TỊNH ĐỘ CƯ SĨ PHẬT HỘI VIỆT NAM
GIÁO LÝ CĂN BẢN
CẤP 5
Biên soạn:
Cư sĩ LIỄU NHƯ
MỤC LỤC
Bài
1: Chín
lớp định của cõi Sắc và Vô sắc
Bài
2: Bồ
tát thừa — Hiền và Thánh
Bài
3: Bát
thức Tâm vương — Chuyển thức thành trí
Bài
4: Các
chơn lý Sắc Không của Đạo Phật
Bài
5: Thuyết
Duyên khởi
Bài
6: Giác
Bài
7: Vô
minh
Bài
8: Diệu
dụng vô ngại (Chơn như dụng)
Bài
9: Nguyên
nhân sâu xa sanh ra vạn pháp
Bài
10: Nguyên
nhân sanh ra thế giới, chúng sanh, nghiệp quả
Bài
11: Tứ
cú kệ Kim Cang
Bài
12: Kiến
tánh thành Phật
Bài
13: Công
phu gỡ niêm thoát trần tức Bội trần hiệp giác
Bài
14: Cửa
vào Viên giác
Bài
15: Quả
vị Bồ đề
Bài
16: Quả
vị Bồ đề (tiếp theo)
BÀI 1
CHÍN LỚP ĐỊNH
CỦA CÕI SẮC VÀ VÔ SẮC
Trong chín lớp định nầy, bốn lớp định của Trời
Tứ Thiền và bốn lớp định của Trời Tứ Không đều là phàm vị,(1)
chỉ có bực Diệt Thọ Tưởng thì thuộc về Thánh vị.(2)
A. TỨ THIỀN THIÊN
1. Sơ thiền:
Hành giả phải ngồi kiết già hay bán già, đếm
hơi thở (thở vô và thở ra thì đếm một, cứ như thế đếm lên đến mười; rồi đếm trở
lại đừng cho xen hở). Khi hơi thở được điều hoà(3) thì biết
trong Tâm có dáng êm đềm, yên ổn, trụ ở nơi tịnh duyên mà chẳng tán loạn thì là
Thô trụ; rồi lần lần thiếp trụ(4) hơn trước
thì gọi là Tế trụ.(5)
Sau lúc Tế trụ một thời gian (một vài tháng),
thoạt nhiên Tâm địa có một phần mở mang tỏ rõ, rồi cái thân của mình xem dường
như mây như bóng, rỗng rang trong sạch nhưng còn thấy cái tướng thân tâm, nên
gọi là Dục giới định.
Sau rốt, Tâm ấy bỗng nhiên rỗng trống như cõi
hư không, chẳng thấy có thân mình và đồ y phục, giường đệm, đó gọi là Vị đáo
định.
Cái định Tâm nầy giữ được tăng tiến trong một
thời gian, hoặc một tháng hay một năm tuỳ theo công phu của hành giả, thì hốt
nhiên biết được tự Tâm có hơi rọ rạy phát động, thân mình lần lần như mây, như
bóng, cái động đó hoặc từ trên phát xuống hoặc từ dưới phát lên, hay ngang hông
phát ra hai đầu, lần lần phát cả châu thân có công đức vô lượng, nhưng lược kể
thì có mười món nầy: 1. Không, 2. Minh, 3. Định, 4. Trí, 5. Thiện tâm, 6. Nhu nhuyễn, 7. Hỷ,
8. Lạc, 9. Giải thoát, 10. Cảnh giả hiện tiền đồng khởi với động xúc một
lược. Đó là cái tướng động đầu hết. Từ lúc phát động như vậy rồi trong một thời
gian ngắn từ 10 ngày đến một tháng, hay một năm thì có tám thứ xúc khác theo
thứ lớp mà phát ra là: 1. Động, 2. Dưỡng (ngứa), 3. Lãnh (lạnh), 4. Noãn
(ấm), 5. Khinh (nhẹ), 6. Trọng (nặng), 7. Sáp (rít), 8. Huợt (ươn).
Chứng Sơ thiền: Trong lúc ở nơi Vị đáo định đã phát ra các
thứ xúc đụng thân tâm mà biết đặng cái tướng xúc ấy rít hay trơn, lạnh ấm v.v…
thì gọi là Giác chi.
Trong các xúc ấy, lại biết cái nào thô mà xa
lìa, cái nào thiện mà tu tập thì gọi là Quán chi. Đương khi giác quán
đặng cái chưa từng có, rồi trong lòng rất mừng thì gọi là Hỷ chi. Sau
lúc mừng, trong lòng êm đềm, vui vẻ thì gọi là Lạc chi. Thọ cái vui rồi
mà Tâm vẫn yên trụ, không chút nào tán loạn thì gọi là Nhứt tâm chi. Chi
nghĩa là năm món công đức nầy chống giữ lẫn nhau, làm cho định tâm được an ổn,
bền chắc không hư nên gọi là Chi.
2. Nhị thiền:
Ở trong bực Sơ thiền mà hành giả nhàm bỏ cái
giác quán phân biệt thì đặng bực Nhị thiền. Bực Thiền nầy Định Tâm và cái mừng
đồng phát và đủ cả bốn Chi công đức: 1. Nội tịnh, 2. Hỷ, 3. Lạc, 4. Nhứt tâm.
3. Tam thiền:
Hành giả trong bực Nhị thiền mà nhàm bỏ cái Hỉ
tướng thì chứng được bực Tam thiền, định tâm với lạc pháp đồng phát và đủ
cả 5 Chi công đức: 1. Xả, 2. Niệm, 3. Tri, 4. Lạc, 5. Nhứt tâm.
4. Tứ thiền:
Hành giả ở trong Tam thiền nhàm bỏ cái lạc
pháp, định tâm an ổn dứt hết hơi thở ra vô và đủ bốn Chi công đức: 1. Chẳng khổ,
chẳng vui, 2. Xả (bỏ cái vui Tam thiền), 3. Niệm thanh tịnh, 4. Nhứt tâm.
Tu theo bốn pháp Thiền trên đây thì vượt khỏi cái lưới hoặc ở Dục giới
mà sanh về cõi Sắc giới.
B. TỨ KHÔNG THIỀN THIÊN
Không Xứ định:
Khi đặng Tứ thiền rồi, lại nhàm chán sắc uẩn
ràng buộc như lao như ngục, khổ cực nhiều bề nên bỏ cái tưởng Sắc mà chuyên chú
về cái tưởng Không, lâu lâu thì Tâm với Không rỗng rang trong sạch một cách in
nhau, chẳng biết chi là khổ, là vui, và chẳng thấy có chi là Sắc tưởng nữa, Tâm
thức đặng lặng, tự tại an nhàn, nên gọi là Không Xứ định.
Thức Xứ định:
Khi tu chứng được Không Xứ định rồi, lại chê
bỏ cái Hư không ngoài mà buộc lòng trụ về phần nội Thức, Tâm thức rỗng rang
thanh tịnh nên gọi là Thức Xứ định.
Vô Sở Hữu Xứ định:
Khi chứng được Thức Xứ định rồi, lại nhàm chán
Thức Xứ định mà quán Tâm thức tuyệt nhiên không chỗ có, rồi Tâm và cái không
chỗ có tương ưng với nhau nên gọi là Vô Sở Hữu Xứ định.
Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng định:
Khi đã chứng được Vô Sở Hữu Xứ định rồi lại
chê bỏ để quán cái chẳng phải có (như Vô Sở Hữu Xứ định) và chẳng phải không
(như Thức Xứ định) nên chơn thiệt định phát ra một màu vắng bặt như tướng Niết
bàn nên gọi là Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng định. Tu bốn pháp Không Thiền trên đây
sau mạng chung vượt khỏi cõi Sắc giới mà sanh về cõi Vô Sắc giới.
Diệt Thọ Tưởng định:
Tu pháp Diệt Thọ Tưởng là lấy cái Thọ Tưởng
(quán sát chơn không) mà diệt trừ hết các pháp của Tâm và Tâm sở, rồi xoay lại
bỏ cái Thọ Tưởng tức nhiên Tâm và diệt pháp tương ưng với nhau, bặt dứt hết mọi
điều tri giác, nên gọi là Diệt Thọ Tưởng định.
Tu từ bực Sơ thiền cho đến Diệt Thọ Tưởng định
thì gọi là chín lớp định, chẳng còn chút tạp niệm nào xen lộn vào được.
I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1) Phàm vị:
là bực phàm, chỉ người còn nặng lòng phiền não, sanh tử (ngu nhơn).
(2) Thánh vị:
là bực Thánh, chỉ bực tu hành chứng ngộ diệu lý giải thoát trong Tiểu thừa, từ
Sơ quả cho đến Tứ quả, trong Đại thừa từ Sơ địa lên tới Thập địa.
(3) Điều hoà:
hoà hợp cho vừa, cho cân.
(4) Thiếp tịnh: Tịnh cho đến lúc mê không còn hay biết gì hết, như ngủ quên.
(5) Tế trụ:
Tế là hết sức nhỏ, có nghĩa là Tịnh tới chỗ yên lặng thanh tịnh. Tế trụ là Tâm
an trụ vào chỗ yên lặng thanh tịnh.
II. PHẦN VẤN ĐÁP
1) — Bực
Sơ thiền tu định cách nào?
— Bực
Sơ thiền tu pháp sổ tức quán, điều hoà hơi thở trụ ở nơi Tịnh duyên mà Tâm
chẳng tán loạn thì gọi là Thô trụ, rồi lần lần Thiếp trụ thì gọi là Tế trụ, đến
khi thấy cái thân của mình dường như mây, như bóng, rỗng rang trong sạch nhưng
còn thấy cái tướng thân tâm nên gọi là Dục giới định. Đến khi tâm rỗng trống
như hư không thì gọi là Vị Đáo định.
2) — Bực
Nhị thiền tu định cách nào?
— Bực
Sơ thiền nhàm bỏ cái giác quán phân biệt nên định tâm và cái mừng đồng phát và
đủ cả 4 Chi công đức nên chứng đặng bực Nhị thiền.
3) — Bực
Tam thiền tu định cách nào?
— Bực
Nhị thiền mà nhàm bỏ cái Hỉ tướng thì chứng được bực Tam thiền.
4) — Bực
Tứ thiền tu định cách nào?
— Bực
Tam thiền nhàm bỏ cái lạc pháp, định tâm an ổn dứt hết hơi thở ra vô và đủ cả 4
Chi công đức thì chứng quả Tứ thiền.
5) — Bực
Không Xứ định tu cách nào?
— Tâm
chuyên về cái tưởng không, nên Tâm thức đặng yên lặng an nhàn nên gọi là Không
Xứ định.
6) — Bực
Thức Xứ định tu cách nào?
— Rời
bỏ cái tưởng không ở bên ngoài, buộc lòng trụ về nội thức bên trong, nên Tâm
thức được rỗng rang thanh tịnh, ấy gọi là Thức Xứ định.
7) — Bực
Vô Sở Hữu Xứ định tu cách nào?
— Biết
rõ Tâm thức tuyệt nhiên không chỗ có, nên Tâm và cái không chỗ có đó tương ưng
với nhau, nên gọi là Vô Sở Hữu Xứ định.
8) — Bực
Phi tưởng, Phi phi tưởng định tu cách nào?
— Lìa
bỏ cái chẳng phải không (Thức Xứ định) nên gọi là Phi tưởng. Lìa bỏ cái chẳng
phải có (Vô Sở Hữu Xứ định) nên gọi là Phi phi tưởng, thì chơn thiệt định phát
ra một màu vắng bặt như tướng Niết bàn.
9) — Bực
Diệt Thọ Tưởng định tu cách nào?
— Lấy
cái Thọ tưởng diệt trừ hết các pháp của Tâm và Tâm sở, rồi lại bỏ cái Thọ Tưởng
ấy luôn; bặt dứt hết mọi điều tri giác nên gọi là Diệt Thọ Tưởng Định.
III. PHẦN TOÁT YẾU
Trong 9 lớp định nầy có 4 cõi Thiền thiên, 4 cõi Không Thiền
thiên và cõi Diệt Thọ Tưởng định, nhưng chỉ có cõi sau nầy thuộc về Thánh vị mà
thôi.
Tứ Thiền thiên có Sơ thiền dùng phép sổ tức quán tu định chứng
từ Thô trụ đến Tế trụ, rồi đến Dục giới định, sau rốt đến Vị Đáo định, thân tâm
rỗng trống như cõi hư không, lòng được êm đềm, vui vẻ nhưng còn cái giác quán
phân biệt.
Bực Nhị thiền thiên nhàm bỏ cái giác quán phân biệt nên định tâm
và cái mừng đồng phát. Bực Tam thiền nhàm bỏ cái hỉ tướng nên định tâm và lạc
pháp đồng sanh. Bực Tứ thiền thiên nhàm bỏ cái lạc pháp, định tâm an ổn dứt hết
hơi thở ra vô, vượt khỏi cái lưới hoặc ở Dục giới mà sanh về cõi Sắc giới.
Tứ không Thiền thiên gồm có Không Xứ định, nhàm chán cái Sắc uẩn
rằng buộc như lao, như ngục, nên bỏ cái tưởng Sắc mà chuyên chú về cái tưởng
Không, nên chứng đặng Không Xứ định.
Thức Xứ định lại chê bỏ cái hư không ngoài mà trụ vè phần nội
thức nên Tâm thức rỗng rang thanh tịnh. Bây giờ lại nhàm chán cái Thức Xứ định
mà quán Tâm thức không chỗ có, nên Tâm và cái không chỗ có tương ưng với nhau,
gọi la Vô Sở Hữu Xứ định. Khi chứng đặng Vô Sở Hữu Xứ định lại chê bỏ để quán
cái chẳng phải có và chẳng phải không nên Chơn thiệt định phát ra một màu vắng
bặt như tướng Niết bàn, ấy gọi là Phi tưởng, Phi phi tưởng định.
Diệt Thọ Tưởng định là lấy cái Thọ Tưởng (quán sát chơn không)
mà diệt trừ hết các pháp của Tâm và Tâm sở, rồi xây lại bỏ cái Thọ Tưởng, tức
nhiên Tâm và diệt pháp tương ưng với nhau, bặt dứt hết mọi điều tri giác nên
gọi là Diệt Thọ Tưởng định.
BÀI TẬP
Xin đáp những câu hỏi sau đây:
1. Xin phân biệt và giải rõ cái Không của Tứ Không Thiền thiên,
của Niết bàn Tịch diệt và Niết bàn Tịch chiếu.
2. Đề tài để thảo luận:
Cõi trời Phi tưởng, Phi phi tưởng định, quán cái chẳng phải có,
chẳng phải không, nên chơn thiệt định phát ra một màu vắng bặt như tướng Niết
bàn, tu như vậy có đặng giải thoát chưa? Tại sao?
Nam
Mô Long Hoa Thượng Hội Di Lặc Tôn Phật.
Kính
Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.
_____________________________________
BÀI 2
BỒ TÁT THỪA:
HIỀN VÀ THÁNH
I. HIỀN
Hàng Nhị thừa muốn tu qua bực Phật trước hết
phải tu các cấp Hiền và các cấp Thánh của thừa Bồ-tát, sau mới đến được quả vị
Phật thừa.
Các cấp Hiền gồm có:
1. Bực Sơ trụ Thập tín.
2. Tam hiền gồm có Thập trụ, Thập hạnh
và Thập hồi hướng.
3. Tứ gia hạnh gồm có: Noãn địa, Đảnh
địa, Nhẫn địa và Thế Đệ nhứt địa.
Các bực Thánh gồm có:
1. Hoan Hỉ địa, 2. Ly Cấu địa, 3. Phát Quang
dịa, 4. Diễm Huệ địa, 5. Nan Thắng địa, 6. Hiện Tiền địa, 7. Viễn Hành địa, 8.
Bất Động địa, 9. Thiện Huệ địa, 10. Pháp Vân địa.
A. THẬP TÍN
Mười đức tu hành mà Tín tâm là đứng đầu nên
gọi là Thập Tín.
1. Tín Tâm trụ: nghĩa là Tâm trụ ở Đức tin thuần chơn dứt
hết các thứ vọng tưởng.
2. Niệm Tâm trụ: Lòng chơn tín đã sáng tỏ rồi, tất cả Viên
thông, Tâm trụ ở chỗ niệm tưởng không bị ngăn ngại bởi Ấm, Xứ, Giới.
3. Tinh Tấn tâm: Dùng lòng tinh minh trong sạch sáng suốt tu
tiến lên địa vị chơn tịnh nên gọi là Tinh Tấn tâm.
4. Huệ Tâm trụ: Lòng Tinh Tấn đã hiện ra thì Trí huệ thuần
chơn tự nhiên phát khởi.
5. Định Tâm trụ: Khi có Trí huệ liền giữ cầm lấy trí sáng thì
khắp cả đều vắng lặng trong sạch nên gọi là Định Tâm trụ.
6. Bất Thối tâm: Định quang phát sáng (Tâm định phát sáng)
thì tánh sáng càng sâu vào, chỉ tới mãi không lui nên gọi là Bất Thối tâm.
7. Hộ Pháp tâm: Tâm tấn tới được giữ cầm chẳng mất, nhờ vậy
mà được giao tiếp với khí phần của Như Lai trong mười phương nên gọi là Hộ Pháp
tâm.
8. Hồi Hướng tâm: Nhờ Tâm sáng tỏ tự mình phát ra Diệu lực rồi
dùng cái diệu lực ấy day lại cái ánh sáng từ
quang(1) của tha Phật, tới an trụ nơi tâm Phật của mình một cách
tỏ rạng như hai cái gương đối chiếu. Vì nghĩa day lại Phật kia mà tới nơi tâm
Phật nên gọi là Hồi Hướng tâm.
9. Giới Tâm trụ: Là Tâm gìn giữ, an trụ chỗ vô vi nên gọi là
Giới Tâm trụ.
10. Nguyện Tâm trụ: Nếu trụ giới được tự tại thì có thể dạo chơi
mười phương, đi đến đâu cũng được tuỳ theo sở nguyện nên gọi là Nguyện Tâm trụ.
B. THẬP TRỤ
Là mười địa vị an trụ của Bồ-tát Đại thừa:
1. Phát Tâm trụ: Bực Thiện nam tử dùng phương tiện phát mười
thứ Tinh tấn, Tâm tính phát huy mười dụng thâu vào tròn một Tâm nên gọi là Phát
Tâm trụ.
2. Trị Địa trụ: Tự tâm phát sáng như trong đồ lưu ly trong
sạch hiện rõ vàng ròng rồi noi bước theo Diệu tâm trước mà luyện thành tâm địa
nên gọi là Trị Địa trụ.
3. Tu Hành trụ: Nhờ đã trải qua địa vị trước, tâm cùng địa
lẫn biết rõ ràng, chơi dạo mười phương không còn lưu ngại nên gọi là Tu Hành
trụ.
4. Sanh Qui trụ: Hành động với Phật thì thọ được khí phần của
Phật, nhập vào thai chủng Phật nên gọi là Sanh Qui trụ.
