tai, mũi, miệng, cổ,
ót, vai, cánh tay v.v… mà người ta muốn phân biệt cho tiện nên tạm kêu là người
đó thôi. Mà thật ra thì không có người.” Bà Tăng ni Hoa Si Rá có bạch trước mặt
Đức Phật rằng: “Cái xe có nghĩa là nhiều món hiệp lại mà vẽ thành một vật
chung, cũng như nhiều món cơ thể hiệp lại, vẽ thành một vật mà người ta gọi là
chúng sanh.”
Vua phán:
— Hay lắm, hay lắm! Chớ chi Đức Phật còn
tại thế thì Đức Phật sẽ khen tặng ngài lắm.
————————————————
PHẦN ÔN BÀI BỰC
TRUNG
1 —
Phần giáo lý của Đức Phật dạy bực
Trung ra sao?
—
Cõi Nhơn–Thiên còn bị kẹt trong sự sanh
tử Phần đoạn vì còn Ngã chấp và Pháp chấp, cho nên Đức Phật dạy hàng Thinh văn
và Duyên giác phá cái Ngã chấp chớ chưa phá được Pháp chấp để ra khỏi sự sanh
tử Phần đoạn. Chứng đặng Niết-bàn Tịch diệt tức là Tâm-không, được giải thoát
tương đối, nhưng còn bị kẹt trong sự sanh tử Biến dịch vì còn Pháp chấp.
Trí
Huệ này gọi là Sanh không Chơn-như hay là Nhơn không Bát-nhã. Nhận thấy cõi
Nhơn–Thiên còn chấp có, hàng Nhị thừa thì chấp không, mà cái có đối đãi với cái
không. Cho nên chơn lý này gọi là Chơn lý Sắc Không tương đối của Tiểu thừa.
2 — Hàng Nhị thừa phá được gì, và ra khỏi sự
sanh tử nào?
— Hàng Nhị thừa phá được Ngã chấp và ra khỏi sự
sanh tử Phần đoạn, chưa phá được Pháp chấp nên còn bị kẹt trong sự sanh tử Biến
dịch.
3 — Niết-bàn Tịch diệt, Sanh không Chơn-như và
Nhơn không Bát-nhã nghĩa là gì?
— Niết-bàn Tịch diệt là Niết-bàn vắng lặng, dứt
mất. Sanh không Chơn-như là chúng sanh vốn là không, chẳng thiệt có, cũng gọi
là Ngã không hay là Nhơn không. Nhơn không Bát-nhã nghĩa là người cũng vốn là
không.
4 — Tương đối nghĩa là gì? Đức Phật dạy Chơn
lý Sắc Không tương đối cho bực nào?
— Tương đối nghĩa là hai pháp còn đối đãi với
nhau (chưa được hoàn toàn), nghĩa của nó tương phản nhau. Đức Phật dạy Chơn lý
Sắc Không tương đối cho bực Tiểu thừa.
5 — Khổ Đế, Tập Đế, Nhơn quả nhập thế nghĩa là
gì?
— Khổ Đế chỉ sự đau khổ của chúng sanh, Tập Đế
chỉ sự nhóm họp của phiền não trong lòng chúng sanh, làm cho chúng sanh phải
khổ. Nhơn quả nhập thế là chỉ nhơn quả còn trong vòng sanh tử luân hồi.
6 — Diệt đế, Đạo đế, Nhơn quả xuất thế nghĩa
là gì?
— Diệt đế là diệt trừ sự phiền não. Đạo đế là
chỗ chứng quả chỉ Niết-bàn. Nhơn quả xuất thế là chỉ cái nhơn quả tu hành ra
khỏi sự sanh tử luân hồi.
7 —
Phiền não chỉ cái gì? Phiền não nghĩa
là gì? Tại sao phải trừ phiền não? Và khi trừ được phiền não thì chứng đặng gì?
— Phiền não chỉ lòng mừng, giận, buồn, vui,
thương, ghét, muốn. Phiền là buồn phiền, não là não hại. Phiền não là lòng buồn
phiền não hại làm cho chúng sanh mãi bị nhận chìm trong sự sanh tử luân hồi. Sở
dĩ phải trừ phiền não là vì trừ được phiền não mới dứt được quả khổ và khi trừ
được phiền não thì chứng được Niết-bàn Tịch diệt tức cái Tâm-không.
8 — Tại sao gọi là Tâm không? Tâm không nghĩa
là gì?
— Sở dĩ gọi là Tâm không vì cái không này còn
trong vòng tương đối. Tâm không nghĩa là cái Tâm trống không, trống rỗng
không có gì hết.
9 — Bát Chánh Đạo là gì?
—
Bát Chánh Đạo là tám con đường chánh:
1. Chánh kiến 2. Chánh tư duy
3. Chánh ngữ 4. Chánh nghiệp
5. Chánh mạng 6. Chánh tinh tấn
7. Chánh niệm 8. Chánh định.
10 — Tam
giới là gì? Kiến hoặc và Tư hoặc nghĩa là gì?
— Tam
giới là ba cõi: Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Kiến hoặc là sự thấy mê lầm.
Tư hoặc là sự suy nghĩ mê lầm.
11 — Bực
nào trừ được Kiến hoặc trong Tam giới?
— Bực
Tu-đà-hoàn trừ được Kiến hoặc trong Tam giới.
12 — Bực
nào trừ được Kiến hoặc trong Tam giới và một phần Tư hoặc ở cõi Dục giới?
— Bực
Tư-đà-hàm trừ được Kiến hoặc trong Tam giới và một phần Tư hoặc cõi Dục giới.