5. Phương Tiện Cụ Túc trụ: Đã vào Đạo thai thì tự mình đã thừa phụng
Tôn tự của Đại giác, cũng như thai đã thành rồi, tướng người chẳng thiếu nên
gọi là Phương Tiện Cụ Túc trụ.
6. Chánh Tâm trụ: Dung mạo đã như Phật thì Tâm tướng cũng đồng
nên gọi là Chánh Tâm trụ.
7. Bất Thối trụ: Thân tâm hiệp thành ngày đêm tăng trưởng nên
gọi là Bất Thối trụ.
8. Đồng Chơn trụ: Linh tướng của mười thân đều đủ trong một
lúc nên gọi là Đồng Chơn trụ.
9. Pháp Vương Tử trụ: Đã thành hình ra khỏi thai thì mình làm con
Phật nên gọi là Pháp Vương Tử trụ.
10. Quán Đảnh trụ: Bồ-tát đã thành Pháp Vương Tử, làm nổi Phật
sự, Phật bèn đem nước Trí huệ mà rưới lên đảnh đầu cũng như vị Vương tử dòng
Sát-lỵ, khi lên ngôi Quốc vương thì thọ lễ quán đảnh do nơi tay một vị
Bà-la-môn vậy.
C. THẬP HẠNH
Thập tín, Thập trụ, thuộc về phần tự lợi, còn
Thập hạnh và Thập Hồi hướng thuộc về phần lợi tha.
1. Hoan Hỉ hạnh: Hạnh là Tánh đức tốt thường làm việc lợi ích
cho người. Khi thành Phật tử rồi đủ cả Diệu đức của Như Lai, và lại tuỳ thuận
theo lòng nguyện dục trong mười phương mà làm cho được sự vui mừng, nên gọi là
Hoan Hỉ hạnh.
2. Thiện Ích hạnh: Có năng lực thiện xảo làm lợi ích cho tất cả
chúng sanh nên gọi là Thiện Ích hạnh.
3. Vô Sân Hận hạnh: Tự giác ngộ lấy mình và cho người, dù cho
gặp nhục cảnh cũng không trái nghịch, sân hận, nên gọi là Vô Sân Hận hạnh.
4. Vô Tận hạnh: Tuỳ cơ loại của chúng sanh mà hiện cái thân
hình Tam Thế Bình Đẳng, thông đạt mười phương cái hạnh lợi tha không hết, nên
gọi là Vô Tận hạnh.
5. Ly Si Loạn hạnh: Tuy có rất nhiều pháp môn chẳng đồng, nhưng
Bồ-tát khéo hiệp đồng hết thảy không hề sai lầm, nên gọi là Ly Si Loạn hạnh.
6. Thiện Hiện hạnh: Ở trong pháp đồng mà hiểu rõ các pháp khác,
rồi ở trong mỗi tướng khác mà mỗi mỗi thấy đồng nên gọi là Thiện Hiện hạnh.
7. Vô Trước hạnh: Như vậy cho đến mười phương Hư không đầy cả
vi trần mà trong mỗi vi trần hiện đủ mười phương thế giới, hiện trần, hiện giới
chẳng lưu ngại nhau nên gọi là Vô Trước hạnh.
8. Tôn Trọng hạnh: Những sự biến hiện ấy đều là Đệ nhứt
Ba-la-mật-đa nên gọi là Tôn Trọng hạnh.
9. Thiện Pháp hạnh: Bởi viên dung vô ngại như vậy mà thành được
khuôn phép của chư Phật trong mười phương nên gọi là Thiện Pháp hạnh.
10. Chơn Thiệt hạnh: Mỗi mỗi đều thanh tịnh vô lậu, nhứt chơn vô
vi, Tánh gốc sẵn vậy, chẳng quyền tiệm tu hành nên gọi là Chơn Thiệt hạnh.
D. THẬP HỒI HƯỚNG
Hồi hướng là đem công đức tu hành của mình mà
xoay về cho chúng sanh, xoay về quả Phật.
1. Cứu hộ Nhứt thiết chúng sanh ly chúng sanh
tướng hồi hướng:
Nghĩa là trong lúc tế độ chúng sanh, lìa các tướng năng độ, sở độ. Ấy là hồi
tâm vô vi tới đường Niết bàn nên gọi là Cứu độ Nhứt thiết chúng sanh ly chúng
sanh tướng hồi hướng.
2. Bất Hoại hồi hướng: Cũng bởi có chúng sanh khó độ mà vẫn không
hoại diệt cái bi nguyện độ sanh, cho nên gọi là Bất Hoại hồi hướng.
3. Đẳng Nhứt thiết hồi hướng: Trí giác trong sạch rõ bày, Trí giác ấy đồng
với trí Cứu cánh giác của Phật nên gọi là Đẳng Nhứt thiết hồi hướng.
4. Chí Nhứt thiết xứ hồi hướng: Cái thể tinh thuần chơn thiệt của bổn giác
đã phát huy ra diệu dụng thì nhơn địa của tự tâm đồng như quả địa của chư Phật,
nên gọi là Chí Nhứt thiết xứ hồi hướng.
5. Vô tận Công đức tạng hồi hướng: Thế giới với Như Lai thiệp nhập lẫn nhau
được khỏi ngăn ngại nên gọi là Vô tận Công đức tạng hồi hướng (Hồi hướng Kho
công đức Vô tận).
6. Tuỳ thuận Bình đẳng thiện căn hồi hướng: Nghĩa là Hồi hướng tuỳ thuận căn lành bình
đẳng.
7. Tuỳ thuận Đẳng quán Nhứt thiết chúng sanh
hồi hướng: Cái
căn chơn thiệt bình đẳng đã thành rồi thì chúng sanh trong mười phương đều là
bổn tánh của ta, nhưng tánh tuy tự tha thành tựu viên mãn mà chẳng mất sự cứu
độ chúng sanh, nên gọi là Tuỳ thuận Đẳng quán Nhứt thiết chúng sanh hồi hướng.
8. Chơn như tướng hồi hướng: Tức hết thảy các pháp, ly hết thảy các
tướng. Tức với ly hai cái đều không dính mắc, nên gọi là Chơn như tướng hồi
hướng.
9. Vô phược giải thoát hồi hướng: Nghĩa là hồi hướng giải thoát không bị buộc,
không dính mắc, nên gọi là Vô phược Giải thoát hồi hướng.
10. Pháp giới Vô lượng hồi hướng: Cái Toàn thể và Đại dụng của tánh đức đều đã
tròn nên, thì pháp giới không còn hạn lượng nên gọi là Pháp giới Vô lượng hồi
hướng.
Đ. TỨ DIỆU VIÊN GIA HẠNH
Tứ gia hạnh nầy diệu mầu tròn đủ khác với tứ
gia hạnh của Tiểu thừa thông giáo(2)
chẳng phải mầu, chẳng phải tròn nên gọi là Diệu viên.
1. Noãn địa: Lấy cái giác của Phật dùng làm cái nhơn tâm của mình, nhưng
Phật giác tuồng như hiển rõ mà chưa hiển
rõ, ví như dùi cây lấy lửa mới có hơi nóng chớ chưa có thiệt lửa nên gọi là
Noãn địa.
2. Đảnh địa: Noãn địa lấy giác của Phật làm tâm của mình, còn vị nầy thì
lấy tâm của mình làm hạnh của Phật, tuồng như nương mà chẳng phải nương, cũng
ví như người leo lên núi cao, thân tuy vào giữa hư không nhưng dưới chơn đi còn
bám đất tức là còn có chút ngăn ngại nên gọi là Đảnh địa.
3. Nhẫn địa: Tâm với địa hai cái đã đồng, tức là chứng được Trung Đạo một
cách thiện xảo, cũng ví như người gặp việc hay dung nhẫn, chẳng phải ôm lòng
oán hận và cũng chẳng phải toàn quên nên gọi là Nhẫn địa.
4. Thế Đệ nhứt địa: Tâm Phật nhơn quả đã dung hoà rồi, thì số
lượng tiêu diệt, mê Trung đạo, hai cái đều không chỗ chỉ, siêu việt hơn trên
đời nên gọi là Thế Đệ nhứt địa.
II. THÁNH (THẬP ĐỊA)
BÀI THỨ NHỨT
1. Hoan hỷ địa: (hoan hỷ là vui vẻ, sung sướng). Đối với quả
Đại Bồ-đề đã đặng thông đạt, giác ngộ thông với giác ngộ của Như Lai, cùng tột
cảnh giới Phật, nên gọi là Hoan hỷ địa.
2. Ly cấu địa: Tâm tánh của chúng sanh vào nơi chỗ đồng
(đồng một cảnh giới với Phật), cái đồng cũng diệt, gọi là Ly cấu địa.
3. Phát quang địa: Tịnh đúng sáng suốt nên gọi là Phát quang
địa.
4. Diễm huệ địa: Sáng suốt đúng thì, giác tánh đã viên mãn
gọi là Diễm huệ địa.
5. Nan thắng địa: Tất cả cái đồng cái khác, không thể léo hánh
đến gọi là Nan thắng địa.
6. Hiện tiền địa: Sự thanh tịnh sáng suốt của tánh vô vi
Chơn-như đã hiện rõ nên gọi là Hiện tiền địa.
7. Viễn hành địa: Cùng tột đến bờ mé của Chơn-như gọi là Viễn
hành địa.
8. Bất động địa: Hoàn toàn chỉ có cái tâm Chơn-như gọi là Bất
động địa.
9. Thiện huệ địa: Phát sanh cái công dụng của Chơn-như gọi là
Thiện huệ địa.
10. Pháp vân địa: Từ bi thức mây mầu diệu cho trùm cả biển
Niết-bàn gọi là Pháp vân địa.
BÀI THỨ HAI
Thập địa là mười địa vị Đại thừa Bồ-tát, gồm
có:
1. Hoan hỷ địa: (Cực hỷ địa) là rất vui mừng vì mới chứng
được quả Thánh tính (Phật tính) và chứng đủ hai lý nhơn không và pháp không làm
lợi ích cho mình và cho người sanh ra rất vui mừng.
2. Ly cấu địa: Ly là thoát lý, rời khỏi, cấu là bụi bẩn cấu
nhiễm (trần cấu), tức là 6 căn bản phiền não (Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Tà
kiến) nó làm bẩn cái tâm Bồ-đề sáng suốt, yên tịnh của mình. Ngôi nầy đã giữ
được giới Bồ-tát rất trong sạch, không bao giờ phạm giới một ly, vì trong tâm
Bồ-tát đã thoát ly hết mọi trần cấu phiền não.
3. Phát quang địa: là phát ra Trí huệ sáng suốt, thành tựu được
những đại Thiền định, pháp Tổng trì, phát sanh ra Trí quang thần diệu vô biên,
nên gọi là Phát quang địa.
4. Diễm huệ địa: là lửa Trí huệ tăng sáng thêm lên, kỳ đốt
cho hết sạch mọi phiền não, được ở yên trong tâm Bồ-đề hơn hết cho nên gọi là
Diễm huệ địa.
5. Cực nan thắng địa: là rất khó hơn, khó thắng. Tu đến địa vị nầy
mình đã thắng được mọi cái rất khó, thì cũng khó còn cái gì thắng được mình vì
hai Trí huệ Chơn và Tục nó trái ngược nhau, nay mình khiến cho nó cũng ưng hợp
với nhau là một việc rất khó thắng, thế mà mình đã thắng được rồi nên gọi là
Cực nan thắng địa.
6. Hiện tiền địa: là hiện ra trước mắt. Ở địa vị nầy phải giữ
vững cái Trí huệ hữu phân biệt để soi sáng mọi sự duyên, để dẫn khởi cái Trí
huệ Bát-nhã Vô phân biệt khiến cho nó luôn luôn hiện rõ ra trước mắt..
7. Viễn hành địa: Viễn hành là đi xa, có nghĩa là địa vị tu
hành cao xa. Quán ròng lẽ vô thường cùng tột đến bờ mé của Chơn-như cao xa hơn
người trong hai thừa (Thinh văn và Duyên giác).
8. Bất động địa: là chẳng chuyển động. Ở địa vị nầy đã vận
dụng được luôn luôn cái Trí huệ vô phân biệt. Những hình tướng, những công dụng
đều chẳng chuyển động được mình thì bao nhiêu phiền não cũng đều chẳng thể nào
chuyển động được nữa, nên gọi là Bất động địa.
9. Thiện huệ địa: Lên địa vị nầy là đã tu hành được bốn biện
tài vô ngại rất vi diệu, có đủ tài năng Trí huệ thuyết pháp cho thập phương
nghe nên gọi là Thiện huệ địa.
10. Pháp vân địa: Bồ-tát ở địa vị nầy Trí huệ dường như mây
làm đổ mưa Cam lồ xuống khắp cả, làm sanh nảy Thiện căn của cả thảy chúng sanh
nên gọi là Pháp vân địa. Tuy vậy trên bực nầy còn có bực Đẳng giác và Diệu giác
(Xin xem bài GIÁC có nói về hai bực nầy).
I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1) Từ quang:
Hào quang lành tức lá ánh quang minh đại từ của chư Phật túa ra, mát mẻ vi
diệu.
(2) Thông giáo:
Những giáo pháp được Phật thuyết gọi chung là Tu-đa-la. Đó là nghĩa chữ Thông.
II. PHẦN VẤN ĐÁP
1) — Hàng
Nhị thừa muốn tu qua bực Phật phải tu cách nào?
— Phải
tu qua các cấp Hiền và các cấp Thánh của thừa Bồ-tát mới qua quả vị Phật được.
2) — Bực
Sơ trụ của Bồ-tát thừa là bực nào?
— Là
bực Thập tín tức là mười đức tín tu hành mà Tín tâm là đức đứng đầu, nên gọi là
Thập tín.
3) — Hiền
vị có mấy ngôi?
— Hiền
vị có 7 ngôi gồm có Tam hiền là Thập trụ, Thập hạnh và Thập hồi hướng,
và Tứ gia hạnh gồm có Noãn đĩa, Đảnh địa, Nhẫn địa và Thế đệ nhứt địa.
4) — Các
cấp Thánh của Bồ-tát thừa chỉ bực nào?
— Chỉ
bực Thập địa gồm có: 1. Hoan hỷ địa, 2. Ly cấu địa, 3. Phát quang địa, 4. Diễm
huệ địa, 5. Nan thắng địa, 6. Hiện tiền địa, 7. Viễn hành địa, 8. Bất động địa,
9. Thiện huệ địa, 10. Pháp vân địa.
5) — Xin
kể các bực trong Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh và Thập hồi hướng?
— Xin
xem trong bài.
6) — Thập
địa Bồ-tát nghĩa là gì? Xin kể ra?
— Là
10 địa vị tu hành của Đại thừa Bồ-tát (Đại thánh) gồm có: (Xin xem trong bài).
7) — Cách
thức của Đức Phật dạy Đạo cho các cõi Trời bực Hạ tu qua bực Trung Tiểu thánh
(Thinh văn thừa), có giống như dạy bực Tiểu thánh tu qua bực Đại thánh Bồ-tát
không?
— Rất
giống, nghĩa là các cõi Trời phải tu 7 vị Hiền trước cũng gồm có: Tam
Hiền là Ngũ đình Tâm quán, Biệt tướng niệm xứ, Tổng tướng niệm xứ rồi mới
tu qua Tứ gia hạnh là Noãn vị, Đảnh vị, Nhẫn vị và Thế đệ nhứt vị. Xong mới
tiến tu qua bốn quả Tiểu thánh Thinh văn là Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm và
A-la-hán. Rồi bực A-la-hán muốn tu qua bực Đại Thánh Bồ-tát cũng phải trải qua
y như chương trình kể trên, tức là phải tu qua 7 vị Hiền, gồm có: Tam Hiền là
Thập trụ, Thập hạnh và Thập hồi hướng, rồi mới đến Tứ gia hạnh là Noãn địa,
Đảnh địa, Nhẫn địa và Thế đệ nhứt địa v.v… Nên chú ý Tứ gia hạnh của bực Tiểu
thánh thì gọi là vị chớ không phải địa, như Noãn vị, còn của bực Đại thánh thì
gọi là Noãn địa.
III. PHẦN TOÁT YẾU
Hàng Nhị thừa muốn tu qua bực Phật, trước phải tu qua các cấp
Hiền và các cấp Thánh của thừa Bồ-tát, sau mới tu đến quả vị Phật được. Hiền vị
của bực Đại thừa cũng có 7 ngôi như của bực Tiểu thừa, chia ra làm Tam hiền
gồm có: Thập trụ, Thập hạnh và Thập hồi hướng, Tứ gia hạnh là Noãn địa,
Đảnh địa, Nhẫn địa và Thế đệ nhứt địa. Kế tu tiếp thêm qua bực Đại thánh tức là
Thập địa Bồ-tát, từ Hoan hỷ địa đến Pháp vân địa mới qua bực Đẳng giác và ngôi
Diệu giác.
Nam
Mô Long Hoa Thượng Hội Di Lặc Tôn Phật.
Kính
Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.
_____________________________________
BÀI 3
BÁT THỨC TÂM
VƯƠNG,
CHUYỂN THỨC THÀNH TRÍ
I. BÁT THỨC TÂM VƯƠNG
Tám món Tâm vương rất thù thắng, tự tại và tự
chủ, cũng như vị Quốc vương nên gọi là Tâm vương.
1. Tiền Ngũ thức: là năm thức trước gồm có:
a.
Nhãn thức, là cái biết do mắt thấy.
b.
Nhĩ thức, là cái biết do tai nghe.
c.
Tỷ thức, là cái biết do mũi ngửi.
d.
Thiệt thức, là cái biết do lưỡi nếm.
e.
Thân thức, là cái biết do thân cảm xúc.
2. Ý thức: Là sự hiểu biết phân biệt của ý.
a.
Về thứ hạng, thức nầy là thức thứ sáu.
b.
Về công năng tác dụng, thức nầy nương nơi Ý căn (Mạt-na thức) khởi tác dụng
phân biệt pháp trần nên gọi là Ý thức. Thức nầy rất lanh lẹ, nói về công thì
thức nầy hơn hết, còn luận về tội thì thức nầy cũng đứng đầu (Công vi thủ, tội
vi khôi).
c.
Thức nầy có công năng chấp ngã và pháp.
— Làm sao biết có Ý thức?
— Khi đối với sự vật, Tâm mình khởi lên hiểu
biết phân biệt sự vật, sự phân biệt đó là Ý thức. Nếu hết phân biệt thì Ý thức
liền mất nên nói nó là hư vọng (không thiệt có).
3. Mạt-na thức:
a.
Về thứ hạng thức nầy là thức thứ bảy, cũng gọi là Ý căn, tức là cội gốc
của Ý thức nương theo. Sợ lầm lộn với Ý thức nên gọi là Ý, không có chữ thức.
b.
Thức nầy có công năng truyền tống chủng tử của các pháp vào thức A-lại-da, nên
gọi là Truyền tống thức.
c.
Thức nầy duyên với Kiến phần(1)
của Thức A-lại-da chấp làm thật ngã, thật pháp nên gọi là Mạt-na-thức.
— Làm sao biết có Mạt-na thức?
— Khi người khen mình thì trong tâm mình vui,
lúc người chê mình thì trong tâm phát buồn. Do đó nên mình mới thấy có cái NGÃ
của mình. Tu hành đến chừng người ta khen, chê hay gặp cảnh thuận, nghịch mà
không còn lòng vui buồn, thương ghét v.v… tức là phá được Ngã chấp.
Trong Tam tế, lục thô, Mạt-na thức gồm có:
Nghiệp tướng vô minh, Chuyển tướng vô minh, Hiện tướng vô minh và Tương tục
tướng vô minh. Vô minh nơi đây chỉ cho một dòng sanh diệt, tương tục không gián
đoạn.
4. A-lại-da thức:
Thức nầy có mười lăm tên khác nhau:
1. Tâm: Vì nó hay chứa nhóm hột giống (chủng tử) của các pháp và lại
sanh khởi ra các pháp.
2. A-đà-na: (Chấp trì) hay giữ cầm hột giống và các Sắc căn không cho rã
ra.
3. Sở tri y: Vì nó làm chỗ nương đậu cho các pháp nhiễm tịnh Sở tri.
4. Chủng tử thức: Vì nó hay giữ cầm khắp cả hột giống Thế gian
và Xuất thế gian.
5. Dị thục thức: Vì nó hay dắt dẫn vào nghiệp quả sanh tử
6. Vô cấu thức: Là các pháp vô lậu rất trong sạch nương nơi
nó.
7. Căn bản thức: Vì nó làm cội gốc sanh ra các thứ thức khác,
như Nhãn thức, Nhĩ thức, v.v…
8. Hữu phận thức: Vì nó là cái nhơn hằng khắp ba cõi.
9. Cùng sanh tử uẩn: Vì chỉ có nó là cùng tột tới chỗ Biến tế của
sanh tử.
10. Ái lạc hân hỉ A-lại-da: Vì chúng hữu tình chấp nó làm ta mà sanh lòng
vui mừng, tham đắm.
11. Ý: Vì nó hay thác sanh đầu thai nối luôn không dứt.
12. Liễu: Vì nó liễu biệt hột giống căn thân và thế giới.
13. Sở năng biến: Là năng biến đầu tiên trong ba thứ năng biến.
14. Đệ bát thức: Thức thứ tám trong tám thức.
15. Như Lai tạng thức: Vì nó là vọng mà bản thể nó là chơn.
Thức A-lại-da cũng gọi là Tàng thức, có công
năng chứa đựng và giữ gìn chủng tử (hạt giống) của các pháp nên có ba nghĩa:
a.
Năng tàng: Có công năng chứa đựng và giữ gìn chủng tử (hạt giống) của các pháp.
b. Sở
tàng: Là cái kho (chỗ) để chứa đựng chủng tử của các pháp.
c.
Ngã ái chấp tàng: Thức thứ bảy chấp kiến phần của nó làm Ta và thường luyến ái.
— Làm sao biết có A-lại-da thức?
— Khi ta làm lành, làm dữ, ta học môn nào, món
nào thì sự hiểu biết làn, dữ hay các môn học ta đều nhớ hết không quên. Các sự
hiểu biết ấy (chủng tử) sở dĩ không mất là nhờ thức A-lại-da chứa đựng và thức
A-đà-na cầm giữ.
Lúc tu hành từ địa vị phàm phu cho đến Thất
địa (bực hữu học) thức nầy còn chứa hai hột giống chơn vọng nên gọi là Tàng
thức.
Từ Bát-địa (vô học) đến bực Đẳng giác Bồ-tát
thì xả tên Tàng thức mà chỉ gọi là Dị thục thức, vì hết vọng, chỉ còn
chơn mà thôi.
Khi đến quả vị Diệu giác (Phật), các chủng tử
hữu lậu cấu nhiễm (chơn vọng) đã hết nên thức nầy đổi tên là Vô cấu thức
hay là Ym-ma-la thức. Lúc bấy giờ chỉ còn thuần chủng tử vô lậu thanh
tịnh nên gọi là Bạch tịnh thức.
Nói riêng về A-ĐÀ-NA THỨC
Bài tụng trong kinh Thủ Lăng Nghiêm:
A-đà-na vi tế thức
Tập khí như bộc lưu
Chơn, phi chơn khủng mê
Ngã thường bất khai diễn.
Nghĩa là thức A-đà-na rất vi tế khó thấy, khó
biết vì các tập khí(2) chủng tử của nó sanh diệt như dòng nước thác (nối tiếp liên tục
không đứt khoảng). Vì sợ chúng phàm phu và Nhị thừa chấp thức nầy làm chơn hay
phi chơn, nên Ta chẳng hề giảng nói thức nầy, nghĩa là Phật sợ phàm phu Nhơn
Thiên chấp thức nầy là Chơn thì trụ nơi thức nầy khó tu tiến tới quả vị Bồ-đề được, còn hàng Nhị thừa cho thức nầy
không phải chơn thiệt, rồi bỏ thức nầy cũng không thể chứng được Đạo Vô thượng
Giác.
A-đà-na dịch là trì, nghĩa là giữ gìn. Thức
nầy có ba công năng: Chấp trì, Chấp thọ, và Chấp thủ.
1. Chấp trì: nghĩa là giữ gìn chủng tử của các pháp. Nên biết mỗi mỗi các
pháp khi khởi hiện hành đều từ chủng tử của nó mà khởi hiện. Song vì chủng tử
thì chỉ có công năng tiềm tàng (ẩn núp) mà không khởi hiện. Nếu không có một
cái gì để chứa giữ thì chủng tử các pháp phải bị tản mất. Nếu chủng tử các pháp
bị tản mất thì các pháp hiện hành ở thế gian và xuất thế gian cũng phải không
còn. Bởi thế cho nên phải có thức A-đà-na để chứa giữ chủng tử của các pháp.
2. Chấp thọ: nghĩa là giữ gìn căn thân và thế giới. Căn thân là Chánh báo,
thế giới là Y báo. Khi con người được tái sanh thì cái công năng giữ gìn căn
thân được tương tục tồn tại trong một thời kỳ không tan hoại tức là thức
A-đà-na.
3. Chấp thủ: nghĩa là giữ lấy việc kết nối đời sau. Từ đời nầy chết rồi sanh
đến một đời khác, nghĩa là từ thân Bổn hữu (thân hiện đang sống) đến
thân Tử hữu (thân đang chết). Từ thân Trung hữu đến thân Hậu
hữu (thân đời sau sanh ra) sở dĩ được tương tục không gián đoạn cố nhiên
phải có một cái gì thường được lưu hành và giữ gìn (chấp thủ). Cái đó là thức
A-đà-na. Nếu không có thức nầy để giữ sự kết nối đời sau thì người một khi chết
phải mất luôn, không còn tái sanh lại được nữa.
Thể của thức A-đà-na
Thể của thức A-đà-na là các pháp.
Không thể rời các pháp mà riêng tìm có thức
A-đà-na được, vì thức nầy có công năng giữ gìn chủng tử của các pháp. Phải biết
Trời đất, vạn vật toàn là thức A-đà-na. Nhưng bực phàm phu chẳng thấy được thức
nầy vị bị hai món chấp Ngã và Pháp che áng, chỉ có bực Đại thánh dùng cái Trí
Tự trụ hậu đắc mới thấy được thức A-đà-na.
II. CHUYỂN THỨC THÀNH TRÍ
Chúng ta nên biết Tiền ngũ thức thuộc về thụ
động, còn Ý thức là chủ động, nghĩa là năm thức kia nếu không có Ý thức dựa vào
thì không thể phân biệt được. Thế thì pháp chuyển thức thành trí phải khởi sự
nơi Ý thức trước. Khi chúng sanh còn đang mê thì Ý thức chỉ có công năng phân
biệt và mê nhiễm các pháp, gây ra tất cả tội nghiệp. Đến khi biết tu hành thì
tập nó suy nghĩ, quán xét điều nào thiện, sự nào ác để rõ sự tà chánh, chơn
vọng hầu xa lìa điều quấy, làm các điều phải, để hiểu rõ lẽ nào vọng, lẽ nào
chơn để trừ vọng hoàn chơn, mới được tự tại giải thoát. Khi Ý thức được hoàn
toàn sáng suốt, ấy là chuyển thành Diệu Quan Sát Trí.
Bây giờ xoay nó trở ra ngoài kềm chế Tiền ngũ
thức, lượt bỏ những sự hiểu biết mê muội, chọn lọc những điều tốt lành để tạo
tác. Ấy là chuyển Tiền ngũ thức làm Thành Sở Tác Trí.
Nhiệm vụ hướng ngoại đã xong, bấy giờ xoay nó
lại hướng nội tức là Hồi quang phản chiếu,(3)
dùng tánh sáng suốt chiếu soi của nó để rọi vào Mạt-na thức quán xét, liền thấy
thức thứ bảy chấp cái kiến phần của thức A-lại-da làm Ta. Nhưng kiến phần nầy
đâu phải cái Ta chơn thiệt. Vạn vật sở dĩ sanh ra là do nơi một bản thể Như như
bình đẳng vốn vô hình vô tướng. Thế thì vạn vật vốn bình đẳng như nhau, chớ
không có sai biệt cao thấp. Ấy là phá được Ngã chấp chuyển Mạt-na thức làm Bình
Đẳng Tánh Trí.
Lại dùng Diệu Quan Sát Trí soi sâu thêm nữa
liền thấy trùng trùng điệp chủng tử của vạn pháp dẫy đầy trong thức A-lại-da
làm nguồn gốc của sự sanh sanh tử tử, nên nó liền lượt bỏ hai hạt giống chơn
vọng ấy để chuyển A-lại-da thức thành Đại Viên Cảnh Trí, tức là cái cảnh
trí tròn lớn, trùm khắp vạn vật và nó lại biết thêm chủng tử chơn vọng (hữu
lậu) sau khi bị loại khỏi thức thứ tám liền có một thứ chủng tử khác trong sạch
hơn, ấy là chủng tử vô lậu nằm chứa trong Vô cấu thức hay Ym-ma-la-thức, hay
Bạch tịnh thức nên nó chuyển thức nầy làm Pháp giới thể tánh trí. Toàn thể của
thức đều tiêu tan nhưng còn trí, mà trí hết đối đãi thì lần lần cũng tan mất,
trở thành cái Tạng Đại Quang Minh y như xưa. Than ôi! trải qua bao nhiêu cuộc
tang thương biến đổi, để rồi cuối cùng chẳng thấy có chi thêm, có chi bớt hết.
PHẦN PHỤ BẢN
BẢN ĐỒ BÁT THỨC TÂM VƯƠNG
THẨM–HẰNG
Thẩm nghĩa là suy xét kỹ (sâu).
Hằng nghĩa là thường còn.
Tiền ngũ thức không
Thẩm cũng không Hằng.
Ý thức Thẩm
mà không Hằng.
Mạt-na thức Thẩm
và Hằng.
A-lại-da thức Hằng
mà không Thẩm.
CHƠN VỌNG
1. — Khi thức A-lại-da “chưa” chứa đựng hai
hột giống Thiện Ác, nó là chơn hay vọng?
— Chơn.
2. — Khi thức A-lại-da “chứa đựng” hai hột
giống Thiện Ác, nó là chơn hay vọng?
— Vọng.
3. — Khi thức A-lại-da “chứa đựng” hột giống
Ác, nó là chơn hay vọng?
— Vọng.
4. — Khi thức A-lại-da “chỉ chứa hột giống
Thiện, nó là chơn hay vọng?
— Chơn đối với lúc nó chứa đựng hột giống Ác.
5. — Khi nó “chứa đựng hột giống Thiện” đối
với lúc nó chưa có chứa đựng gì hết, nó là chơn hay vọng?
— Vọng.
6. — Xin nói rõ sự sanh tử luân hồi của chúng
sanh ra làm sao?
— Do Ý thức hiệp với Tiền ngũ thức
tạo ra các nghiệp Thiện Ác. Các hột giống nghiệp nầy mới được đưa vào Mạt-na
thức. Thức Mạt-na mới truyền tống vào thức A-lại-da chứa đựng nơi đó, và
nhờ thức A-đà-na gìn giữ không cho mất.
Đến khi con
người chết, xác thân tứ đại bị tan rã hết, nhưng thức A-đà-na và các hột giống
nghiệp không bị tiêu mất. Nó liền thoát khỏi thân người và dẫn đi đầu thai
thành kiếp khác. Nếu nghiệp lành thì nó dẫn đi đầu thai trong các cõi lành như
cõi Nhơn Thiên, còn nếu nghiệp Ác thì nó dẫn dắt đi đầu thai trong các cõi Ác
như cõi Ngạ quỉ, Súc sanh hay Địa ngục.
Vậy nên phải
tu hành tạo hột giống lành để sau hưởng phước báo nơi cõi Nhơn Thiên và muốn
được giải thoát thì đừng tạo hai hột giống Thiện Ác ấy.
I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1) Kiến phần:
là phần thấy, như đọc sách, con mắt có tánh thấy, tánh thấy ấy là Kiến phần,
còn sách là tướng phần (phần bị thấy). Bổn tâm Chơn-như không có thấy cùng
chẳng thấy, nhưng vì không giữ được tự tánh, khởi vọng niệm nên mới chuyển giác
tánh thành nghiệp thức (A-lại-da thức), rồi mới chuyển tiếp cái Tạng đại quang
minh (Trí huệ đại quang minh) thành Kiến phần (năng kiến). Để có phần thấy tức
là phải có chỗ để thấy (sở kiến) nên mới chuyển kế tiếp cái lý cảnh chơn đế không đồng, không khác
làm thành tướng phần (phần bị thấy). Từ đó mới có kiến, văn, giác, tri.
(2) Tập khí:
Biệt danh của chủng tử, công năng tiềm tàng, như người viết chữ, khi chưa viết
thì công năng tập quen (tập khí) đó tiềm tàng núp ẩn trong tay không thấy được.
Đến khi viết là do cái công năng tập luyện (khí phận) ngày trước đó nên nay mới
viết được.
(3) Hồi quang phản chiếu: nghĩa là xoay cái ánh sáng soi trở vào mình chớ không soi ra
ngoài cảnh nữa.
II. PHẦN VẤN ĐÁP
1) — Bát
thức Tâm vương nghĩa là gì, xin kể ra?
— Là
tám Tâm thức rất thù thắng, tự tại, có đủ uy quyền như một vị quốc vương, gồm
có: Tiền ngũ thức, Ý thức, Mạt-na thức, A-lại-da thức.
2) — A-đà-na
thức nghĩa là gì?
— Là
thức giữ gìn chủng tử của các pháp, giữ gìn căn thân và thế giới, giữ lấy việc
kết nối đời sau.
3) — Thức
và Trí khác nhau như thế nào?
— Thức
là biết, Trí cũng là cái biết nhưng thức là cái biết còn trong vòng mê tối, ô
nhiễm, còn Trí là cái biết sáng suốt giải thoát ra khỏi đường sanh tử luân hồi.
4) — Cách
thức chuyển thức thành Trí ra sao?
— Trước
hết phải chuyển Ý thức thành Diệu quan sát trí vì ý thức làm chủ Tiền ngũ thức.
Kế đó dùng Diệu quan sát trí chuyển Tiền ngũ thức thành Thành sở tác trí. Xong
rồi mới xoay diệu quan sát trí vào trong để chuyển Mạt-na thức thành Bình đẳng
tánh trí và cuối cùng mới chuyển A-lại-da thức thành Đại viên cảnh trí.
5) — Xin
giải rõ sự sanh tử luân hồi của chúng sanh?
— Sự
sanh tử luân hồi của chúng sanh là do nơi ý thức hằng ngày hiệp với Tiền ngũ
thức mê nhiễm cảnh sáu trần ngoại giới tạo ra các nghiệp Thiện Ác. Các hột
giống nghiệp nầy được đưa vào Mạt-na thức để truyền tống vào thức A-lại-da chứa
đựng nơi đó, và nhờ thức A-đà-na giữ gìn không cho mất. Đến khi con người chết,
xác thân tứ đại tan rã, thức A-đà-na cùng các hột giống nghiệp thoát ra khỏi
thân người để di đầu thai thành kiếp khác. Hễ nghiệp lành thì được sanh vào các
cõi lành, còn nghiệp ác thì phải bị đi đầu thai trong các cõi dữ để trả quả ác.
III. PHẦN TOÁT YẾU
BÀI TẬP
Xin giải đáp câu hỏi sau nầy:
1) Muốn chuyển thức thành trí phải dùng pháp nào để chuyển và
chuyển cách nào?
2) Trong bài nói “Bực Phàm phu chẳng thấy được thức A-đà-na, chỉ
có bực Đại thánh dùng cái Trí Tự trụ hậu đắc mới thấy được.” Xin hỏi có mấy thứ
Trí Hậu đắc và xin giải nhiệm vụ của mỗi thứ?
Nam
Mô Long Hoa Thượng Hội Di Lặc Tôn Phật.
Kính
Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.
_____________________________________
BÀI 4
CÁC CHƠN LÝ SẮC KHÔNG
CỦA ĐẠO PHẬT
1. — Tiểu thừa có mấy cõi? Đại thừa có mấy cõi?
— Tiểu
thừa có bốn cõi là Nhơn, Thiên, Thinh văn, Duyên giác. Đại thừa có hai cõi là
Bồ-tát và Phật.
2. — Đức Phật dạy cho bực Tiểu thừa cái chơn lý
gì?
— Đức
Phật dạy cho bực Tiểu thừa cái chơn lý Sắc Không tương đối.
3. — Sắc không nghĩa là gì? Tương đối nghĩa là
gì?
— Sắc
chỉ vạn vật có hình có tướng, có màu sắc tức là cái có. Không là cái
trống không, không có gì hết, đối đãi với cái có. Tương đối là hai pháp
đối đãi với nhau, cái nghĩa của chúng nó trái nghịch với nhau, như đen đối với
trắng, thấp đối với cao v.v…
4. — Cái lý tương đối là thiệt hai giả? Xin
chứng minh?
— Cái
lý tương đối là giả, như có hai người đối đãi với nhau nên chúng ta nói người
nầy là thấp còn người kia là cao. Nếu không có người thấp thì tướng cao liền
mất, trái lại cũng như vậy. Vậy ta nên biết nếu không có hai người đối đãi với
nhau, thì hai cái tướng cao và thấp không có. Do đó nên gọi là giả.
5. — Cõi Nhơn Thiên chấp gì? Còn hàng Nhị thừa
chấp gì?
— Cõi
Nhơn Thiên chấp có, nghĩa là cho cái có là thiệt, còn hàng Nhị thừa chấp không,
nghĩa là cho cái không là thiệt.
6. — Như vậy cái có và cái không là thiệt hay
giả?
— Cái
có đối với cái không, chiếu theo sự chứng minh ở trên thì cái có và cái không
đều là giả.
7. — Khi biết cái có là như huyễn (giả), cái
không là như huyễn, hàng Nhị thừa tiến lên được bực nào và ngộ được chơn lý gì?
— Khi
biết sắc không là giả, hàng Nhị thừa liền tiến lên được bực Sai biệt trí Bồ-tát
và ngộ được Chơn lý huyễn sắc, huyễn không.
8. — Khi biết Sắc Không như huyễn rồi, Đức Phật
mới dạy thêm cho hàng Sai biệt trí Bồ-tát cách nào?