13 — Bực
nào trừ được Kiến hoặc trong Tam giới và Tư hoặc trong cõi Dục giới?
— Bực
A-na-hàm trừ được Kiến hoặc trong Tam giới và Tư hoặc trong cõi Dục giới.
14 — Bực
nào trừ được Kiến hoặc và Tư hoặc trong Tam giới?
— Bực
A-la-hán trừ được Kiến hoặc và Tư hoặc trong Tam giới.
15 — Thập
Nhị Nhơn Duyên nghĩa là gì?
— Thập
Nhị Nhơn Duyên là 12 Nhơn Duyên, dùng pháp 12 Nhơn Duyên để tu hành chứng quả
Phật Duyên giác.
Thập Nhị Nhơn duyên gồm có:
* Vô Minh: là Tâm vọng động.
* Hành: là hành động, tạo
tác.
* Thức: là Thần thức hay Tâm
thức.
* Danh sắc: là Thân và
Tâm.
* Lục nhập: là sáu căn.
* Xúc: là sự tiếp xúc.
* Thọ: là lãnh nạp vào lòng.
* Ái: là ưa thích (lòng ái
dục)
* Thủ: là giữ lấy.
* Hữu: là có, nghiệp mới tạo
ra.
* Sanh: là sanh ra.
* Lão, tử: là già, chết.
16 — Nguồn
gốc của các sự khổ là gì? Của Lão, tử là gì?
— Nguồn
gốc của sự khổ là phiền não. Của Lão, tử là Vô minh.
17 — Quán
12 Nhơn Duyên có mấy cách?
— Quán
12 Nhơn Duyên có hai cách: một là Lưu chuyển quán, hai là Hoàn diệt quán.
18 — Lưu
chuyển quán, Hoàn diệt quán, căn bản Vô minh, chi mạt Vô minh, Bích chi Phật,
Độc giác Phật nghĩa là gì?
— Lưu
chuyển quán là quán xét sự sanh khởi liên tiếp của 12 Nhơn duyên. Hoàn
diệt quán là quán xét chỗ tiêu diệt của 12 Nhơn Duyên. Căn bản Vô
minh là vô minh cội rễ. Chi mạt Vô minh là vô minh ngọn
ngành. Bích chi Phật là người sanh ra gặp Phật ra đời dạy Đạo và
gặp pháp 12 Nhơn Duyên tu thành bực Duyên giác. Độc giác Phật là
người sanh ra không gặp Phật nhưng gặp pháp 12 Nhơn Duyên tu đắc pháp thành
Phật Duyên giác.
19 — Đức
Giáo-chủ Minh Trí dạy bực Trung tu pháp nào?
— Đức
Giáo-chủ Minh Trí dạy bực Trung tu pháp trừ Lục căn, diệt Lục trần, nghĩa là
không cho sáu căn ô nhiễm sáu trần.
20 — Lục
căn và Lục trần là gì?
— Lục
căn là sáu căn, gồm có Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý. Lục trần là sáu trần, gồm
có: Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp.
————————————————
BÀI 13
BỒ TÁT THỪA BỰC
THƯỢNG
A. PHẦN GIÁO LÝ
Hàng Thinh văn, Duyên giác còn bị kẹt
trong sự sanh tử Biến dịch vì còn Pháp chấp. Cho nên, muốn tu tiến lên bực
Bồ-tát, Đức Phật dạy hàng Nhị thừa phá thêm pháp chấp, ra khỏi sự sanh tử Phần
đoạn và Biến dịch, chứng đặng Niết-bàn Tịch chiếu(1)
tức là Tâm Chơn không,(2) được hoàn toàn giải thoát. Trí
huệ này gọi là Pháp không Chơn-như.(3)
Nhưng cái Tâm Chơn không này rất khó
biết, khó hiểu, khó tỏ ngộ, dù đã trải qua nhiều kiếp tu hành (Bá thiên vạn
kiếp nan tao ngộ). Vì lẽ đó, Đức Phật phải dùng phương tiện dẫn dắt lần lần từ
thấp lên cao, như chúng ta leo thang vậy. Phật áp dụng phương pháp dạy Đạo “Lập
rồi phá,” nghĩa là dạy rồi phá bỏ để tiến lên.
1. Chơn lý Sắc Không tương đối của Tiểu
thừa:
Như chúng ta đã biết, trước tiên Đức
Phật dạy hàng Tiểu thừa Chơn lý Sắc Không tương đối, nhưng cõi Nhơn–Thiên lại
chấp có, còn hàng Thinh văn, Duyên giác lại chấp không.
2. Chơn lý huyễn Sắc, huyễn Không của
bực Sai biệt trí Bồ-tát:
Muốn tiến lên bực Sai biệt trí Bồ-tát,
Đức Phật dạy phá cái chấp có của cõi Nhơn–Thiên và cái chấp không của hàng Nhị
thừa bằng cách dạy Chơn lý huyễn Sắc, huyễn Không, nghĩa là cái có và cái không
đều là như huyễn, là hư vọng, không phải là chơn thiệt.
3. Chơn lý Vô trụ của Bồ-tát:
Khi bực Sai biệt trí Bồ-tát biết Sắc,
Không như huyễn thì Đức Phật dạy tiếp theo đừng trụ Sắc, đừng trụ Không vì Sắc
và Không là hư vọng, đâu phải chơn thiệt. Nếu còn trụ Sắc như cõi Nhơn–Thiên
thì bị cái hại là kẹt trong sự sanh tử Phần đoạn mà chịu khổ, còn nếu trụ Không
như hàng Nhị thừa lại bị kẹt trong sự sanh tử Biến dịch. Bực Sai biệt trí
Bồ-tát nhờ không trụ Sắc và Không nên mới tiến lên bực Bồ-tát được.