— Khi
biết Sắc Không đều là như huyễn, Đức Phật liền dạy thêm đừng trụ Sắc, đừng trụ
Không. Đó là cái chơn lý Sắc Không Vô Trụ của bực Bồ-tát.
9. — Không trụ Sắc, không trụ Không có lợi gì?
— Không
trụ sắc thì thoát khỏi sự sanh tử phần đoạn, còn không trụ không thì thoát khỏi
sự sanh tử biến dịch, mới được hoàn toàn giải thoát.
10. — Nhận
thấy Sắc Không đều là giả? Vậy cái gì sanh ra cái giả ấy?
— Cái
thiệt sanh ra.
11. — Nếu
cái thiệt sanh ra thì trong cái Sắc có cái thiệt, trong cái Không cũng có cái
thiệt, sao lại gọi nó là giả? Có thể gọi nó là thiệt được không?
— Cái
giả là cái tướng bên ngoài của sắc và không, còn cái thiệt là cái bản thể của
sắc và không.
Các hàng đại Bồ-tát biết rõ cái
tướng bên ngoài của sự vật là đối đãi với nhau mà có, là giả nên không khi nào
chấp các tướng ấy, lại rõ biết cái bản thể sanh ra sắc và không là chơn thiệt
nên nói sắc không như nhau, sắc tức không, không tức sắc, không sai khác nhau
chút nào hết. Vì lẽ đó nên gọi là thiệt. Thiệt là cái bản thể của sắc và không,
còn giả là cái tướng bên ngoài đối đãi của sắc và không.
12. — Nếu
gọi là thiệt, cái chơn lý Sắc Không nầy gọi là gì? Của bực nào? Và cái thiệt đó là cái gì?
— Cái
chơn lý Sắc Không nầy gọi là chơn lý Sắc Không Viên dung bình đẳng của bực đại
Bồ-tát (Bồ-tát Đẳng giác), và cái bản thể chơn thiệt đó là cái không phải
sắc, không phải không. Vì sắc không là giả rồi nên cái thiệt, lẽ cố nhiên
không phải là cái giả tức là sắc và không.
13. — Cái
không phải sắc, không phải không là cái gì? Và chơn lý nầy gọi là chơn lý gì?
Của bực nào?
— Cái
không phải sắc, không phải không, đó là cái Tâm Chơn không diệu hữu và chơn lý
nầy gọi là cái chơn lý Phi sắc, phi không (rốt ráo) nhưng bất ly sắc ly không
(bình đẳng) của bực Phật Thế Tôn.
GHI
CHÚ: Bài nầy chỉ viết câu hỏi lên bảng để thảo luận và học.
BÀI TẬP
Có hai cục vàng, cục thứ nhứt hình tròn nặng 1 kýlôgam và cục
thứ hai hình vuông cũng nặng đồng nhau.
Xin đáp những câu hỏi sau đây:
1. Trong 2 cục vàng nầy, cái gì là tướng bên ngoài và cái gì là
bản thể của chúng nó?
2. Cũng nơi 2 cục vàng nầy, chỉ cho thấy cái nào thuộc về cái lý
đối đãi, cái nào thuộc về cái lý bình đẳng.
3. Cũng nơi 2 cục vàng nầy làm sao cho thấy rõ?
— Cái lý tuyệt đối (bản thể thật có)?
— Cái lý tuyệt đối (bản thể thật không)?
Nam
Mô Long Hoa Thượng Hội Di Lặc Tôn Phật.
Kính
Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.
_____________________________________
BÀI 5
THUYẾT DUYÊN KHỞI
Duyên khởi là một học thuyết thiên giải vạn
hữu trong vũ trụ tại sao mà sanh khởi, và người ta chỉ để tâm khảo sát về mọi
hiện tượng sai biệt.
1) Theo phái Hữu thần luận thì chủ trương
ngoài vạn hữu của vũ trụ lại có một nhơn vật Thần Thánh làm chủ tể vạn vật.
2) Trái lại theo Phiếm thần luận của Phật giáo
thì không công nhận như thế và chủ trương rằng vạn hữu sanh khởi là hoàn toàn
do định luật nhân quả của chúng. Kết quả ở hiện tại phát sinh là do nguyên nhân
ở quá khứ, nguyên nhân quá khứ cũng hoàn toàn là kết quả của nguyên nhân trước
nữa.
Bàn về hệ thống của thuyết duyên khởi, chúng
ta nhận thấy có:
A. NGHIỆP CẢM DUYÊN KHỞI
Nghiệp cảm duyên khởi là một lý thuyết chủ
trương sự sanh khởi của vạn vật trong vũ trụ đều do nghiệp lực (karma) của
chúng ta mà có.
— Thân tâm của chúng ta và thế giới khách quan
do đâu mà có?
— Không ngoài sự tạo nghiệp của thân, khẩu và
ý mà phát hiện, nghĩa là chúng ta tự tạo nhân rồi tự hưởng quả.
Nói cách khác, nghiệp lực của chúng ta có thể
sanh ra vạn hữu sai biệt trong vũ trụ, lớp trước tàn tạ thì lớp sau thay thế,
chuyển nối mãi trên dòng sinh hoạt của chúng ta. Hình hài của chúng ta một ngày
kia sẽ tan rã, nhưng cái nghiệp lực ta đã tạo ra đời nầy không vì thế mà mất
đi, chúng có thể dẫn ta đến một sanh mạng khác. Vì có mê hoặc nên mới tạo
nghiệp. Có tạo nghiệp tất nhiên phải sanh ra quả khổ, thế thì do hoặc nghiệp
của chúng ta mà có nhân sinh và thế giới nầy. Tất cả thế giới và nhân sinh đều
là cảnh giới mê vọng chứa đầy những quả khổ đau thương.
Chúng ta muốn thoát khỏi khổ quả ấy phải trừ
nguyên nhân hoặc-nghiệp. Hoặc-nghiệp hết thì chúng ta không còn cảm quả thọ
sinh và chứng được quả vị bất sanh tức là Niết bàn (chân lý). Nghiệp cảm duyên
khởi là một thứ giáo lý căn bản của Phật giáo phổ thông cả Tiểu thừa và
Đại thừa.
B. A-LẠI-DA DUYÊN KHỞI
1. Chỉ trích thuyết nghiệp cảm của Tiểu thừa:
Nghiệp cảm duyên khởi là có sanh diệt, gián
đoạn vì lẽ Tiểu thừa chỉ thành lập có sáu thức: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý,
là những tâm lý sanh diệt vô thường. Như năm thức đầu (Tiền ngũ thức) chỉ do sự
kích thích của ngoại giới mà tả tượng vào nội tâm, chúng nó không có những tác
dụng tinh thần phức tạp như đối tỷ, suy luận và truy niệm cảnh quá khứ. Có đủ
thứ tác dụng, ấy chỉ có ý thức mà thôi, nhưng ý thức cũng là thứ tâm lý có gián
đoạn, ý niệm luôn luôn sanh diệt không ngừng và khi ta chết rồi thì ý thức cũng
tiêu tan.
Thế thì cái gì duy trì nghiệp lực ấy làm cho
nó sau khi chúng ta chết, vẫn liên tục không gián đoạn. Đó là thức A-lại-da,
một thứ tâm lý luôn luôn sanh khởi và trường tồn, làm cội gốc cho vạn hữu trong
vũ trụ. Thức nầy có thể chứa đựng tất cả chủng tử của vạn hữu, do đó mà mở mang
thành hiện tượng giới có đủ muôn tượng bao la.
2. Bài bác thuyết Chơn-như duyên khởi:
Chơn-như là lý thể của vạn hữu, bình đẳng và
đồng nhứt. Nó vốn trường tồn không sanh diệt, cũng không biến chuyển. Nếu cho
rằng lý thể Chơn-như bình đẳng đồng nhứt có thể duyên khởi sanh ra vạn hữu thì
có nghĩa là trước kia không, mà bây giờ mới có. Như thế quyết định không hợp
chánh lý, bởi vì các hiện tượng muôn vàn sai khác ấy tất nhiên phải do muôn vàn
chủng tử sai biệt mà sanh ra. Vì lẽ đó mà phái nầy mới thành lập thức A-lại-da
là thứ Tâm thức có thể chứa đựng chủng tử của tất cả các pháp, nó nương vào lý
thể Chơn-như làm cho chủng tử biến chuyển thành hiện tượng giới. Thức nầy cũng
gọi là Tàng thức, cái kho chứa đựng chủng tử của vạn pháp. Do từ chủng tử đó mà
phát sanh thân thể của chúng ta.
— Tại sao vạn vật lại có nhiều hiện tượng như
dài, ngắn, vuông, tròn, đỏ, trắng v.v…?
— Do nơi bảy thức trước khởi tâm có tri giác,
phân biệt, nhận thức sự vật nên mới biến thành nhiều hiện tượng.
* Nguồn
gốc phát sanh ra vạn vật vũ trụ (mê giới):
Bảy thức trước duyên tưởng các hiện tượng
khách quan của chúng biến hiện, khởi lên bao nhiêu tâm niệm phân biệt và chúng
huân tập thành chủng tử, mới chứa đựng trong thức A-lại-da. Rồi do sức huân tập
các nghiệp lành, dữ của thức thứ sáu, làm cho chủng tử ấy sanh ra hiện hành.
Chủng tử và hiện hành cứ xoay vần kế tiếp mãi nên mới phát sanh ra vũ trụ mê
giới. Đó là chủng tử hữu lậu và thức A-lại-da của chúng ta làm chủ tể cho sự
sanh tử luân hồi.
* Nguồn
gốc phát sanh ra ngộ giới:
Những chủng tử về ngộ giới của chúng ta cũng
chứa đựng trong thức A-lại-da. Nếu chúng ta biết rõ ngoại giới là giả tạm, hư
vọng thì lập tức sanh ra chủng tử giác ngộ. Đối với các cảnh tượng của ngoại
giới, chúng ta không sanh tâm mê vọng, lần lần huân tập thành chủng tử vô lậu,
chúng ta làm chủ tể trong việc siêu phàm nhập thánh.
C. CHƠN NHƯ DUYÊN KHỞI
Chơn-như duyên khởi là một lý thuyết chủ
trương bản thể siêu việt ngoài các hiện tượng là nguyên nhân thứ nhứt của vạn
hữu trong vũ trụ. Bản thể nầy cũng gọi là tâm tánh, là một thứ thực tại cùng
khắp. Tất cả vạn hữu đều do tâm ấy mà biến hiện. Tâm ấy gọi là Nhứt tâm.
Sanh diệt môn:
Muốn hiểu nội dung của Nhứt tâm, chúng ta phải
quan sát về hai phương diện Động và Tịnh của nó. Toàn thể của thế giới, nếu đứng
về mặt sanh diệt, nổi chìm của nó thì ta thấy có muôn vàn sự biến hoá, bao
nhiêu hiện tượng bên trong, bên ngoài chen lẫn với nhau cùng tác động, cơ hồ
chúng ta không thể khảo cứu được. Nhưng về phương diện Động ấy không ngoài Nhứt
tâm và gọi là Sanh diệt môn.
Chơn-như môn:
Nếu đứng về mặt bản thể của thế giới thì chúng
ta thấy nó thường còn bất diệt, mặc nhiên bất động. Cái tự tánh thanh tịnh tâm
về phương diện Tịnh ấy gọi là Chơn-như môn.
—
Tại sao Bản thể thanh tịnh, không sanh diệt, không khứ lai lại có thể duyên
khởi sanh ra vạn hữu?
— Tâm tánh thanh tịnh của chúng ta vốn không
sanh diệt, không khứ lai, chỉ do trợ duyên vô minh, bỗng nhiên mà xao động và
nổi lên muôn vàn sóng mòi sai khác, mở mang thành các hiện tượng bên trong và
bên ngoài. Vô minh là nguyên lý thứ nhứt làm cho Tịnh thành Động, làm cho trên
bình đẳng sanh ra sai biệt.
—
Vô minh là gì?
— Vô minh là một thứ lực dụng từ trên Tâm thể
của chúng ta mà phát hiện. Như thế vô minh không phải thực có. Nó là một thứ
vọng tâm nương nơi Tâm thể của chúng ta mà sanh khởi.
Vô minh căn bản (cội gốc): Một ý niệm không giác ngộ, tâm khởi động làm mê mờ Chơn-như,
cái ý niệm mê chơn ấy gọi là vô minh cội gốc.
Vô minh chi mạt (ngọn ngành): Do mê chơn rồi theo
vọng, nhận lầm cảnh giả cho là thiệt. Thứ vọng chấp ấy gọi là vô minh ngọn
ngành. Do đó, chúng sanh khởi hoặc, tạo nghiệp mới bị trói buộc trong sự sanh
tử luân hồi.
Các hiện tượng sanh diệt của mặt động là do vô
minh huân tập Tâm thể Chơn-như chuyển động không ngừng mà có, gọi là vô minh
nhiễm huân. Nhưng Chơn-như vẫn bất động trong sanh diệt, năng lực của mặt Tịnh
cũng kềm chế được Động, làm cho Tâm thể không lay động gọi là Chơn-như tịnh
huân (tuỳ duyên mà bất biến).
D. PHÁP GIỚI DUYÊN KHỞI
Thuyết Chơn-như duyên khởi là một thuyết phân
biệt thực thể và hiện tượng, nghĩa là từ nơi thực thể của Chơn-như mà mở mang
thành vạn hữu trong vũ trụ. Cho nên thuyết nầy phải lập vô minh làm nguyên lý
căn bản sanh khởi ra hiện tượng giới. Còn lập luận của thuyết Pháp giới duyên
khởi lại tiến lên một bước nữa là thực thể của vũ trụ không thể tìm ngoài các
hiện tượng. Nếu Chơn-như là năng duyên khởi, vạn hữu là sở duyên khởi, thì toàn
thể Chơn-như năng duyên ấy một phen biến động tức thành vạn hữu sở duyên khởi.
Như vậy thực thể tức là hiện tượng, hiện tượng tức là thực thể. Hai thứ ấy chỉ
là một vật và đó là ý nghĩa Nhứt tâm pháp giới (tất cả mọi sự vật không ngoài
một Tâm thể).
Vạn hữu tuy có muôn vàn
sai khác, nhưng sự sai khác của chúng chẳng qua là những làn sóng trên sự hoạt
động, trong đó chỉ là một sự hoạt động mà thôi. Nhưng làn sóng và bản thể hoạt
động không phải là những vật khác nhau mà làn sóng là bản thể hoạt động. Tiến
thêm một bước nữa, quan sát về mối liên hệ giữa hiện tượng với hiện tượng, sự
tương đối của các pháp Tâm và Vật, chúng ta thấy rằng cái kia và cái nầy là
bình đẳng và đồng nhứt. Thực thể của một hiện tượng là thực thể của muôn tượng.
Thực thể của muôn tượng là thực thể của một hiện tượng. Cho nên một là tất
cả, tất cả là một. Chúng ta nêu ra một pháp tức là toàn thâu tất cả các
pháp. Nếu một vi trần làm chủ thì các pháp là bạn. Như vậy các pháp đều tức nhau và dung nhau, nương nhau và thành nhau và trong đó mối quan hệ liên
lạc của chúng bao hàm một ý nghĩa mầu nhiệm trùng trùng vô tận.
Vũ trụ là một hệ thống vĩ đại của duyên khởi
mà trong đó mọi sự đều linh động, mọi vật đều tương quan không có một cái gì là
cô lập cả. Sự sanh diệt chuyển biến trong vạn hữu là do phản ảnh của thực tại
đã hoạt động. Vì hoạt động mà có sanh diệt chuyển biến. Nếu không hoạt động tất
nhiên không có chuyển biến, không có muôn tượng, cũng không có vũ trụ. Nếu hiểu
lý hoạt động ấy rồi tu tập pháp giới quán để thể hội Chơn-như, thì chúng sanh
sẽ thành thánh nhơn. Trái lại, nếu mê mờ chơn lý ấy rồi dõi theo sanh diệt
chuyển biến, nhận lầm sự vô thường là thường tồn thì chúng sanh sẽ thành phàm
nhơn.
Tóm lại, trong pháp giới gồm có năng duyên
khởi, sở duyên khởi và trùng trùng vô tận duyên khởi nên gọi là Pháp giới duyên
khởi, cũng gọi là vô tận duyên khởi.
E. THẤT ĐẠI DUYÊN KHỞI
Thất đại là đất, nước, lửa, gió, hư không,
kiến và thức. Thuyết “Pháp giới duyên khởi” của giáo phái Hoa Nghiêm tuy đã đạt
được lý tưởng siêu việt là hiện tượng tức là bản thể, nhưng vẫn chưa chỉ ngay
cái thực tại cùng khắp tức là một nhân cách Phật đà (là một nhân vật giác ngộ
hoàn toàn). Nên giáo phái Chân ngôn mới cụ thể hoá cái bản thể cùng khắp ấy tức
là nhân cách Phật đà và gọi là Ma-ha Tỳ-lô-giá-na Như Lai. Như Lai ấy là bản
nguyên của vũ trụ, thực thể của vạn hữu.
Tỳ-lô-giá-na nghĩa là Biến chiếu (soi khắp)
cho nên xưa dịch là Đại Nhật Như Lai. Thân thể của đức Phật nầy là bảy đại:
địa, thuỷ, hoả, phong, không, kiến và thức. Cho nên thân của Phật là bảy đại.
Không những thế, Phật và chúng sanh đều do bảy đại mà tạo thành, vạn hữu cũng
do bản thể ấy mà hiển hiện.
Bản thể của vũ trụ vạn hữu là bảy đại và bảy
đại cũng không chướng ngại lẫn nhau, luôn luôn vẫn tương ưng vô ngại nên gọi là
Thất đại thường-du-gia, nghĩa là tương ưng (hoà hợp với nhau).
Trong vũ trụ, dù nhỏ bằng hột bụi hay vi tế
như một mảy lông, chúng ta đừng vội tưởng chúng không đầy đủ bảy đại. Xác thân
của ta đây do cha mẹ sanh ra cũng là bản thể của Đại Nhật, nhưng vì bị vọng
tình làm khuất lấp nên các đức dụng của bản thể Đại Nhật ấy không thể hiển
hiện. Theo giáo phái Chơn ngôn, thì tu tập pháp môn Tam mật tương ưng (ba thứ
bí mật thích hợp với nhau, tức là thân mật, khẩu mật, và ý mật) chúng ta sẽ
chứng được bản thể sẵn có ấy. Tuy là bảy món, nhưng không ngoài Tâm và Vật,
nhưng chỉ là một, là tuyệt đối. Vật là tất cả hình tướng, tâm là năng lực hoạt
động. Năng lực ấy không nương vào hình tướng thì không thể tồn tại. Còn hình
tướng không nhờ năng lực thì không thể phát hiện.
Tuy nhiên, hoạt động và hình thể vẫn không rời
nhau. Vì lẽ ấy nếu chúng ta đứng ngoài sự vật hiện tại mà cầu chơn lý, hay đứng
ngoài hiện tượng mà cầu bản thể thì đều sai cả, bởi vì ngoài sự không có lý,
ngoài hiện tượng không có bản thể. Cho nên có chỗ nói: tức nơi sự tướng là chơn
lý.