4. Chơn lý Sắc Không viên dung bình đẳng
của hàng Đại Bồ-tát:
Hàng Bồ-tát, tuy ngộ được Sắc và Không
là hư vọng, như huyễn, như hoá nên không trụ Sắc và Không, nhưng chưa biết đặng
cái Bản Thể Chơn Không Diệu Hữu, nguồn gốc sanh ra hai pháp tương đối Sắc với
Không ấy. Nên Đức Phật bèn dạy hàng Bồ-tát tu tiến lên bực Đại Bồ-tát để tỏ ngộ
Tâm Chơn không bằng cái Chơn lý Viên dung Bình đẳng.
Viên là
tròn đầy, khắp (chỉ bản thể của Vũ trụ vạn hữu). Dung là dung nạp, ngậm chứa lẫn nhau. Bình là bằng. Đẳng
là bực.
Viên dung Bình đẳng là nói cái Sắc tức cái Không, cái Không tức cái Sắc, cái Sắc
chẳng khác cái Không, cái Không chẳng khác cái Sắc. Cái Sắc chứa đựng cái
Không, cái Không (Chơn không diệu hữu) sanh ra cái Sắc. Cái Sắc và cái Không tuy
bề ngoài là hai tướng đối đãi khác nhau, bên trong lại đồng nhau một bản thể
tức là Chơn không. Thể này tròn khắp, bao trùm vạn vật, vũ trụ, như nhau, bằng
nhau, có đủ Thể, Dụng, Tướng, Tánh như như bình đẳng, chẳng một, chẳng hai,
chẳng sai, chẳng khác.
Thể: là
sự không hình tướng, không sanh diệt, gọi là Tịch.
Tánh:
vắng lặng, sáng suốt, tròn soi khắp pháp giới, gọi là Chiếu.
Dụng: là
chỉ cái diệu dụng của Tánh ấy luôn luôn giải thoát.
Tướng: là
trong sự ứng dụng thì sanh ra sự vật có hình tướng, màu sắc. Hình tướng này hư
hoại, không còn hoài.
Tuy là một Tâm mà có bốn phần khác nhau,
nên nói một tức là bốn.
Tuy là bốn phần riêng biệt nhau nhưng
không thể rời nhau, nên nói bốn tức là một.
I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1) Niết-bàn Tịch chiếu: Tịch là vắng
lặng, chiếu là soi, sáng. Niết-bàn Tịch chiếu là chỉ Tâm lặng và sáng,
Niết-bàn tu chứng bực Đại thừa.
(2) Chơn không: Chơn là
thiệt, không giả dối, hư vọng, không biến đổi. Chơn không là cái-Không-chơn-thiệt, tức là lìa hai tướng
đối đãi.
(3) Pháp không Chơn-như: Các pháp đều là hư
vọng, không có một pháp nào là chơn thiệt nên gọi là Pháp không. Nhưng tự tánh
của các pháp vốn vắng lặng, vốn hằng-không, nên gọi là Pháp không Chơn-như.
II. PHẦN VẤN ĐÁP
1) — Muốn đặng hoàn toàn giải thoát phải phá
những gì?
— Muốn đặng hoàn toàn giải thoát phải trừ Ngã
chấp và Pháp chấp.
2) — Niết-bàn tu chứng của bực Phật và Bồ-tát
gọi là gì? Của bực Thinh văn, Duyên giác gọi là gì?
— Niết-bàn tu chứng của bực Bồ-tát và Phật gọi
là Niết-bàn Tịch chiếu. Niết-bàn tu chứng của
hàng Thinh văn, Duyên giác gọi là Niết-bàn Tịch diệt.
3) — Trí
huệ tu chứng của hàng Bồ-tát gọi là gì? của hàng Nhị thừa gọi là gì?
— Trí huệ tu chứng của hàng Bồ-tát gọi là Pháp
không Chơn-như, của hàng Nhị thừa gọi là Sanh không Chơn-như hay là Nhơn không
Bát-nhã.
4) — Sao gọi là Tâm Chơn không?
— Tâm Chơn không là Tâm không mà có, Thể tánh
của nó xa lìa hai pháp đối đãi. Cái Không này là cái-Không-chơn-thiệt, chớ
chẳng phải cái không đối đãi của Tiểu thừa nên gọi là Chơn không, Chơn-như.
5) — Cái Tâm Chơn không khó tỏ ngộ được. Vậy
Đức Phật làm cách nào để dạy chúng sanh đặng tỏ ngộ cái Tâm ấy được?
— Phật phải dùng pháp phương tiện dẫn dắt lần
lần từ thấp lên cao như dạy chúng ta leo thang từ nấc vậy.
6) — Đại ngộ nghĩa là sao? Tiểu ngộ nghĩa là sao?
— Đại ngộ là sự tỏ ngộ lớn, thấu biết đặng cái
Tâm Chơn không Diệu hữu bao trùm vũ trụ vạn hữu tức là cái nguyên lý tuyệt đối,
nguồn gốc sanh ra muôn loài vạn vật.
Còn bực Tiểu
ngộ là sự ngộ nhỏ của bực Tiểu thánh, chưa được hoàn toàn rốt ráo như bực Đại
thánh, chỉ mới biết cái Tâm hẹp nhỏ ở nơi thân mình chớ chưa biết đặng cái Tâm
rộng lớn của minh, ví như mới nhận bọt nước là mình, chớ chưa dám nhận biển
nước là mình, biết đặng chỗ ngoan không tịch diệt chớ chưa biết đặng chỗ Chơn
không Tịch chiếu, ...