I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1) Hoặc nghiệp: hoặc là mê lầm, mờ tối. Nghiệp là sự tạo tác lành hay dữ. Hoặc
nghiệp là do Tâm mờ tối, mê lầm nên mới tạo nghiệp sanh tử luân hồi.
(2) Khách quan: căn cứ vào sự thực ngoài mình mà quan sát, chớ không do cảm
tưởng, xu hướng riêng của mình.
(3) Huân tập: nung nấu, xông ướp cho quen, cho điều hoà.
II. PHẦN VẤN ĐÁP
1) — Thuyết
Duyên khởi nghĩa là gì?
— Là
một học thuyết thiên giải vạn hữu trong vũ trụ tại sao mà sanh khởi.
2) — Có
mấy thuyết duyên khởi?
— Có
năm thuyết duyên khởi là: 1. Nghiệp cảm duyên khởi, 2. A-lại-da duyên khởi, 3.
Chơn-như duyên khởi, 4. Pháp giới duyên khởi, 5. Thất đại duyên khởi.
3) — Nghiệp
cảm duyên khởi nghĩa là gì?
— Nghiệp
cảm duyên khởi là một lý thuyết cho rằng sự sanh khởi của vạn hữu trong vũ trụ
đều do nghiệp lực của chúng ta mà có. Vì có mê hoặc nên mới tạo nghiệp, có tạo
nghiệp tất nhiên phải sanh ra quả khổ, nên do hoặc-nghiệp của chúng ta mới có
nhân sinh và thế giới nầy.
4) — A-lại-da
duyên khởi nghĩa là gì?
— Là
một lý thuyết cho rằng sự sanh khởi của vạn hữu trong vũ trụ đều do thức
A-lại-da mà có, vì thức nầy là một thứ Tâm lý luôn luôn sanh khởi và trường tồn
làm cội gốc cho vạn hữu trong vũ trụ. Thức nầy chứa đựng tất cả chủng tử của
vạn hữu, do từ chủng tử đó mà phát sanh thân thể của chúng ta và vạn vật, mới
mở mang thành hiện tượng giới có đủ muôn tượng bao la.
5) — Chơn-như
duyên khởi nghĩa là gì?
— Là
một lý thuyết chủ trương bản thể siêu việt ngoài hiện tượng là nguyên nhân thứ
nhứt của vạn hữu trong vũ trụ. Thuyết nầy cho rằng do sự trợ duyên của vô minh
làm cho Tịnh thành Động, trên bình đẳng thành ra sai biệt, mới có nổi lên muôn
vàn sóng mòi sai khác, mở mang thành các hiện tượng bên trong và bên ngoài. Bản
thể nầy gọi là Tâm tánh, là một thứ thực tại cùng khắp.
6) — Pháp
giới duyên khởi nghĩa là gì?
— Thuyết
pháp giới duyên khởi là một học thuyết cho rằng bản thể tức là hiện tượng, hiện
tượng tức là thực thể. Hai thứ ấy chỉ là một vật, và đó là ý nghĩa Nhứt tâm
pháp giới (tất cả mọi sự vật không ngoài một Tâm thể). Thuyết nầy cho rằng
thuyết Chơn-như duyên khởi còn phân biệt bản thể và hiện tượng, nghĩa là cho
bản thể khác với hiện tượng và do bản thể mới sanh ra hiện tượng.
7) — Thất
đại duyên khởi nghĩa là gì?
— Thuyết
pháp giới duyên khởi cho rằng bản thể tức là hiện tượng, hiện tượng tức là bản
thể, nhưng không chỉ rõ cái bản thể đó là cái gì, nên giáo phái Chơn ngôn mới
cụ thể hoá cái bản thể ấy là một nhân cách Phật đà, gọi là Tỳ-lô-giá-na Như
Lai, tức là cái bản nguyên của vũ trụ, thực thể của vạn hữu. Thực thể đó là bảy
đại gồm có: Đất, nước, lửa, gió, hư không, kiến, thức. Trong vũ trụ dù nhỏ bằng
hột bụi hay vi tế như mảy lông, chúng ta đừng vội tưởng chúng nó không đủ bảy
đại, như con sâu, con kiến, con muỗi, con vi trùng v.v…
III. PHẦN TOÁT YẾU
Thuyết Duyên khởi là một học thuyết thiên giải vạn hữu trong vũ
trụ tại sao mà có sanh ra. Có năm thuyết duyên khởi là: 1. Nghiệp cảm duyên
khởi, 2. A-lại-da duyên khởi, 3. Chơn-như duyên khởi, 4. Pháp giới duyên khởi,
5. Thất đại duyên khởi.
1. Nghiệp cảm duyên khởi cho rằng sự sanh khởi của vạn hữu trong
vũ trụ đều do nghiệp lực mê hoặc của chúng ta mà có.
2. A-lại-da duyên khởi cho rằng vạn hữu trong vũ trụ đều do thức
A-lại-da sanh khởi mà có, vì thức nầy chứa đựng tất cả chủng tử của vạn hữu nên
mới sanh khởi ra vạn hữu được.
3. Thuyết Chơn-như duyên khởi lại cho rằng do cái bản thể bất
sanh, bất diệt của Tâm Chơn-như tuỳ duyên mới sanh khởi ra vạn hữu trong vũ
trụ, vì có sự trợ duyên của vô minh làm cho Tịnh thành Động, Bình đẳng thành ra
Sai biệt, mới có sự sanh khởi.
4. Thuyết Pháp giới duyên khởi tiến sâu hơn chút, cho rằng bản
thể tức là hiện tượng, hiện tượng tức là bản thể. Bản thể và hiện tương không
sai khác nhau như nước với sóng vậy.
5. Thuyết Thất đại duyên khởi bèn cụ thể hoá cái bản thể ấy là
Thất đại Chơn-như (đất, nước, gió, lửa, hư không, kiến, thức). Bảy đại nầy tạo
thành Phật và chúng sanh, cho tới vạn hữu cũng do bản thể ấy mà hiển hiện.
BÀI TẬP
Xin khảo sát và bình luận kỹ những thuyết duyên khởi đã học ở
trên.
1. Thuyết A-lại-da duyên khởi chỉ trích thuyết Nghiệp cảm duyên
khởi, cho rằng thuyết nầy chỉ lập có sáu thức trong khi tu hành, mà ý thức là một
thứ Tâm lý gián đoạn, không thường tồn, đến khi ta chết nó không còn nữa, thì
lấy cái gì duy trì nghiệp lực sau khi ta chết để sanh khởi lại thân sau?
2. Thuyết A-lại-da duyên khởi cũng bài bác thuyết Chơn-như duyên
khởi, nói rằng bản thể của Chơn-như là Không, bất sanh bất diệt không có chứa
đựng các hột giống nghiệp thì làm sao sanh khởi được?
3. Thuyết Pháp giới duyên khởi và Thất đại Chơn-như duyên khởi
cho rằng thuyết Chơn-như duyên khởi phân biệt bản thể với hiện tượng, nghĩa là
hiện tượng và bản thể là hai vật khác nhau, do bản thể mới sanh ra hiện tượng,
hiện tượng là hư vọng, bản thể là chơn thật. Bản thể đó là Thất đại Chơn-như.
Vạn vật trong vũ trụ từ lớn chí nhỏ đều do Thất đại Chơn-như sanh ra cả. Thất
đại nầy là cái bản thể của muôn loài vạn vật vậy.
Xin khảo sát và bình luận:
1. Nếu thuyết A-lại-da nói đúng thì thuyết Nghiệp cảm duyên khởi
và Chơn-như duyên khởi là nói sai hay sao? Trái lại hai thuyết sau nói đúng thì
thuyết A-lại-da nói trật hay sao?
2. Còn thuyết Pháp giới và Thất đại Chơn-như nói đúng, nghĩa là
do cái Bản thể có (Thất đại) mới duyên khởi sanh ra vạn vật, còn cái Bản
thể của Tâm Chơn-như là không, thì làm sao sanh ra cái có được? Lại nữa, thuyết
Chơn-như duyên khởi tách rời Bản thể với hiện tượng, còn hai thuyết kia thì chủ
trương rằng Bản thể và hiện tượng là một. Thế thì thuyết nào đúng?
Nam
Mô Long Hoa Thượng Hội Di Lặc Tôn Phật.
Kính
Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.
_____________________________________
BÀI 6
G I Á C
Tiếng Phạn gọi là Bồ-đề, Phật đà, chữ Hán gọi
là Đạo, có nghĩa là sáng suốt, ngộ đặng chơn lý, chỉ cho bản thể Chơn tâm lìa
các vọng niệm, tròn khắp, rộng lớn như hư không, cũng gọi là Pháp thân bình
đẳng Như Lai (Phật tánh(1)
sẵn có).
Bực đắc đạo trong hai thừa Thinh văn, Duyên
giác gọi là Tự giác. Bực đắc đạo trong thừa Bồ-tát gọi là Tự giác,
giác tha. Bực đắc đạo thành Phật gọi là Tự giác, giác tha, giác hạnh
viên mãn (rốt ráo).
Giác có năm tên:
1. Bản giác (Phật tánh sẵn có): Thể tánh Chơn không, không có mê cũng không có ngộ, tự hữu,
hằng hữu, cũng là Chơn giác.
2. Bất giác (mê, không giác ngộ): Chỉ địa vị của phàm phu chưa ngộ được như thật pháp Chơn-như,
nên khởi tâm mê nhiễm.
3. Thỉ giác (mới giác ngộ sau): Chúng sanh bị vô minh phiền não che lấp Chơn tánh, nhưng nhờ tu
hành phá hết vọng tưởng phiền não, mới bắt đầu khởi lên Tri giác khế hiệp với
Bản giác, nên gọi là Thỉ giác.
4. Phần giác (giác ngộ từng phần): Hành giả nhờ tu hành trải qua từ bực nên được giác ngộ từ phần,
như tu chứng bực Hạ thì giác ngộ được bực Hạ, tu chứng bực Trung thì giác ngộ
được bực Trung, tu chứng bực Thượng thì giác ngộ được bực Thượng.
5. Cứu cánh giác (giác ngộ rốt ráo): Giác ngộ đến cực quả là quả vị cùng tột của Phật, cũng tức là
hoàn về được Bản giác.
A. BẤT GIÁC
Giác nghĩa là biết, bất giác là không biết,
nghĩa là không tỏ ngộ được Phật tánh (Bản giác) nên gọi là mê, mới khởi tâm
vọng niệm, hư vọng tức là vô minh. Song cái mê nầy (vô minh) không có
thật thể nên chỉ lấy Phật tánh làm thể, không rời Phật tánh (Bản giác) được.
Vì do bất giác nên sinh ra ba tướng tế và sáu
tướng thô như sau đây:
1. Tam tế gồm có:
a) Nghiệp tướng vô minh: Do vô minh bất giác sanh tâm vọng động.
b) Chuyển tướng vô minh: Do tâm vọng động nên chuyển Tạng không Như
Lai làm Thức tánh (Tạng thức) cũng gọi là tâm năng kiến (phần năng phân biệt).
c) Hiện tướng vô minh: Vì có tâm năng phân biệt nên cảnh bị phân
biệt hiện ra tức là Sở kiến (tướng phần).
2. Lục thô gồm có:
a) Trí tướng (phân biệt) vô minh: Do có cảnh giới hiện ra nên sanh tâm phân
biệt (trí) thương ghét.
b) Tương tục tướng vô minh: Do tâm phân biệt thương ghét nên tiếp tục
sanh ra các niệm khổ vui, mừng lo v.v… không dứt.
c) Chấp thủ tướng vô minh: Là chấp và giữ vững. Do các niệm thương ghét,
mừng giận, khổ vui nên sanh tâm chấp lấy, cái gì vui thích thì tham luyến, còn
buồn khổ thì sân hận nên mới vướng mắc, chấp lấy sự vật.
d) Kể danh tự tướng vô minh: Do phân biệt vọng chấp nơi sự vật nên giả đặt
ra những danh tự để kêu gọi.
e) Khởi nghiệp tướng vô minh: Do chấp theo danh tự tốt xấu đó rồi tạo ra
các nghiệp lành hay dữ.
f) Nghiệp hệ khổ tướng vô minh: Do tạo ra các nghiệp nên bị các nghiệp dẫn
kéo đi thọ quả khổ không đặng tự tại.
B. THỈ GIÁC
Có bốn lớp từ thô đến tế là: Sanh, Trụ, Dị,
Diệt. Bắt đầu giảng bốn lớp từ thấp lên cao.
1. Giác ngộ niệm Diệt: Tiểu thừa hữu học (Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm,
A-na-hàm) và Thập Tín đều gọi là phàm phu mới giác ngộ niệm trước đã khởi ác,
nên ngăn dứt niệm sau không cho sanh khởi ác nữa. Đó là diệt cái niệm ác nên
gọi là giác ngộ được niệm Diệt, tức là phá trừ diệt tướng vô minh, là vô minh
thô sơ bên ngoài, tương dung với sự trừ được khởi nghiệp tướng vô minh và
nghiệp hệ khổ tướng vô minh. Vì in như là giác ngộ nhưng kỳ thật là chưa phải
giác ngộ, nên gọi chúng phàm phu bất giác.
2. Giác ngộ niệm Dị: (Dị là khác, nghĩa là thấy có Ngã và Pháp).
Hàng Sơ tâm Bồ-tát (Tam Hiền, chỉ Thập Trụ, Thập Hạnh và Thập Hồi Hướng) và Nhị
thừa vô học (chỉ bực A-la-hán và Bích chi Phật hay Độc giác Phật) giác ngộ được
niệm Dị (Dị tướng vô minh) tương đương với sự trừ được Chấp thủ tướng vô minh
và Kể danh tự tướng vô minh, nghĩa là hàng Nhị thừa và sơ tâm Bồ-tát dùng Trí
huệ quan sát Ngã (thân tâm) và Pháp (vũ trụ) đều do nhơn duyên sanh ra nên đoạn
trừ hai món vọng chấp thật Ngã và thật Pháp về phần thô, nên gọi là Giác ngộ
niệm Dị, nghĩa là không có tướng niệm dị, tức là không có tướng Ngã và tướng
Pháp. Các bực Bồ-tát nầy tương tợ như giác ngộ được Chơn tâm nhưng chưa phải
thật ngộ, thật chứng, nên gọi là Tương Tợ Giác.
3. Giác ngộ niệm Trụ: Bồ-tát phá một phần vô minh thì chứng được
một phần Pháp thân, gọi là lên Sơ địa, phá hai phần vô minh thì chứng hai phần
Pháp thân, gọi là lên Nhị địa, cho đến phá mười phần vô minh thì chứng được
mười phần Pháp thân, gọi là Thập địa. Vì Bồ-tát phá vô minh từng phần nên gọi
là Tuỳ phần giác.
Các vị Bồ-tát nầy ban sơ còn trụ ở năng sở đối
đãi nên gọi là Trụ tướng vô minh, so với Lục thô thì phá được hai món
thô đầu là Trí tướng vô minh và Tương tục tướng vô minh.
Đến khi nhập Chơn-như quán, chỉ nhứt tâm chánh
niệm Chơn-như, chứng đặng Pháp thân thanh tịnh không còn năng sở đối đãi nữa,
không còn tướng niệm trụ nên gọi là Giác ngộ niệm Trụ, tức là trừ được Chuyển
tướng vô minh và Hiện tướng vô minh.
4. Giác ngộ niệm Sanh: Bồ-tát bực Đẳng giác ngộ được niệm sanh tức
là phá được Sanh tướng vô minh, nghĩa là đang lúc tu hành đến lúc Chơn cùng
hoặc tận, tột bực Thập địa chứng đặng Đẳng giác, liền dùng Trí Kim Cang đoạn
trừ sạch Sanh tướng vô minh, nghĩa là Giác ngộ niệm Sanh, xa lìa được các
vọng-hoặc vi tế và nhứt niệm hiệp với Tâm thể Chơn-như chứng được quả Diệu Giác
(Phật) gọi là Cứu Cánh Giác.
Tóm chung lại, chúng phàm phu đối cảnh chấp có
và thấy vọng niệm diệt rồi đè nén không cho sanh (Giác ngộ niệm Diệt). Hàng Nhị
thừa và Tam Hiền Bồ-tát thì quán Ngã Pháp đều không, nhưng còn cái niệm không
(Giác ngộ niệm Dị). Thập địa Bồ-tát cái tâm niệm chấp không cũng không còn,
nghĩa là không còn chấp năng sở nữa. Bực Đẳng giác dùng Trí Kim Cang đoạn trừ
sanh tướng vô minh rất vi tế nên nhứt niệm hiệp với Chơn-như chứng quả Diệu
Giác (Phật).
BẢN ĐỒ SANH, TRỤ, DỊ, DIỆT PHỐI HỢP VỚI TAM TẾ LỤC THÔ
Niệm Sanh
|
→
|
1- Nghiệp tướng vô
minh
|
TAM TẾ
|
Niệm Trụ
|
→
|
2- Chuyển tướng vô
minh
|
|
→
|
3- Hiện tướng vô
minh
|
||
→
|
1- Trí tướng vô
minh
|
LỤC THÔ
|
|
→
|
2- Tương tục tướng
vô minh
|
||
Niệm Dị
|
→
|
3- Chấp thủ tướng
vô minh
|
|
→
|
4- Kể danh tự
tướng vô minh
|
||
Niệm Diệt
|
→
|
5- Khởi nghiệp
tướng vô minh
|
|
→
|
6- Nghiệp hệ khổ
tướng vô minh
|
BẢN ĐỒ TAM TẾ TƯƠNG ĐƯƠNG BÊN DUY THỨC TÔN
a. Nghiệp tướng vô minh bên Duy Thức gọi
là Tự
chứng phần(2)
b. Chuyển tướng vô minh bên Duy Thức gọi
là Kiến
phần
c. Hiện tướng vô minh bên Duy Thức
gọi là Tướng
phần.
BẢN ĐỒ CHỈ CÁC CÕI KẸT
TRONG TAM TẾ LỤC THÔ
I. PHÀM PHU:
Có đủ chín món
|
Tam tế
|
1- Nghiệp tướng vô minh
|
2- Chuyển tướng vô minh
|
||
3- Hiện tướng vô minh
|
||
Lục thô
|
1- Trí tướng vô minh
|
|
2- Tương tục tướng vô minh
|
||
3- Chấp thủ tướng vô minh
|
||
4- Kể danh tự tướng vô minh
|
||
5- Khởi nghiệp tướng vô minh
|
||
6- Nghiệp hệ khổ tướng vô minh
|
||
II. TIỂU THỪA:
Ba quả Hữu học
còn bảy món, trừ được
5 và 6
|
Tam tế
|
1- Nghiệp tướng vô minh
|
2- Chuyển tướng vô minh
|
||
3- Hiện tướng vô minh
|
||
Lục thô
|
1- Trí tướng vô minh
|
|
2- Tương tục tướng vô minh
|
||
3- Chấp thủ tướng vô minh
|
||
4- Kể danh tự tướng vô minh
|
||
III. A LA HÁN:
Có sáu món, trừ được
4, 5 và 6
|
Tam tế
|
1- Nghiệp tướng vô minh
|
2- Chuyển tướng vô minh
|
||
3- Hiện tướng vô minh
|
||
Lục thô
|
1- Trí tướng vô minh
|
|
2- Tương tục tướng vô minh
|
||
3- Chấp thủ tướng vô minh
|
||
IV. PHÁP THÂN:
Bồ-tát chỉ có ba tế
|
Tam tế
|
1- Nghiệp tướng vô minh
|
2- Chuyển tướng vô minh
|
||
3- Hiện tướng vô minh
|
I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1) Phật tánh:
Tánh Phật sẵn có, có ba nghĩa:
–
Chánh nhơn Chơn-như: Là cái nhơn chánh để thành Phật.
– Duyên nhơn: Phật, Bồ-tát, kinh sách
là trợ duyên.
– Liễu nhơn Phật tánh: Chánh nhơn và
Duyên nhơn đầy đủ làm cho hành giả liễu ngộ được Phật tánh của mình.
(2) Tự chứng phần: Một thứ lực dụng tạo nên sự thấy biết (Kiến phần).
II. PHẦN VẤN ĐÁP
1) — Giác
nghĩa là gì? có mấy tên?
— Là
Phật tánh sẵn có, tiếng Phạn gọi là
Bồ-đề, Phật đà, chữ Hán gọi là Đạo, nghĩa là sáng suốt ngộ đặng chơn lý,
có năm tên: 1. Bản giác, 2. Bất giác, 3. Thỉ giác, 4. Phần giác, 5. Cứu cánh
giác.
2) — Thỉ
giác có mấy lớp?
— Có
4 lớp từ tế đến thô là Sanh, Trụ, Dị, Diệt.
3) — Bất
giác có mấy tướng tế và thô?
— Có
3 tướng tế là: 1. Nghiệp tướng vô minh, 2. Chuyển tướng vô minh, 3. Hiện tướng
vô minh.
Và 6 tướng thô là: 1. Trí tướng
vô minh, 2. Tương tục tướng vô minh, 3. Chấp thủ tướng vô minh, 4. Kể danh tự
tướng vô minh, 5. Khởi nghiệp tướng vô minh và 6. Nghiệp hệ khổ tướng vô minh.
4) — Xin
nói về phần các cõi còn bị kẹt trong Tam tế, lục thô?
— a.
Phàm phu bị kẹt đủ 9 món.
b. Tiểu thừa hữu học kẹt 7 món,
trừ được 2 món thô chót.
c. A-la-hán kẹt 6 món, trừ được 3
món chót.
d. Pháp thân Bồ-tát chỉ kẹt 3 món
tế mà thôi.
III. PHẦN TOÁT YẾU
Giác có năm tên là Bản giác, Bất giác, Thỉ giác, Phần giác,
Cứu cánh giác.
Bất giác có
Tam tế, lục thô. Tam tế gồm có: Nghiệp tướng vô minh, Chuyển tướng vô
minh, và Hiện tướng vô minh.
Lục thô gồm
có: Trí tướng vô minh, Tương tục tướng vô minh, Chấp thủ tướng vô minh, Kể danh
tự tướng vô minh, Khởi nghiệp tướng vô minh và Nghiệp hệ khổ tướng vô minh.
Cõi phàm phu thì bị kẹt đủ trong 9 món, Tiểu thừa hữu học phá
trừ được 2 món chót nên còn bị kẹt 7 món. Bực A-la-hán trừ được 3 món chót nên
còn bị kẹt 6 món, và Pháp thân Bồ-tát chỉ còn kẹt 3 món Tế tướng.
BÀI TẬP
Dùng hai chữ Giác và Đại Giác điền vào chỗ trống trong bài cho
đúng cái nghĩa của mỗi câu:
Mê là chúng sanh, . . . .
. . . .là Phật. Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni chứng quả . . . . . . . . . . . . .
dưới cội Bồ-đề, nhờ đời trước được sự thọ ký của Đức Phật Nhiên Đăng, khi tỏ
ngộ . . . . . . . . . . là Tâm không có pháp chi khá đặng. Mới biết . . . . . .
. . . . đối với mê, vì mê nên nói có . . . . . . . . . . . ., đến khi đại ngộ
rồi bèn xưng là . . . . . . . . . . . . . . ., đâu phải là biết cùng không
biết.
Đức Mã Minh khi chưa đắc Đạo, gặp Sư tổ mới hỏi: Cái gì là Phật?
Tổ đáp: Không biết là Phật. Ngài chưa ngộ được nên hỏi tiếp: Tại sao không biết
mà là Phật được. Tổ đáp: Tại sao ngươi biết không biết không phải là Phật? Ngài
Mã Minh liền đại ngộ. Mới biết, . . . . . . . . . . không phải biết cùng không
biết, vì lìa hai pháp đối đãi, bặt đường ngôn ngữ, hết chỗ nghĩ bàn.
Nam
Mô Long Hoa Thượng Hội Di Lặc Tôn Phật.
Kính
Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.
_____________________________________
BÀI 7
VÔ MINH
Vô minh là không sáng suốt, tức là cái tâm mê
lầm tối tăm (Xem bài Chơn-như duyên khởi có nói căn bản vô minh và chi mạt vô
minh).
NGUỒN GỐC VÔ MINH
Ông Phú-lâu-na bạch hỏi Phật: Trước kia tôi
hỏi Đức Thế Tôn, Tánh thể diệu viên minh thanh tịnh bổn nhiên, mà sao thoạt
sanh ra các tướng: núi, sông, đất liền và các tướng hữu vi, thì Thế Tôn đáp
rằng, các tướng nhơn nơi vô minh vọng tưởng khởi ra, nay tôi xin hỏi:
Vô minh vọng tưởng đó lại nhơn đâu mà khởi?
1. Chấp thấy có Vô minh: (có nguồn gốc)
a) Luận về đối pháp thì vô minh đối với
minh (vô minh ¹ minh), nghĩa là vô minh là tiếng phản nghĩa
của minh, vậy vô minh không phải là minh, nhưng nhờ có minh đối đãi nên mới
phát hiện ra vô minh.
b) Luận về Bình đẳng danh dị thể đồng, thì minh
và vô minh là hai tên khác nhau (danh dị) nhưng đồng nhau một bản thể
(Chơn-như). Nên chú ý Chơn-như không phải minh hay vô minh, nhưng trong dụng
tướng mới phát sanh ra minh (tuỳ duyên sạch), vô minh (tuỳ duyên
nhơ). Thế thì nguồn gốc của minh hay vô minh, đều là tâm Chơn-như. Trong các
bài trước nói Vô minh là một thứ lực dụng từ trên tâm thể của chúng sanh mà
phát hiện. Như thế vô minh không phải thực có, nó là một thứ vọng tâm nương nơi
tâm thể của chúng ta mà sanh khởi, thì minh cũng là một thứ lực dụng từ trên
tâm thể của chúng sanh mà phát hiện. Thế thì minh cũng không phải là thực có,
nó là một thứ lực dụng nương nơi tâm thể của chúng ta mà sanh khởi. Cần nên
biết minh và vô minh đều là hai dụng tướng của Bổn tâm, về mặt đối đãi thì
vô minh là vọng, còn minh là chơn, nhưng đối với Chơn-như thì tất cả đều là
vọng hết.
2. Vô minh không có nguồn gốc
Để đáp câu hỏi của ông Phú-lâu-na:
“Vô minh vọng tưởng đó lại nhơn đâu mà khởi?”
Đức Phật nói dụ: Có một người tên Diễn-nhã-đạt-đa ở trong thành Thất La, một
buổi sớm mai lấy gương ra soi, thương cái đầu trong gương có mặt mày thấy đặng,
rồi giận cái đầu của mình sao không thấy mặt mày chi hết, bèn cho là yêu quái,
đương khi không nổi điên vùng chạy. Vậy Phú-lâu-na, người ấy nhơn đâu vô cớ
phát khùng chạy bậy vậy?
— Bạch Thế Tôn, tại người ấy tâm cuồng chớ
không phải nhơn nơi đâu cả.
Phật nói:
— Thể của giác tánh có đủ ba nghĩa: Diệu, Minh, Viên,(1) nhưng bổn lai(2) nó tự viên, tự
minh, tự diệu, nguyên không khi nào có vọng mà nay đã xưng là vọng thì làm sao
có nhơn. Vậy nên biết từ lúc tối sơ, một niệm bất giác đương khi không
sanh ra vô minh vọng tưởng, rồi lần hồi vọng tưởng với vọng tưởng lại nhơn nhau
sanh ra từ kiếp mê nầy chứa đến kiếp mê kia, trải không biết bao nhiêu số kiếp,
nhiều như hột bụi nhỏ, tuy có biện tài như Phật, nhưng không thể vì suy ngược
lại mà phát minh cái nguyên nhơn của nó được? Cái nguyên nhơn của nó gốc không
có, nên lấy gì mà suy? Mê vọng không có nguyên nhơn. Cũng như ban đầu có một
người đương khi không thuyết ra một chuyện nói láo, rồi lần lần truyền bá nhau
cho là thiệt. Nay muốn suy cứu cho kỳ cùng cái nguyên nhơn của chuyện ấy thì
toàn là nói láo, chớ không có gốc rễ chi.
Nhơn của mê vọng là nhơn mê mà sanh mê, tại
ngươi không biết cái mê là vô nhơn nên thành ra tự có, chớ nếu ngươi biết cái
vọng giả là không, thì lúc tối sơ không khi nào có sanh nó. Thế thì vọng tưởng
vô nhơn in như cái tánh điên của Diễn-nhã-đạt-đa, không phải nhơn si dại mà
điên, cũng không phải nhơn cái đầu gốc có điên. Tại y nhận lầm cái bóng của
gương có đầu có mặt thấy đặng, rồi cho mình là mất đầu mà hãi hùng chạy bậy.
Phú-lâu-na, cái tánh vọng tưởng cũng như vậy, nguyên nhơn của nó ở chỗ nào mà
ngươi hỏi?
3. Vô minh không có thực thể làm sao có nguồn
gốc?
Vô minh đâu phải thật có, chỉ do chúng sanh
nhận thấy mê lầm cho nên trong kinh Viên Giác, đức Phật nói:
— Ví như người đau mắt, thấy hoa trong hư
không. Thiện nam tử! Hư không thực không có hoa, người đau mắt nhận lầm. Do
nhận lầm cho nên chẳng những lầm cả tự tánh của hư không mà lại còn lầm cả hoa
kia thực có chỗ sinh. Bởi thế mà vòng quanh trong đường sanh tử nên gọi là vô
minh. Thiện nam tử! Vô minh kia không có thực thể. Như người trong mộng, khi
mộng chẳng phải là không có, tới khi tỉnh dậy, nào đâu có thấy.
Trong kinh Kim Cang chư gia, Tổ giải: Vô minh
đâu phải có thật, tại chúng sanh nhận thấy mê lầm mà ra, cũng như người đi
thuyền thấy bờ chạy, kẻ ngắm trăng thấy trăng dời. Chính mắt họ rõ ràng thấy
như vậy, nhưng nào bờ có chạy bao giờ, chẳng qua thuyền đi mà họ lại trông thấy
bờ chạy, trăng dời. Cái thấy hư vọng ấy gọi là vô minh. Thế thì vô minh đâu
phải thật có, làm sao lại có nguồn gốc mà tầm.
Tất cả chúng sanh, tự tánh vốn vô sinh, nhưng
vọng thấy sinh diệt cho đến nỗi luân chuyển trong đường sanh tử. Nếu biết tự
tánh vô sinh như hư không, không hoa, thì không có luân chuyển, cũng không có
thân tâm phải chịu sanh tử luân chuyển nữa, vì hết sự nhận thấy mê lầm.
I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1) Diệu, minh, viên: Diệu là mầu nhiệm khó nghĩ, khó lường tức là cái lý
thiệt tướng. Trái với thô, trược. Minh là sáng. Viên là tròn, đầy
đủ, hoàn toàn chỉ đức tánh của Phật, của pháp Phật, của Niết bàn.
(2) Bổn lai:
nghĩa là vốn thuở nay, tức là vốn từ thuở bắt đầu tới nay. Ý nói Thể của Giác
tánh từ thuở vô thuỷ tới nay và sắp tới trong vị lai, tánh của nó vẫn luôn luôn
tự diệu, tự viên, tự minh không có giả dối, không có hư vọng.
II. PHẦN VẤN ĐÁP
1) — Vô
minh nghĩa là gì?
— Vô
minh có nhiều nghĩa, nhưng đại khái là không sáng, tâm tánh ám độn không hiểu
rõ những pháp về sự và lý, sự nhận lầm do cái tâm ngu tối như bờ chạy, trăng
dời. Bờ đâu có chạy mà mình ngồi dưới thuyền đang chèo lại trông lên bờ thấy bờ
chạy, trăng đâu có dời mà vì mây bay mình lại thấy trăng dời v.v…
2) — Vô
minh có hay không?
— Vô
minh không phải thật có, cũng không phải thật không, ví như trong mộng thì thấy
thật có, nhưng tỉnh dậy thì nào có gì.
3) — Tại
sao có vô minh?
— Vì
đối với minh nên mới có vô minh, không có minh đối đãi lẽ cố nhiên không có vô
minh.
4) — Minh
và Vô minh có thực thể không?
— Minh
và Vô minh không có tự thể, hai thứ nầy là một thứ lực dụng nương nơi Tâm thể
của chúng ta mà phát hiện, mà sanh khởi.
5) — Đức
Phật giảng Vô minh không có nguồn gốc ra sao?
— Đức
Phật nói dụ tên Diễn-nhã-đạt-đa một buổi sớm mai lấy gương ra soi, thương cái
đầu trong gương có mặt mày thấy đặng, rồi giận cái đầu của minh sao không thấy
mặt mày chi hết, bèn cho là yêu quái, đương khi không nổi điên phát chạy.
Vậy Diễn-nhã-đạt-đa nhơn nơi đâu
vô cớ phát khùng chạy bậy? Ông Phú-lâu-na đáp: Tại người ấy tâm cuồng chớ không
phải nhơn đâu cả. Thế thì vọng tưởng vô nhơn in như cái tánh điên của
Diễn-nhã-đạt-đa, không phải ai dạy mà điên, cũng không phải nhơn cái đầu gốc có
điên, mà tại y nhận lầm cái đầu của y không có mặt mày nên hãi kinh chạy bậy.
III. PHẦN TOÁT YẾU
Vô minh là Tâm không sáng. Vô minh không có thực thể, chỉ lấy
Tâm Chơn-như làm thể, thế thì vô minh không phải thực có. Có hai thứ vô minh:
1) là vô minh căn bản, tức là vô minh cội gốc.
2) là vô minh chi mạt tức là vô minh ngọn ngành.
Đức Phật nói tích Diễn-nhã-đạt-đa để chỉ vô minh vọng tưởng vốn
không có nhơn, in như cái tánh điên của Diễn-nhã-đạt-đa vậy.
THẢO LUẬN
Tâm Chơn-như không có minh hay vô minh, nhưng tuỳ duyên sạch
sanh ra minh (Phật), tuỳ duyên nhơ sanh ra vô minh (chúng sanh). Xin hỏi Minh
có trước hay vô minh có trước?
Nếu vô minh có trước tức là chúng sanh có trước Phật, vậy ai dạy
chúng sanh tu thành Phật?
Còn Phật có trước thì ai mê mà làm chúng sanh dẫy đầy trong Tam
Thiên, Đại Thiên thế giới?
Nam
Mô Long Hoa Thượng Hội Di Lặc Tôn Phật.
Kính
Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.
_____________________________________
BÀI 8
DIỆU DỤNG VÔ NGẠI
(CHƠN NHƯ DỤNG)
Diệu dụng là sự công dụng mầu diệu khó nghĩ
lường của Bổn tâm Chơn-như, không còn bị phiền não vô minh chướng ngại, che lấp
Thánh Đạo, làm hại thiện tâm, nên gọi là vô ngại.
Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, đức Phật dạy: “Vả
như chúng sanh trái tánh mà Chơn-như còn tuỳ theo duyên nhiễm uế, thành ra các
tướng thế gian thay, huống chi thuận tánh diệu tu lại lẽ nào Chơn-như chẳng tuỳ
mà phát ra những điều diệu dụng.”
Sao gọi là diệu dụng?
Pháp giới có ba phẩm:
1. Pháp giới lý vô ngại
2. Pháp giới lý sự vô ngại
3. Pháp giới sự sự vô ngại.
Pháp giới là cảnh giới hiện bày của muôn pháp,
tức là vạn vật trong vũ trụ ở trước mắt ta. Pháp giới có nhiều nghĩa nhưng
không ngoài sự và lý. Phẩm là hạng, bực.
1. Pháp giới lý vô ngại:
Lý là lẽ phải không biến đổi, không sai chạy,
tức là chơn lý, lý tánh Chơn-như, đối nghĩa là sự, có lý mới có sự.
Pháp giới lý vô ngại nghĩa là cảnh giới của
muôn pháp đều do thể tánh Chơn-như (lý) tuỳ duyên sanh ra không có chi ngăn
ngại, nên trong kinh Thủ Lăng Nghiêm nói: “Phật từ nơi thể Chơn-như, khởi ra
dụng Chơn-như, thì pháp giới lý đã khởi cái duyên vô ngại rồi.”
2. Pháp giới lý sự vô ngại:
Đức Phật dạy: Còn như pháp giới lý sự vô ngại,
như ước lại mà nói thì lý không phân đặng, nên lý thuộc về một, còn sự thì
không cùng, nên sự thuộc về vô lượng. Lý không phân hạn, nên lý thuộc về lớn,
còn sự có phân hạn, nên sự thuộc về nhỏ. Vì lẽ như vậy một làm vô lượng, vô
lượng làm một, trong nhỏ hiện lớn trong lớn hiện nhỏ mà thành cái pháp giới lý
sự vô ngại vậy.
3. Pháp giới sự sự vô ngại:
Nếu nói ước lại một bụi, một lông, một thân,
một cõi, giai (đều là) là một;
nhiều bụi, nhiều lông, nhiều thân, nhiều cõi, giai là nhiều. Hột bụi tí,
đầu sợi lông giai là nhỏ, cõi vô biên thân, vô biên giai là lớn.
Vì lẽ như vậy nên một làm vô lượng, vô lượng làm một, trong nhỏ hiện lớn, trong
lớn hiện nhỏ mà thành pháp giới sự sự vô ngại vậy.
Cái pháp giới vô ngại đó nguyên thiệt, không
phải hư, như chẳng động đạo tràng(1)
mà thân(2) khắp cả mười
phương thế giới, đó là một làm vô lượng. Còn một thân mà hàm cả hư không vô tận
mười phương, đó là vô lượng làm một.
Nơi đầu sợi lông là Chánh báo,(3)
mà hiện các cõi Phật là Y báo,(4) ngồi trong hột bụi tí là Y
báo, mà chuyển bánh xe pháp rất lớn là Chánh báo, vậy không phải
trong nhỏ mà hiện lớn hay sao? Đó đều là trong cái Trí Như lý(5) mà hiện ra cái Cảnh Như
lượng(6)
vậy.