III. PHẦN TOÁT YẾU
Muốn đặng hoàn toàn
giải thoát, Đức Phật dạy các hàng Bồ-tát phá Ngã chấp và Pháp chấp, chứng đặng
Niết-bàn Tịch chiếu (Tâm Chơn không). Trí huệ này gọi là Pháp không Chơn-như.
Tâm Chơn không khó tỏ
ngộ, nên Phật phương tiện dạy lần lần từ thấp lên cao, như người leo thang, nhờ
những nấc dưới mà trèo lên được nấc tột bực cao.
Như sơ khởi chúng ta
thấy Phật dạy lý tương đối, rồi lên lý như huyễn, vô trụ, sau cùng mới dạy lý
Viên dung bình đẳng. Nhờ lý này mới biết đặng Thể tánh Chơn không Diệu hữu của
Bổn tâm.
BÀI TẬP
1) Vẽ hai cái hình
chỉ lý tương đối.
2) Vẽ hai cái hình:
a) một cái chỉ chỗ ngộ của bực Tiểu
thừa.
b) một cái chỉ chỗ ngộ của bực Đại
thừa.
3) Vẽ một cái hình để
chỉ lý Như huyễn.
Nam
Mô A Di Đà Phật.
Kính
Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.
————————————————
BÀI 14
PHÁP MÔN TU
CHỨNG của BỰC THƯỢNG
Muốn tu chứng bực Bồ-tát, Đức Phật dạy
tu pháp Lục độ ba-la-mật.
Lục là sáu, độ là đò, ba-la-mật là đáo bỉ ngạn, tức
là đến bờ bên kia, bờ giác của chư Phật (chỉ Tâm Chơn không).
Tu pháp Lục độ ba-la-mật để dứt trừ Lục
tệ(1) là:
1. Tham lam
2. Sái quấy
3. Sân hận
4. Giải đãi
5. Tán loạn
6. Si mê.
Sáu cái tệ này trừ sạch thì chúng ta mới
qua đến bờ bên kia.
1. Bố thí ba-la-mật: là bố thí cái lòng tham lam của mình
cho thiệt hết mới đến đặng bờ giác của Phật. Muốn Bố thí ba-la-mật thì dù làm
việc tài thí, pháp thí, thân thí hay vô uý thí,(2) chúng ta
chẳng nên trụ tướng mới đúng với lời dạy của Phật trong kinh Kim Cang là:
“Bồ-tát ư pháp ưng vô sở trụ hành ư bố thí.” Tổ sư Trần Hùng nói: “Như Lai
thuyết đệ nhứt ba-la-mật là bố thí bất trụ tướng thì liền tỏ thấu chỗ
không-tướng của bổn tâm Chơn không thẳng đến bờ giác thành Phật.”
2. Trì giới ba-la-mật: là giữ giới cấm để cho Tâm hết lỗi lầm,
thẳng đến bờ giác của Phật. Trì giới đặng dứt lòng ô nhiễm, sái quấy của chúng
sanh cho sạch đến khi Tâm không còn sái quấy nữa, dù là việc dữ nhỏ cũng hết
mới gọi là đáo bỉ ngạn.
3. Nhẫn nhục ba-la-mật: là nhịn nhục đến bờ bên kia với mục
đích trừ sạch lòng sân hận nơi lòng. Nếu bề ngoài chúng ta nhịn được mà trong
lòng còn ấm ức, buồn rầu thì cũng chưa gọi là ba-la-mật được. Thế thì, sự tu
hạnh Nhẫn nhục của Bồ-tát đi đến chỗ Tâm Vô sanh, nghĩa là Tâm không còn khởi
móng sự giận hờn mảy may gì hết, dù ở trong nghịch cảnh, mới gọi là ba-la-mật.
4. Tinh tấn ba-la-mật: là tu tiến tới mãi không ngừng, không
gián đoạn mới gọi là ba-la-mật.
5. Thiền định ba-la-mật: là lẳng lặng, gẫm xét, để cho Tâm mình
được an tịnh thì trí huệ mới khai mở. Trong Pháp Bảo Đàn kinh, Đức Lục Tổ có
nói: “Ngoài Thiền, trong Định là ngoài ở nơi tướng mà lìa tướng, trong ở nơi
không mà lìa không.” Ngoài ở nơi tướng mà lìa tướng thì Tâm mới hết ô nhiệm các
tướng, còn trong ở nơi không mà lìa không thì cái Tâm Chơn không mới phát hiện.
Thiền định cốt để trừ lòng tán loạn cho hết mới gọi là ba-la-mật.
6. Trí huệ ba-la-mật: là trí huệ sáng suốt dùng để trừ si mê
mới chứng quả Bồ đề. Lòng si mê tuy rộng lớn nhưng không ngoài ngã chấp và pháp
chấp.
– Trí: là đối với các tướng hữu
vi Tâm ta thông suốt hiểu biết nên không mê nhiễm tham đắm nữa.
– Huệ: là thấu biết được chỗ
Không Tịch diệt và Tịch chiếu của Bổn tâm (Nhị thừa và Đại thừa) mới gọi là
Huệ.
I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1) Lục tệ: là sáu cái tệ hại.
Tu pháp Lục độ chính là pháp đối trị của Lục tệ.
(2) Vô uý thí: là Bố thí cái lòng
không sợ. Ví dụ như không sợ chết, không sợ khổ, v.v…
II. PHẦN VẤN ĐÁP
1) — Bồ-tát tu pháp Lục độ ba-la-mật để
làm gì?