Bởi các Phật chuyển cái Tâm “bội giác hiệp
trần” mà diệt trần hiệp giác, nên mới chuyển cái tướng trần lao mà phát cái
tánh “Chơn Diệu Giác Minh.”
Tại sao chư Phật được vô ngại, chúng sanh lại
hữu ngại?
Chúng sanh vì trái tánh Chơn-như tuỳ theo
duyên nhiễm uế mà thành ra các tướng thế gian nên hữu ngại, còn chư Phật thuận
tánh, Diệu tu, nên Chơn-như tuỳ duyên phát ra những diệu dụng vô ngại.
Chư Phật sở dĩ vô ngại là do chỉ dùng cái Tánh
Diệu Minh bất sanh bất diệt trong lục căn dung hiệp với Tạng Như Lai, Sắc-Không
sanh diệt, duy có một Tánh Diệu Giác Minh tròn soi pháp giới mà thôi. Đó là lấy
cái Trí Như như(7) hiệp
với Lý Như như(8) mà trụ
trì cái Tạng Đại Quang Minh là vậy.
Chúng sanh thì bội giác hiệp trần nên
hữu ngại, còn chư Phật thì Diệt trần hiệp giác nên vô ngại. Chư Phật vô
ngại là tại toàn tướng thành tánh, chớ tánh tướng có khác nhau đâu.
Vả chăng cái Diệu tánh ở nơi chúng sanh, tuy
là Diệu thể, đã hàm đủ diệu dụng rồi, nhưng cũng phải lấy cái diệu trí (Trí Diệu Minh)(9) phát ra mới
đặng. Ví như đờn cầm, đờn sắc, đờn tỳ bà, ống tiêu ống sáo, tuy có cái tiếng
điệu mà nếu không nhờ có ngón tay điệu, thì tiếng điệu do đâu mà phát ra đặng?
Nay tất cả chúng sanh không có cái Trí Diệu
Minh cũng như thế. Tuy là cái hữu diệu Chơn tâm ai cũng sẵn đủ, ai cũng viên
mãn, nhưng chư Phật đắc chỉ ư tâm, ứng chi ư thủ, nên chư Phật án ngón tay thì
cái quang minh của hải ấn tức là cái Tâm thường trụ chánh định rực rỡ chiếu
khắp vô lượng thế giới, giai thành ra diệu dụng cả.
Chúng sanh không có Diệu trí là bởi không cần
cầu cái Đạo Vô thượng giác, mà cứ ưa nghĩ theo Tiểu thừa muốn những điều công
khoẻ lợi gần, đặng ít cho là đủ, nên Trí mới thành ra như vậy.
Chúng sanh nhất thiết hữu ngại là tại nghiệp
thức chưa không, vọng kiến chưa phá, cứ tuần theo nghiệp sắc không, thay
nhau khuynh đoạt nơi tánh Như Lai tạng, như phàm phu ngoại đạo thì bội không xu
có, đó là tuần theo nghiệp sắc mà khuynh đoạt nghiệp không. Còn bực Quyền Tiểu
Nhị thừa thì bội có xu không, đó là tuần theo nghiệp không mà khuynh đoạt(10) nghiệp sắc.
Vì tương khuynh, tương đoạt như vậy mà Tạng
Như Lai tuỳ theo hiện sắc, hiện không làm cho sắc không đầy khắp thế giới, nên
trong khi mở mắt ra thì thấy những vật tượng rất nhiều như gió thì động, hư
không thì tịnh, động tịnh thường giao ngại nhau, mặt trời thì sáng, mây mù thì
tối, sáng tối xô lộn nhau, cho đến đất với hư không chẳng dung nhau, nước với
lửa lấn hại nhau. Ngờ đâu các tướng gốc là hư vọng, chỉ nhơn chúng sanh bị màn
vô minh che lấp, nghiệp lực nó sai sử nên thành ra mê muộn.
Mê thuộc về chúng sanh có tư tưởng như chúng
sanh ở cõi hạ giới và tam đồ v.v… Muộn
thuộc về chúng sanh không tư tưởng, như chúng sanh ở cõi Thượng giới (Tứ không
Thiền thiên và bực Nhị thừa v.v…).
(Muộn [悶] nghĩa là bị
giam hãm, che kín trong một không gian và thời gian nào đó, không biết hoặc
không quan tâm đến mọi thứ xung quanh.)
I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1) Đạo tràng:
Khoảnh đất nơi ấy Phật ngồi Đại định mà thành Đạo, nghĩa thứ hai là chỉ Tâm thể
Như như bất động của Phật đã tu chứng đặng.
(2) Thân:
(Thân khắp mười phương) nơi dây chỉ Pháp thân.
(3) Chánh báo:
1. của chúng sanh là cái thân thể ngũ uẩn hoặc tốt, xấu, yểu hoặc thọ, thông
hoặc ngu muội. 2. của Phật là thân 32 tướng chánh, 80 tướng phụ.
(4) Y báo:
của chúng sanh là cảnh vật, như nhà cửa làng xóm, đất nước, xã hội nơi mình
sanh ra, của Phật là cõi thế, như Y báo của Phật Thích Ca là cõi ta bà, của
Phật A Di Đà là cõi Cực lạc.
(5) Trí như lý: Trí vô phân biệt.
(6) Cảnh như lượng: Cảnh giới của muôn pháp.
(7) Trí như như: Cũng như trí như lý, thuộc về Tánh.
(8) Lý như như: Thể thanh tịnh.
(9) Trí Diệu Minh: Tánh Phật sáng suốt, mầu diệu khó lường của Phật.
(10) Khuynh đoạt:
Đánh đổ để cướp đoạt.
II. PHẦN VẤN ĐÁP
1) — Diệu
dụng vô ngại nghĩa là gì?
— Là
công dụng diệu mầu của bổn tâm Chơn-như không còn bị phiền não, vô minh chướng
ngại.
2) — Diệu
dụng có mấy phẩm?
— Có
ba phẩm là: Pháp giới lý vô ngại, Pháp giới lý sự vô ngại, và Pháp giới sự sự
vô ngại.
3)
— Pháp
giới lý vô ngại nghĩa là gì?
— Là
cảnh giới của muôn pháp đều do thể tánh Chơn-như tuỳ duyên sanh ra không có chi
ngăn ngại.
4) — Pháp
giới lý sự vô ngại nghĩa là gì?
— Là
lý thuộc về một, lớn, còn sự thuộc về vô lượng, nhỏ. Vì lẽ như vậy nên một làm
vô lượng, vô lượng làm một, trong nhỏ hiện lớn, trong lớn hiện nhỏ làm thành
cảnh giới của muôn pháp.
5) — Pháp
giới sự sự vô ngại nghĩa là gì?
— Nói
về sự thì một bụi, một lông, một thân giai là một, nhiều bụi, nhiều lông, nhiều
thân thì là nhiều. Một bụi, một lông, một thân là nhỏ, nhiều bụi, nhiều lông,
nhiều thân giai là lớn. Vì lẽ như vậy nên một làm vô lượng, vô lượng làm một,
trong nhỏ hiện lớn, trong lớn hiện nhỏ mà thành pháp giới sự sự vô ngại.
6) — Tại
sao chúng sanh lại hữu ngại, còn chư Phật được vô ngại?
— Chúng
sanh bị hữu ngại, vì hành động trái với tánh Chơn-như, bội giác hiệp trần.
Nghiệp thức chưa không, vọng kiến
chưa phá, cứ tuần theo nghiệp sắc không mà khuynh đoạt.
Không có Diệu trí (Trí Diệu Minh)
bởi không cần cầu cái Đạo Vô thượng giác, mà cứ ưa theo Tiểu thừa, muốn những
điều công khoẻ lợi gần, đặng ít cho là đủ nên trí mới thành ra như vậy, còn
Phật thì thuận tánh diệu tu, Diệt trần hiệp giác, tu chứng đặng cái Diệu trí
(Trí Diệu Minh) nên mới được cái Diệu dụng vô ngại.
III. PHẦN TOÁT YẾU
Diệu dụng vô ngại là công dụng diệu mầu của bổn tâm Chơn-như
không còn bị phiền não, vô minh chướng ngại. Diệu dụng có ba phẩm là: Pháp giới
lý vô ngại, Pháp giới lý sự vô ngại, và Pháp giới sự sự vô ngại.
Cảnh giới của muôn pháp đều do Thể tánh Chơn-như tuỳ duyên sanh
ra, nên gọi là Pháp giới Lý vô ngại. Lý thuộc về một, lớn, còn sự thuộc về vô
lượng, nhỏ. Vì lẽ như vậy nên một làm vô lượng, vô lượng làm một, trong lớn
hiện nhỏ, trong nhỏ hoá lớn nên gọi là Pháp giới lý sự vô ngại. Còn Pháp giới
sự sự vô ngại là một bụi, một lông, một thân là một, thì nhiều bụi, nhiều lông,
nhiều thân là nhiều. Một bụi, một lông, một thân là nhỏ, nhiều bụi, nhiều lông,
nhiều thân là lớn. Vì lẽ đó một làm vô lượng, vô lượng làm một, trong nhỏ hiện
lớn, trong lớn hiện nhỏ mà thành ra Pháp giới sự sự vô ngại.
Chúng sanh trong dụng tướng thì hữu ngại, vì không có Trí Diệu
Minh, còn Phật được vô ngại vì tu chứng được cái Diệu Trí, rõ biết được toàn
tướng thành tánh chớ tướng tánh có khác nhau đâu.
BÀI TẬP
Trong kinh nói: Tất cả chúng sanh đều có cái Bửu giác Chơn tâm,
ai cũng sẵn đủ, nhưng tại chúng sanh không cần cầu cái Đạo Vô thượng giác, nên
không có cái Trí Diệu Minh để phát sanh ra Diệu dụng vô ngại được.
Vậy xin hỏi:
1. Cái gì là cái Trí Diệu Minh? Phải cần tu mới có hay sẵn có?
2. Cầu cái Đạo Vô thượng giác là cầu cách nào? Phải tu cách nào?
Nam
Mô Long Hoa Thượng Hội Di Lặc Tôn Phật.
Kính
Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.
_____________________
GHI CHÚ VỀ THUẬT NGỮ “DIỆU DỤNG VÔ NGẠI”: Diệu trí
chứng được lý của thật tướng gọi là viên thông; tánh thể cùng khắp là viên,
diệu dụng không ngăn ngại là thông; biến mãn cùng khắp tất cả, dung
thông vô ngại. Vì ngộ được chơn như nhờ trí tuệ, mà bản chất chơn như là thực tại
tròn đầy cùng khắp, tác dụng của nó tự tại, nên được gọi là viên thông. Hoặc lấy
trí tuệ để thông đạt đạo lý cũng như thực tại của chơn như, cũng được gọi là
viên thông. (Ghi chú của BCHĐĐTW).
_____________________________________
BÀI 9
NGUYÊN NHÂN SÂU XA
SANH RA VẠN PHÁP
Ông Phú-lâu-na hỏi Phật: Tánh Như Lai Tạng là
thanh tịnh bản nhiên mà sao lại thoạt nổi lên núi, sông, đất liền và các tướng
hữu vi? Để giải đáp điểm thắc mắc nầy, nghĩa là tánh Như Lai Tạng là thanh tịnh
bản nhiên, nhưng do nơi nguyên nhân nào mà lại sanh ra vạn pháp? Muốn tìm cái
nguyên nhân ấy, Đức Phật mới hỏi lại ông Phú-lâu-na: Vậy lâu nay ngươi không
nghe Ta thường nói câu: Tánh giác(1)
Diệu Minh, Bản giác(2)
Minh Diệu hay sao?
— Bạch, tôi có nghe nói cái nghĩa ấy.
— Phú-lâu-na, vậy hai chữ giác minh trong câu
đó, ý của ngươi hiểu ra làm sao? Ngươi nói cái Tánh vẫn tự sáng mà gọi là giác
hay là nói cái giác có chỗ chẳng sáng, nên phải sáng cái giác ấy ra mới gọi là
giác minh?
— Bạch Thế Tôn! Nếu cái chẳng sáng ấy mà vội
kêu là giác thì cái giác ấy tất không có cái chỗ sáng.
Phật gạn hỏi lại ông Phú-lâu-na:
— Ngươi nói nếu không có chỗ sáng thì không
thể nào gọi là Minh giác. Đó là ngươi lầm! Tánh của Bản giác nguyên không nói
đặng cái sự có chỗ sáng và không chỗ sáng. Hễ có chỗ sáng thì thuộc về vọng
kiến phân biệt chớ không phải là giác, còn không chỗ sáng thì thành ra mờ ám,
mà mất cái chiếu thể thì không phải là minh, mà đã không phải minh thì tức là
vô minh, chớ đâu phải là cái tánh trong sạch sáng suốt của Bản giác.
NGUYÊN NHÂN SANH RA TẾ TƯỚNG TRƯỚC TIÊN
Nguyên lai cái giác của bổn tánh tất đã sẵn đủ
cái sáng bản hữu rồi, không đợi cái sáng nào nữa, mà cớ gì đương khi không
ngươi lại gia thêm cái sáng lên trên cái giác làm chi? (chấp minh hay vọng
minh) Có phải lỗi tại ngươi không?
Vả chăng, cái thể của Bản giác, gốc là thanh
tịnh bản nhiên, nguyên chẳng thuộc về sở (chỗ) vì nó không định chỗ, mà đâu
cũng là chỗ của nó, lại nguyên chẳng thuộc về minh (sáng) vì nó không phải sáng
mà đâu cũng là sáng của nó.
Tánh thể của giác như vậy, tại ngươi nhận lầm
nó không sáng mà thêm cái chỗ sáng (sở minh). Do cái thêm đó nên mới đem cái
tánh giác không phương sở (nơi chỗ) mà chuyển thành nghiệp thức. Đã thành ra
nghiệp thức tức là lạc vào phương sở rồi, thì thành ra chuyển cái Trí huệ Quang
minh mà làm cái năng kiến (hay thấy). Nếu đã có cái năng kiến thì phải có cái
sở kiến, tức là đem cái lý cảnh chơn đế không đồng, không khác mà làm thành cái
chỗ bị thấy tức là tướng phần.
Tướng phần thì có nhiều món riêng khác nhau
nhưng cái khác của tướng phần lại khác với cái khác của nghiệp thức, vì cái
khác của nghiệp thức là chỉ ước trong một niệm, còn cái khác của tướng phần thì
suy quảng ra nhiều lắm. Vậy cái khác nầy với cái khác kia là hai cái khác. Nhơn
hai cái khác ấy mà lập ra cái đồng. Rồi cái khác với cái đồng đối đãi nhau mà
lập ra cái không đồng, không khác.
SAO GỌI LÀ KHÔNG ĐỒNG, KHÔNG KHÁC?
Nên biết cái khác là cái tướng có sắc, còn cái
đồng là cái tướng không sắc. Cái tướng không đồng, không khác thì mường tượng
như có hình, nên nó không phải đồng của tướng không khác (nghĩa là nó mường
tượng có hình nên đồng với cái tướng có sắc tức là khác), lại nó mường tượng có
tri giác nên nó cũng không phải cái khác của tướng vô tình (nghĩa là nó mường
tượng như có tri giác [hữu tình] nên nó không phải cái tướng có sắc vô tình
không có tri giác).
Nói tóm lại, mấy tướng trên đó đều là cái
tướng hoảng hốt chưa định của thế giới, hư không và chúng sanh khi còn ở trong
bản thức mà nó ảnh hiện ra như vậy, nghĩa là cái Tâm mới khởi vọng động (nghiệp
tướng vô minh) làm cho trong cái biển Tạng thức gió cảnh xao luôn, như cái
nhoáng bỗng loạn múa giữa trời, thiệt ra bối rối biết mấy. Nếu đã bối rối như
thế thì chi khỏi làm duyên đối đãi nhau mà chuyển sanh lao lự (lo nghĩ mệt
nhọc). Hễ lao lự lâu thì chuyển sanh ra trần cấu (bụi dơ) phải nhơ trược nhau
mà dẫn khởi ra mọi điều trần lao phiền não.
NGUYÊN NHÂN SANH RA CÁC TƯỚNG THÔ TIẾP THEO SAU
Nhơn có các tướng tế mới sanh ra các tướng
thô. Nghiệp lực của vô minh bổn thức, hễ nó khởi mà làm chỗ có tướng thì thành
ra Núi, Sông, Đất liền, các sắc của thế giới, còn nó tịnh mà làm chỗ không
tướng thì thành ra rỗng không, trống trải một màu của hư không. Cái hư không
ấy, tức là cái tướng “đồng” trước kia đến đây mới chắc có, còn cái thế giới ấy
(sắc) tức là cái tướng khác trước kia đến đây mới thành tựu. Cái nguyên nhân
núi, sông, đất liền nổi lên là tại như vậy. Còn như cái tướng không đồng, không
khác ở trong cảnh vi tế trước kia đến đây mới thành ra chúng sanh và nghiệp
quả, rõ ràng là pháp hữu vi. Cái nguyên nhân của các pháp hữu vi nổi lên là tại
như vậy.
Tổng lại tướng thế giới, tướng hư không và các
tướng hữu vi tuy là nhiều, nhưng cứu xét lại cho tới căn nguyên thì đều là ở
trong một hiện tượng Vọng Minh quấy sáng sanh ra cả.
Hễ trong một niệm vọng khởi thì thành ra thế
giới, trong một niệm tối tăm thì thành ra hư không. Hư không là trong một niệm vọng minh sở hiện
ra cái tướng khác. Còn chúng sanh nghiệp quả, các pháp hữu vi tức là trong một
niệm vọng minh sở hiện ra cái tướng không đồng, không khác. Vậy nên phải biết: Một
niệm Vọng Minh là ông tổ của tất cả tướng hữu tình và vô tình vậy.
I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1)
Tánh giác: cái nguyên lý chẳng
dời đổi, chẳng tiêu mất, tức là Phật tánh.
(2)
Bản giác: là Pháp thân của Như
Lai, tức là Thể của Bổn Tâm.
II. PHẦN VẤN ĐÁP
1) — Ông
Phú-lâu-na hỏi Phật ra sao?
— Ông
Phú-lâu-na hỏi Phật: Tánh Như Lai tạng là thanh tịnh bản nhiên, sao lại nổi lên
Núi, Sông, Đất liền và các tướng hữu vi.
2) — Đức
Phật đáp lại như thế nào?
— Đức
Phật hỏi lại ông Phú-lâu-na cái nghĩa của hai chữ Giác Minh trong câu “Tánh
giác Diệu minh, Bản giác Minh diệu” ngươi nói cái Tánh vẫn tự sáng mà gọi là
Giác hay là nói cái Giác có chỗ chẳng sáng, cần phải sáng cái Giác ấy ra mới
gọi là Giác Minh?
3) — Ông
Phú-lâu-na trả lời lại như thế nào?
— Bạch
Thế Tôn, nếu cái chẳng sáng ấy mà vội kêu là Giác thì cái Giác ấy tất
không có cái chỗ sáng.
4) — Đức
Phật bắt sai câu đáp sai của ông Phú-lâu-na ra sao?