— Bồ-tát tu pháp Lục độ ba-la-mật để dứt trừ
Lục tệ.
2) — Lục độ ba-la-mật và Lục tệ gồm có những
gì?
— Lục độ ba-la-mật gồm có:
1. Bố thí
ba-la-mật, 2. Trì giới ba-la-mật, 3. Nhẫn nhục ba-la-mật, 4. Tinh tấn
ba-la-mật, 5. Thiền định ba-la-mật, 6. Trí huệ ba-la-mật.
Lục tệ gồm
có:
1. Tham lam,
2. Sái quấy, 3. Sân hận, 4. Giãi đãi, 5. Tán loạn, 6. Si mê.
3) — Tu pháp Lục độ với pháp Lục độ ba-la-mật
khác nhau ra sao?
— Nếu tu pháp Lục độ không có ba-la-mật thì
không thể nào đến bờ Giác của Phật đặng, nghĩa là không được hoàn toàn giải
thoát vì tu pháp Lục độ là Bố thí mà còn trụ tướng, còn tu pháp Lục độ
ba-la-mật tức là Bố thí bất trụ tướng mới được hoàn toàn giải thoát.
4) — Tại sao cần phải có Trí huệ ba-la-mật?
— Trí huệ ba-la-mật là Trí huệ Xuất thế nên
cần phải có Trí huệ ấy để diệt trừ tận gốc Tâm si mê, mới chứng được quả Bồ-đề.
III. PHẦN TOÁT YẾU
Đức Phật dạy các hàng
Bồ-tát tu pháp Lục độ ba-la-mật để trừ Lục tệ cho sạch mới thẳng đến bờ Giác
của Phật.
Lục độ ba-la-mật gồm
có:
1. Bố thí ba-la-mật 2. Trì giới ba-la-mật
3. Nhẫn nhục
ba-la-mật 4. Tinh tấn ba-la-mật
5. Thiền định
ba-la-mật 6. Trí huệ ba-la-mật.
Lục tệ gồm có:
1. Tham lam 2. Sái quấy
3. Sân hận 4. Giãi đãi
5. Tán loạn 6. Si mê.
Tu pháp Lục độ
ba-la-mật mới chứng đặng Trí huệ xuất thế, dùng để phá tận gốc Tâm si mê (Ngã
chấp và Pháp chấp), mới được hoàn toàn giải thoát.
Nam
Mô A Di Đà Phật.
Kính
Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.
————————————————
BÀI 15
ĐƯỜNG LỐI DẠY ĐẠO BỰC THƯỢNG
của Đức Giáo-chủ MINH TRÍ:
“ PHƯỚC HUỆ SONG
TU ”
Đức Giáo-chủ Minh Trí dạy bực Thượng
“Phước Huệ Song Tu,” tức là Lục độ ba-la-mật vì tu Phước là Bố thí ba-la-mật,
còn tu Huệ là Trí huệ ba-la-mật.
“Phước Huệ Song Tu” là đường lối dạy Đạo
của Tam thế Phật.(1)
Kinh Phật có câu: “Tài Pháp nhị thí thỉ
thành công, Phước Huệ lưỡng toàn phương tác Phật,” nghĩa là: Thí Tài, thí Pháp
thì chắc chắn thành công, còn Phước Huệ song toàn là phương châm làm Phật.
— Tôn chỉ (2)
của Phật là Từ bi, Bác ái, Tự giác, Giác tha, sao Tịnh Độ Cư Sĩ Phật Hội Việt
Nam lấy “Phước Huệ Song Tu” làm tôn chỉ?
— Xin thưa! Từ bi, Bác ái, Tự giác, Giác
tha là nói theo văn tự, còn phần thực hành tu chứng là “Phước Huệ Song Tu” vậy.
Vì lẽ nếu không tu Phước làm sao cứu khổ ban vui cho chúng sanh, không lẽ chúng
ta chỉ nói từ bi, bác ai bằng những lời nói suông mãi?
Còn Tự giác, Giác tha chẳng phải mình
đặng Giác ngộ, hiểu biết Chơn lý của vũ trụ vạn hữu, rồi người khác cũng tự
nhiên hiểu biết được như mình? Nên chi mình phải bền chí, tuỳ cơ phương tiện
thuyết pháp, giảng kinh, khai thông mở lý thì người khác mới được tỏ ngộ. Đó là
thực hành về phần Giác tha.
VẤN ĐÁP VỀ PHƯỚC HUỆ SONG TU
1) — Tu Phước để làm
gì?
— Tu Phước để trừ sự
làm ác, để hoàn nguyên bổn tánh Thiện của mình.
Tu Phước để xây
nền tảng Âm chất.
Tu Phước để kiến
tạo hạ tầng cơ sở và lầu đài Định Huệ.
Tu Phước để trở
về cái dụng tướng Bồ-đề của bổn
tâm Chơn-như (Chơn-như dụng(3)).
2) — Phước là gì?
— Phước là cái kết quả của sự hành Thiện.
3) — Tu Phước có thể sanh Trí huệ được chăng?
— Âm chất (phước đức) dẫn thông minh lộ.
4) — Tu Phước có thể
thành Phước đức tánh không?
— Phước hữu lậu mà không chấp là phước vô lậu và
sẽ chuyển thành phước đức tánh.
5) — Bố thí như thế
nào mà phước đức không thể nghĩ lường?
— Bố thí bất trụ tướng thì phước đức không thể
nghĩ lường.
6) — Tu Huệ để làm gì?
— Tu Huệ để phá trừ Tâm si mê.
Để chuyển Thức(4)
thành Trí.(5)
Để chuyển phước
hữu lậu thành phước vô lậu.
7) — Tu Huệ để phá cái gì?
— Tu Huệ để phá ngã chấp và pháp chấp.
a) Sanh
không huệ để phá ngã chấp trừ phiền não, chứng được bực Trung. b)
Pháp không huệ để phá pháp chấp, trừ sở tri chướng,(6)
chứng bực Bồ-tát. c) Chơn-như huệ là Trí huệ Thiệt tướng(7)
gồm có chỗ Viên dung Bình đẳng và cứu cánh(8) bặt đường
ngôn ngữ, dứt chỗ nghĩ lường chứng đặng quả vị Phật.
8) — Huệ là gì?
— Huệ là cái kết quả hiểu biết phân minh sáng
suốt.
9) — Huệ có mấy thứ?
— Huệ có ba thứ: Văn huệ, Tư huệ và Tu huệ.
Văn huệ:
nhờ xem kinh nghe pháp mà đặng hiểu biết sáng suốt.
Tư huệ:
nhờ suy nghĩ, tự tìm hiểu mà được sáng suốt.
Tu huệ:
là trau giồi tu tập, dứt trừ lòng phiền não mà được sáng suốt.
10) — Huệ có mấy thứ để đối trị?
— Huệ có bốn thứ để đối trị: Huệ Chiếu phá, Huệ
Sanh không, Huệ Pháp không và Huệ Chơn-như.
1. Huệ
Chiếu phá: để đối trị hoàn cảnh gia đình hay là thói xấu tật hư của nội
tâm.
2. Huệ Sanh
không: để đối trị Ngã chấp trừ diệt phiền não chướng.
3. Huệ Pháp
không: để đối trị Pháp chấp như quyền tước, công danh, phú quí v.v… hay
còn chấp có tu, có chứng, có đắc, để trừ Sở tri chướng.
4. Huệ
Chơn-như: Ngã Pháp đều không gọi là Nhị không Chơn-như, gồm có Viên
dung bình đẳng và Như như. Bặt đường ngôn ngữ, dứt chỗ nghĩ lường tức là Phật.
11) — Tu Huệ còn để làm gì nữa?
— Tu Huệ để diệt trừ Vô minh, như:
Có mặt nhựt mới
trừ đặng bóng đêm.
Có ngọn đèn mới
trừ đặng căn nhà tối.
Có trí huệ mới
phá đặng cái ngu muôn thuở.
Có trí huệ mới dứt hết mê lầm.
Có trí huệ mới
không còn làm ác.
Có trí huệ mới
dứt được lòng tham, sân và si.
Có trí huệ ba
nghiệp mới đặng thanh tịnh.
Có trí huệ mới
mong thấy tánh.
Có trí huệ mới
biết bỏ Vọng hoàn Chơn.
Có trí huệ mới rõ
được Thiệt tướng.
Có trí huệ mới tu
đến đắc đạo Vô thượng Bồ-đề.
12) — Tại sao phải tu Phước và tu Huệ song song
nhau?
— Muốn cất nhà phải đắp nền, có nền mà không cất
nhà cũng không làm gì được. Còn cất nhà mà không đắp nền thì nhà ấy sẽ bị sụp
đổ, ở cũng không được.
Nền để ví với môn
tu Phước (nền Âm chất) nhà để ví với môn tu Huệ.
Tu Phước mà không
tu Huệ thì chỉ hưởng Phước nơi cõi Nhơn–Thiên chớ không tránh được sự sanh tử
Phần đoạn. Tu Huệ mà không tu Phước thì chỉ chứng quả của bực Nhị thừa, vẫn còn
bị kẹt trong sự sanh tử Biến dịch.
Chỉ
có Phước Huệ Song Tu mới ra khỏi hai sự sanh tử ấy, được hoàn toàn giải thoát,
chứng quả vị Bồ-đề (xin xem thêm quyển Phước Huệ Song Tu của Giáo Hội).
Nhận
thấy đường lối dạy Đạo bực Thượng của Đức Giáo-chủ cũng đồng như của Đức Phật.
I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1) Tam thế Phật: là Phật trong ba
đời quá khứ, hiện tại và vị lai.
(2) Tôn chỉ: Chỗ nhắm làm mục
đích trong việc gì. Tôn chỉ Phước Huệ Song Tu là cái mục tiêu phương tiện đem
ra thực hành để đạt cho được cái mục đích giải thoát của Giáo Hội chủ trương.
(3) Dụng tướng Bồ-đề hay là Chơn-như
dụng: Bồ-đề là Giác. Dụng tướng Bồ-đề là cái dụng tướng sáng suốt, giác
ngộ, giải thoát, cũng gọi là Chơn-như dụng, là cái dụng tướng giải thoát của
Tâm Chơn-như.
(4) Thức: là tánh hiểu biết,
phân biệt còn trong vòng mê tối của chúng sanh.
(5) Trí: là sự hiểu biết sáng
suốt, trong sạch, giải thoát của bực Thánh.
(6) Sở tri chướng: cũng gọi là Trí
chướng. Sở tri là cảnh tượng, nghĩa là Tâm không thông suốt được cảnh tượng nên
bị cảnh tượng làm trở ngại, ngăn cách.
II. PHẦN VẤN ĐÁP
1) — Phước Huệ Song Tu và Lục độ ba-la-mật có
khác nhau không?