— Ngươi
nói nếu không có chỗ sáng thì không thể nào gọi là Minh Giác được. Đó là ngươi
lầm vì Tánh của Bổn giác nguyên không nói đặng cái có chỗ sáng và không
chỗ sáng. Hễ có chỗ sáng thì thuộc về vọng kiến phân biệt chớ không phải là
Giác, còn không chỗ sáng thì thành ra mờ ám mà mất cái chiếu thể thì
không phải là Minh, mà đã không phải là Minh tức là vô minh chớ đâu phải là cái
Tánh trong sạch sáng suốt của Bổn giác.
5) — Cái
niệm mê lầm đầu tiên chấp cho rằng Giác là sáng gọi là gì?
— Gọi
là một niệm Vọng Minh, Ông Tổ của tất cả các tướng hữu tình và vô tình
vậy.
6) — Nguyên
nhân sanh tiếp ba tướng tế ra sao?
— Thể
tánh của Giác không phải là sáng hay không sáng. Vì lẽ lúc tối sơ khởi ra một niệm
chấp minh nên mới sanh ra tiếp theo ba tướng tế như sau đây:
Do thêm cái sáng (chấp minh) lên
trên cái giác, nên mới chuyển cái Tánh giác không phương sở thành ra nghiệp
thức (nghiệp tướng vô minh). Đã thành ra nghiệp thức tức là lạc vào phương
sở rồi nên chuyển cái Trí huệ quang minh làm ra cái năng kiến (kiến
phần). Đã có năng kiến thì phải có cái sở kiến (tướng phần), nên đem cái
lý cảnh Chơn đế không đồng, không khác mà làm thành sở kiến tức là tướng
phần vậy.
Đó là ba tướng tế đầu tiên của
Bổn Tâm trước khi sanh hoá muôn loài, vạn vật.
7) — Nguyên
nhân sanh ra các tướng thô như thế nào?
— Nhơn
có tướng tế mới sanh ra các tướng thô. Nghiệp lực của vô minh bổn thức hễ nó
khởi mà làm chỗ có tướng thì thành ra Núi, Sông, Đất liền, các Sắc của thế giới,
còn nó tịnh mà làm chỗ không tướng thì thành ra rỗng không, trống trải một màu
của hư không. Cái hư không ấy tức là cái tướng đồng trước kia đến đây mới chắc
có, còn cái thế giới ấy (sắc) tức là cái tướng khác trước kia đến đây mới thành
tựu. Còn như cái tướng không đồng, không khác ở trong cảnh vi tế trước kia đến
đây mới thành ra chúng sanh và nghiệp quả, rõ ràng là pháp hữu vi.
III. PHẦN TOÁT YẾU
Nguyên nhân sâu xa sanh ra vạn pháp.
Ông Phú-lâu-na hỏi Phật: Tánh Như Lai tạng bản nhiên thanh tịnh,
sao lại thoạt nổi lên núi, sông, đất liền và các tướng hữu vi?
Đức Phật lấy câu Tánh giác Diệu minh, Bản giác Minh diệu để hỏi
lại ông Phú-lâu-na như sau đây:
Cái Tánh vẫn tự sáng mà gọi là Giác hay là Giác có chỗ chẳng
sáng, cần phải sáng cái Giác mới gọi là Giác minh? Ông Phú-lâu-na đáp: “Nếu cái
chỗ không sáng mà vội gọi là giác thì cái giác ấy tất không có cái chỗ sáng,”
nghĩa là ông Phú-lâu-na chấp giác là sáng.
Đức Phật bèn hỏi tiếp: Ngươi nói nếu không có chỗ sáng thì không
thể nào gọi là Minh giác. Đó là ngươi lầm vì giác tánh nguyên không nói đặng
cái sự có chỗ sáng và không chỗ sáng. Nếu có chỗ sáng thì thuộc về cái vọng
kiến phân biệt chớ không phải là Giác, còn không chỗ sáng thì thành ra
mờ ám má mất cái chiếu thể thì không phải là Minh. Đã không phải là Minh
tức là Vô minh chớ nào phải là Giác.
Đó là nguyên nhân sâu xa sanh ra vạn pháp cũng là cái vọng niệm
đầu tiên làm cho Tịnh thành Động (Nhứt niệm bất giác Tâm khởi động).
Nguyên nhân sanh ra ba tướng tế là do Tâm chấp Minh (sáng ấy)
nên chuyển cái giác (không phải sáng, không phải tối) thành ra nghiệp thức
(nghiệp tướng vô minh). Đã thành ra nghiệp thức tức là lạc vào phương sở rồi
nên chuyển cái Trí huệ quang minh thành ra cái năng kiến (kiến phần), tức là
(chuyển tướng vô minh) và chuyển cái lý cảnh Chơn đế không đồng, không khác
thành ra sở kiến (tướng phần, tức là hiện tướng vô minh).
Nhơn có tướng tế mới sanh ra các tướng thô. Nghiệp lực của vô
minh bổn thức hễ nó khởi mà làm chỗ có tướng thì thành ra núi, sông, đất liền
và các Sắc của thế giới, còn nó tịnh mà
làm chỗ không tướng thì thành ra rỗng không, trống trải một màu của hư không.
Cái hư không ấy tức là cái tướng đồng trước kia đến đây mới chắc có, còn cái
thế giới ấy (sắc) tức là cái tướng khác trước kia đến đây mới thành tựu. Còn như
cái tướng không đồng, không khác ở trong cảnh vi tế trước kia đến đây mới thành
ra chúng sanh và nghiệp quả, rõ ràng là pháp hữu vi.
BÀI TẬP
1) Trong bài nầy Đức Phật cho biết cái Niệm đầu tiên tức là
nguyên nhân sâu xa sanh ra vạn pháp là Một Niệm Vọng Minh.
Xin hỏi: Sao lúc tối sơ không khởi lên một niệm vọng vô minh
(chấp tối) mà lại một niệm vọng minh chấp sáng? Nếu trong lúc tối sơ mà khởi
lên một niệm chấp sáng được thì lẽ cố nhiên khởi lên một niệm chấp tối cũng
được?
2) Lúc Bổn Tâm Chơn-như khởi lên một niệm Vọng minh thì gọi nó
là gì?
Nam
Mô Long Hoa Thượng Hội Di Lặc Tôn Phật.
Kính
Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.
_______________________
GHI CHÚ CỦA BCHĐĐ.TW VỀ “ĐỒNG VÀ KHÁC”:
Về thuật ngữ, có thể
dùng “Đồng và Dị” thay cho “Đồng và Khác” để khi thuyết minh ít bị nhầm lẫn.
Thể tánh của Giác là
chơn không, nguyên chẳng có Đồng và Dị (Phi Đồng Phi Dị), đó mới thật là pháp
vô vi.
1. Do khởi lên một
niệm vọng minh, nên giác tánh bị chuyển từ “Phi Đồng Phi Dị” thành ra Nghiệp
tướng vô minh hay Nghiệp thức. Do thành Nghiệp thức nên giác tánh bị chuyển
thành hai cái Dị (Kiến phần và Tướng phần). Sở dĩ gọi là Dị vì nó khác với cái
Phi Đồng Phi Dị. Cái Dị này là cái tướng có
sắc.
2. Cái Dị của Kiến phần và Tướng phần tự thân
nó hàm chứa cái rỗng rang của Kiến Văn Giác Tri và cái rỗng rang của hư không,
nên bèn sanh ra cái Đồng, là cái
tướng không sắc.
3. Đồng và Dị xoay vần sanh khởi lẫn nhau (tâm sanh chủng chủng pháp sanh) nên
sanh ra cái không Đồng không Dị (vô
Đồng vô Dị), nó mường tượng như có sắc và mường tượng như không sắc. Cái không Đồng không Dị là cái bị sanh (cái
nầy sanh nên cái kia sanh), nên nó chính là pháp hữu vi./-
_____________________________________
BÀI 10
NGUYÊN NHÂN SANH RA
THẾ GIỚI, CHÚNG SANH, NGHIỆP QUẢ
I. TỨ ĐẠI
Chỗ phát thỉ của thế giới là do ở trên cái
giác thể mà khởi ra vọng minh. Nếu vọng minh đã sanh thì thấy cái thể của ngoan
không toàn là mờ tối, rồi cái tối của ngoan không và cái sáng của vọng minh,
hai cái đối đãi nhau mà tâm phát diêu động. Vì có diêu động ấy mới cảm sanh ra Gió,
cho nên phong luân cầm giữ thế giới.
Nhơn cái ngoan không mờ tối tâm phát diêu động
đó, rồi cái vọng giác nhận theo cái sở minh (chỗ sáng) mà kiến chấp(1) luôn. Do cái kiến chấp ấy mới cảm thành ra
chất cứng như: Đất, Đá, Vàng, Thiếc, v.v… cho nên trên phong luân lại có kim
luân bảo trì quốc độ. Bởi cái vọng giác kiến chấp cảm thành chất vàng, còn cái
vọng minh động niệm cảm thành tướng gió. Như vậy nên một bên vàng cứng, một bên
gió động, hai bên chà sát nhau mới sanh ra tướng lửa sáng, lửa tuy không có cái
lực dụng bao hàm cầm giữ như phong luân và kim luân, nhưng lại có cái công năng
biến hoá.
Đã có vàng và có lửa thì ắt phải có nước vì
cái thứ vàng báu trong thế gian đã sẵn có tánh sanh nhuận rồi (thấm ướt) mà hoả
quang lại xông lên nữa thì nước tất phải lưu dật ra nhiều. Vì lý như vậy nên
mới có thuỷ luân hàm cả mười phương thế giới.
II. BỐN CHỖ Ở: BIỂN, BỐN CHÂU ĐỊA CẦU, NÚI, RỪNG
Vô minh nghiệp thức xuất sanh ra bốn món (Đất,
Nước, Lửa, Gió) mỗi món đều có công dụng biến hoá cả, nhưng suy theo bốn chỗ ở
núi, biển, rừng, đất thì công tích của nước, lửa và đất càng rõ hơn. Bởi lửa
xông lên, nước giáng xuống, hai món giao hiệp phát sanh mà tạo thành thế giới,
rồi chỗ ướt mà thấp xuống thì làm biển lớn, đó là chỗ ở của chúng sanh dưới
nước. Còn chỗ khô mà cao lên thì làm doi cồn tức là bốn châu địa cầu, đó là chỗ
ở của chúng sanh trên mặt đất.
Vì cái nghĩa Nước–Lửa cộng lại mà sanh
ra hai chỗ khô, ướt như vậy nên giữa biển thường có ánh sáng của hoả quang xông
lên, còn trong doi cồn thì thường có nước sông rịn chảy.
Thế lực của nước thua lửa, tức là phần thượng
thăng, nhiều thì kết lại thành ra núi cao, đó là chỗ ở của chúng sanh trên núi.
Bởi núi do lửa và nước tạo ra nên đá núi đánh ra lửa, mà tiêu thì ra nước.
Còn thế lực của đất thua nước tức là phần tươi
nhuận, nhiều thì rút lại thành ra cỏ cây, đó là chỗ ở của chúng sanh trong
rừng. Bởi rừng là do nước và đất tạo ra nên cây rừng ép thì ra nước mà đốt thì
thành ra đất.
Tóm lại mấy thứ nói trên, giai gốc nơi vọng
tâm giao cảm mà phát sanh, lần lần thay đổi nhau mà làm nòi giống. Vì nhơn
duyên ấy nên thế giới hết kiếp thành, kiếp trụ, rồi đến kiếp hoại, kiếp không,
bốn kiếp xoay vần cứ nối nhau hoài không dứt.
III. CHÚNG SANH
Chỗ phát thỉ của chúng sanh là do nơi vọng
minh khởi lên làm cho tánh minh mê mất mà thành ra vô minh, rồi lại do vô minh
biến thành ra ngoan không. Cái sở biến của ngoan không vọng sắc và cái năng
biến của vọng minh vọng tưởng, hai cái hoà hiệp lại mà biến khởi ra Tứ đại
(đất, nước, lửa, gió). Đến lúc ấy mới có những khí giới (núi, biển, cỏ, cây,
vàng, đá) các sắc Y báo ở ngoài. Rồi các sắc Tứ đại và cái tâm vọng tưởng xen
lộn nhau biến khởi ra căn thân (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) khi ấy mới có các
sắc chánh báo ở trong. Ấy gọi là sắc với tâm hoà hiệp nhau mà ngũ ấm (sắc, thọ,
tưởng, hành, thức) đều đủ trong thân mạng của chúng sanh cả.
Từ sáu trần vọng hiện ở ngoài, sáu căn vọng
lập ở trong, căn trần đối nhau nên cái Tạng thức mới phân khai ra kiến, văn,
giác, tri mà khiến cho nghiệp càng ngày càng thêm. Đó là cái chỉ nhơn của bốn
loài Noãn, Thai, Thấp, Hoá.
Căn, trần, thức là ba nghiệp tánh, hễ nghiệp
tánh ấy khởi ra thì hoặc cảm mà làm đồng nghiệp, hoặc cảm mà làm hiệp ly.
Đồng nghiệp là nhơn theo nghiệp của cha mẹ và
nghiệp của mình, ba nghiệp đồng nhau, vấn vít nhau mà có sự sanh sản như loài
có con và loài đẻ trứng vậy.
Hiệp ly là nói chỉ do nội nghiệp của mình chớ
chẳng nhơn theo nghiệp của cha mẹ, tức như loài thấp sanh thì hiệp với khí ướt
mà thành hình như các loài máy cựa ở dưới đất.
Còn loài hoá sanh thì ly cái nguyên chất ra mà
thoát hoá như các thứ bông hoá sâu, lúa hoá mọt, cỏ mục hoá đom đóm.
Thai sanh là loài thọ khí phần của cha mẹ mà
sanh ra. Khí phần có bốn thứ:
1. Vận động thuộc về gió,
2. Xương thịt thuộc về đất,
3. Hơi nóng thuộc về lửa,
4. Tinh huyết thuộc về nước.
Bốn thứ ấy đều có âm dương, hễ âm dương giao
cấu nhau thì thành ra thai bào. Song tuy giao cấu mà không nhơn theo Sát, Đạo,
Dâm, tham ái thì cũng chẳng thành thai đặng. Bởi vì có sự sát, đạo, làm nợ nần,
sự tham dâm làm nhơn duyên và tình ái làm mai mối, rồi cái thần thức của trung
ấm thấy cha mẹ đồng nghiệp với mình đó giao cấu nhau mới đi tới mà đầu thai.
Nói tóm lại, Noãn, Thai, Thấp, Hoá bốn loài
chúng sanh đó, giai lấy cái định nghiệp mà tương cảm nhau, cho nên cái định báo
của chúng sanh cũng tuỳ theo chỗ mà cảm ứng. Như loài sanh trứng thì ứng theo
cái loạn tưởng mà sanh. Loài sanh thai thì ứng theo tình ái mà sanh. Loài thấp
sanh thì ứng theo hiệp mà sanh, tức là nương phụ với thấp khí. Loài hoá sanh thì
ứng theo ly mà sanh, tức là phụ đây mà tới kia vậy.
Song tình, tưởng, hiệp, ly trong bốn giới ấy
vốn không nhứt định, hoặc tình biến làm tưởng, hoặc hiệp biến làm ly, hoặc
trứng đổi làm thai, hoặc thấp đổi làm hoá. Vậy nên sự tuỳ nghiệp thọ báo, cũng
có thứ bay trở lại làm thứ lặn, như chim se sẻ hoá thành con vọp, cũng có thứ
lặn mà trở thành thứ bay như cá hoá long. Đại để những chuyện kỳ kỳ quái quái
như vậy rất nhiều, thay hình đổi xác, quay lộn luôn luôn. Vì thế nên chúng sanh
thường có hoài không khi nào dứt.
IV. NGHIỆP QUẢ
Nghiệp quả của nhơn loại có ba nguyên nhơn:
1. Tất cả nhơn loại đều bị tình ái ràng buộc,
không ly nhau đặng, nên trong thế gian cha mẹ con cháu thường nối nhau mà sanh
sản hoài. Đó là lấy sự tham dâm dục làm gốc.
2. Có tham dục tất phải có thân mạng, nếu có
thân mạng thì phải nhờ sự bổ dưỡng nên mới nuôi loài súc vật. Rồi loài súc vật
lại tham sự cưng nuôi của người, người lại tham huyết thịt của nó, tham qua
tham lại chẳng cùng, vì vậy nên loài tứ sanh trong thế gian yếu chết mạnh ăn,
thay đổi ăn lộn nhau, đó là lấy sự tham sát hại làm gốc.
3. Bởi cái nghiệp sát hại thạnh hành, nên
người ăn thịt thú, thú chết trở lại làm người, người chết trở lại làm thú, từ
một loài cho đến mười loài, tử tử, sanh sanh, vay trả xoay vần, cứ ăn lộn nhau
mãi. Vì có ác nghiệp vậy nên đời kiếp nào cũng đồng sanh nhau một chỗ đặng gặp
nhau mà trả nợ nhau, trả từ kiếp nầy qua đến kiếp khác, thẳng tới vị lai, vô số
về sau, cũng không thể dứt đặng. Đó là lấy sự tham trộm cắp làm gốc.
Cái nghĩa tham trộm cắp trên đây là nói phàm
vật gì chẳng cho mà lấy tức là trộm cắp. Như các loài thú nguyên nó không phải
đem tánh mạng của nó đưa cho mình sát, vì mình tham ăn thịt mà sát nó nên gọi
là trộm cắp. Vả lại người ăn thịt nó làm cho nó chết oan uổng, vì lẽ như vậy
nên vật chết trở lại làm người, rồi người chết trở lại làm vật, sát hại lẫn
nhau mà trả nợ oán cừu không khi nào dứt. Xem đó thì biết, cội gốc của nghiệp
sát, đạo, dâm cấu kết thì cái nghiệp quả của chúng sanh biết đời kiếp nào cho
dứt.
Bây giờ nói tổng lại, như thế gian chúng sanh,
nghiệp quả, ba món điên đảo nối nhau đó, tuy là mỗi món khác nhau, nhưng cứu
tới căn do thì đều gốc nơi bổn thể của tánh-giác-diệu-minh trong lúc tối sơ,
bất giác động niệm mà thành ra nghiệp thức gọi là giác minh (biết sáng)
rồi nhơn cái giác minh ấy mới chuyển ra làm cái tánh-minh-liễu-tri (sáng rõ
biết) mà thành phần kiến (phần thấy). Lại nhơn có cái liễu tri phát ra
cái cảnh tướng mà thành phần tướng. Vậy biết rằng phần tướng thiệt do
nơi vọng kiến(2) sanh ra.
Thế thì cái nguyên nhơn của núi, sông, đất
liền và chúng sanh nghiệp quả, hết thảy các tướng hữu vi đó nó lưu chuyển có
lớp lang, sau nối lại trước, trước nối lại sau là nhơn nơi cái hư vọng của
nghiệp thức điên đảo mà thành ra vậy.
I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1) Kiến chấp:
cầm giữ cái thấy biết đó luôn không rời.
(2) Vọng kiến:
cái thấy hư vọng, không chơn thiệt, không đúng với chơn lý.
II. PHẦN