— Không khác, vì môn tu Phước là đò thứ nhứt Bố
thí ba-la-mật, còn môn tu Huệ là đò chót Trí huệ ba-la-mật trong Lục độ, ghép
hai đò ấy lại làm Tôn chỉ để gọi giản tiện vắn tắt Lục độ ba-la-mật đó thôi.
2) — Tôn chỉ của Phật là Từ bi, Bác ái, Tự
giác, Giác tha, sao Đức Giáo-chủ Minh Trí lại lấy Phước Huệ Song Tu làm Tôn
chỉ, thế thì khác với Đức Phật sao?
— Xin thưa, không khác. Như trên đã giải
thích, Đức Phật dùng Lục độ ba-la-mật để thật hành Tôn chỉ Từ bi, Bác ái, còn
Đức Giáo-chủ dùng Phước Huệ Song Tu để thật hành cầu chứng quả Bồ-đề, mà Phước
Huệ Song Tu là Lục độ ba-la-mật thì làm sao gọi là khác được?
3) — Tu Phước để làm gì? Tu Huệ để làm gì?
— Tu Phước để phá các ác, bồi đắp cái nền nhà
(nền Âm chất cho chắc chắn). Tu Huệ để trừ lòng si mê, nguồn gốc của sự tạo
tác, để cho bổn tánh dứt vọng niệm trở về chỗ sáng suốt cội gốc của bổn tâm
mình. Đó là cất cái lầu đài Trí huệ tốt đẹp trên cái nền Âm chất.
4) — Tại sao phải tu hai môn một lượt?
— Không thể nào đắp cái nền mà không cất nhà
được, và trái lại cất nhà mà không đắp nền. Phải đắp nền và cất nhà luôn mới
được sự lợi ích hoàn toàn. Cũng như thế, phải tu Phước và tu Huệ song song mới
được giải thoát.
III. PHẦN TOÁT YẾU
Đức Giáo-chủ Minh Trí
dạy bực Thượng tu pháp “Phước Huệ Song Tu” là tu Phước và tu Huệ song song với
nhau.
Tu Phước mới dứt được
các điều ác để trở về gốc tánh Thiện của mình, còn tu Huệ để trừ lòng tối tăm
mê muội cho tâm tánh mình đặng sáng suốt.
Có đủ Phước, đủ Huệ
mới là con đường làm đặng Phật.
BÀI TẬP
(Rút
trong kinh Kim Cang Chư Gia)
Gạch dưới những chữ
quan trọng để rõ biết nói về Lý nào? Bực nào?
Bài 1: Để mắt Đông Nam.
Lưu
tâm Tây Bắc.
Sẽ nói
Khỉ đen,
Lại
cùng Vượn bạch.
Cả
thảy chúng sanh, cả thảy Tâm,
Thường
đeo đuổi mãi điều Thinh Sắc.
Bài 2: Cả thảy cái
có đều như chiêm bao, huyễn hoặc,
Cả
thảy cái không đều là giặc ma.
Bài 3: Phải biết các pháp
như chiêm bao, như huyễn hoặc, như tiếng dội, như trăng dưới nước, như bóng
trong gương.
Bài 4: Kẻ phàm phu bố thí
vọng cầu phước lợi như tên bắn giữa hư
không, mãn trớn liền rớt trở lại...
Bài 5: Bố thí mà chẳng
thấy có người bố thí, chẳng thấy có vật để bố thí, chẳng thấy có người thọ thí
mới gọi là Đại thí.
Bài 6: Kẻ phàm phu Bố thí
thì dùng bảy báu đầy cả Tam thiên thế giới đặng cầu Phước. Bực Thánh nhơn lại
Bố thí bảy báu trong Tâm, chẳng cầu Phước điền mà đặng Phước rộng lớn chẳng thể
so lường được.
Bài 7: Bực trí lớn lại
thấy Sắc tức Không, Không tức Sắc, Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc, chớ
chẳng phải chỉ biết cái Sắc không phải là cái Không, cái Không không phải là
cái Sắc, cái Sắc khác với cái Không, cái Không khác với cái Sắc.
Thế mới
biết chúng sanh tức là Phật, sanh tử chẳng khác Niết-bàn, Phàm Thánh như nhau,
nàng dâu mẹ chồng là một.
Bài 8: Phật dạy lý
Chơn không,
Bởi
e người chấp Có,
Nếu
như lại chấp Không,
Chụp
Thỏ mà buông Ó.
Bài 9: Ngồi tại giữa
nhà trống lổng lông,
Chẳng
Nam, chẳng Bắc, chẳng Tây Đông.
Bài 10: Sắc ở đâu?
Không ở đâu?
Chim
bay không dấu vết,
Cá
lội chẳng ảnh hình,
Nhưng
kìa! Chim vẫn bay, cá vẫn lội!
Mười bài này học viên tự làm và tự lên bảng.
Nam
Mô A Di Đà Phật.
Kính
Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.
————————————————
PHẦN ÔN BÀI BỰC
THƯỢNG
1. — Phần Giáo lý của Đức Phật dạy bực Thượng
như thế nào?
— Cõi Thinh văn, Duyên giác còn bị kẹt trong sự
sanh tử Biến dịch vì còn chấp pháp, nên Đức Phật dạy các hàng Bồ-tát phá luôn
pháp chấp để ra khỏi sự sanh tử Biến dịch. Chứng đặng Niết-bàn Tịch chiếu tức
là cái Tâm Chơn không Diệu hữu được giải thoát hoàn toàn (tuyệt đối). Trí huệ
này gọi là Pháp không Chơn-như.
2. — Niết-bàn Tịch chiếu, Tâm Chơn không Diệu
hữu, Pháp không Chơn-như nghĩa là gì?
— Niết-bàn Tịch chiếu nghĩa là Niết-bàn vắng
lặng và soi sáng. Tâm Chơn không Diệu hữu nghĩa là Tâm không mà có. Pháp không
Chơn-như nghĩa là các pháp vốn là không, nhưng cái bản thể sanh ra các pháp là
Chơn thiệt.
3. — Tại sao Đức Phật dạy Chơn lý huyễn Sắc,
huyễn Không cho bực Sai biệt trí Bồ-tát?
— Đức Phật dạy Chơn lý huyễn Sắc, huyễn Không
cho bực Sai biệt trí Bồ-tát để phá cái chấp có của cõi Nhơn–Thiên và cái chấp
không của hàng Nhị thừa.
4. — Tại sao Đức Phật dạy Chơn lý Sắc Không Vô trụ cho các
hàng Bồ-tát?
— Đức Phật dạy Chơn lý Sắc Không Vô trụ cho
các hàng Bồ-tát đặng ra khỏi sự sanh tử Phần đoạn và Biến dịch, nhưng chưa rõ
biết được hoàn toàn cái Tâm Chơn không Diệu hữu.
5. — Tại sao Đức Phật dạy Chơn lý Sắc Không
Viên dung bình đẳng cho bực Đại Bồ-tát?
— Đức Phật dạy Chơn lý Sắc Không Viên dung
bình đẳng cho bực Đại Bồ-tát thấy rõ cái bản thể Chơn không Diệu hữu của Vũ
trụ.
6. — Phật và Bồ-tát tu chứng đặng cái Tâm nào?
Tâm không với Tâm Chơn không khác nhau ra sao? Viên dung bình đẳng nghĩa là gì?
— Phật và Bồ-tát tu chứng đặng cái Tâm Chơn
không. Tâm không là cái Tâm tu chứng của hàng Nhị thừa còn trong vòng
tương đối, Tâm Chơn không là cái Tâm tu chứng của bực Phật và Bồ-tát ra
khỏi hai pháp đối đãi. Viên là tròn khắp, chỉ cái bản thể Vũ trụ, Dung
là dung nạp ngậm chứa, chỉ cái bản thể này bao trùm ngậm chứa vạn vật, bình
đẳng là bằng bực, ý nói bản thể này bằng bực, như nhau, chẳng sai chẳng
khác.
7. — Tâm Chơn không
(Chơn-như) có mấy phần? Tại sao gọi Tâm này một mà là bốn, bốn mà là một, không
một cũng không bốn, không sai không khác như như bình đẳng?
— Tâm Chơn không có bốn phần là: Thể, Tánh,
Dụng, Tướng. Tâm này gọi là một mà là bốn nghĩa là: nó là một Tâm nhưng có bốn
phần; Bốn mà là một vì bốn phần này cũng đều là một Tâm, không thể phân tách
riêng biệt nhau, Tâm này là Chơn không, không hình, không tướng nên Thể nó
không phải là một cũng không phải là bốn, nhưng vì Tâm này là diệu hữu tức là
như như bình đẳng, nên Thể, Tánh, Dụng, Tướng của nó không sai khác, như nhau.
Thể Tánh tức là Dụng Tướng, mà Dụng Tướng tức là Thể Tánh.
8. — Muốn được hoàn toàn
giải thoát, phải phá cái gì?
— Muốn được hoàn toàn giải thoát phải phá Ngã
chấp và Pháp chấp.
9. — Tiểu ngộ và Đại ngộ
nghĩa là sao?
— Tiểu ngộ là sự ngộ nhỏ mới chỉ biết cái Tâm
nhỏ trong thân mình mà thôi, còn Đại ngộ là sự ngộ lớn, nghĩa là tỏ biết đặng
cái Tâm rộng lớn bao trùm vạn vật, tức là cái bản thể của vũ trụ vạn hữu.
10. — Lục độ, Lục tệ, Ba-la-mật nghĩa là gì?
— Lục độ là sáu chiếc đò, gồm có Bố
thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định và Trí huệ. Lục tệ là sáu
điều ác tệ gồm có tham lam, sái quấy, sân hận, giãi đãi, tán loạn và si mê. Ba-la-mật
là đáo bỉ ngạn, nghĩa là đến bờ bên kia là bờ Giác của Phật, chỉ cái Tâm Chơn
không của Phật.
11. — Muốn được Minh tâm, kiến tánh phải cần có cái gì? Và làm
sao được?
— Muốn được Minh tâm, kiến tánh phải cần có
Trí huệ và phải thực hành tu pháp Lục độ ba-la-mật.
12. — Đức Giáo-chủ Minh Trí dạy bực Thượng tu
pháp nào?
— Đức Giáo-chủ Minh Trí dạy bực Thượng tu pháp
Phước Huệ Song Tu, tức là Lục độ ba-la-mật.
13. — Có mấy thứ Phước và muốn được giải thoát
phải tu Phước nào?
— Có hai thứ Phước: Phước hữu lậu và Phước vô
lậu. Muốn được giải thoát phải tu Phước vô lậu.
14. — Tu Huệ của nhà Phật là tu Huệ nào? và tu
cách nào?
— Tu Huệ của nhà Phật là tu Huệ giải thoát và
phải phá Ngã chấp và Pháp chấp.
15. — Muốn phá trừ Ngã chấp và Pháp chấp thì
phải làm sao?
— Muốn phá trừ Ngã chấp và Pháp chấp thì phải
nghiên cứu kinh luật cho tỏ thông Giáo lý của nhà Phật.
————————————————
(CÒN TIẾP - CẤP IV VÀ V)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét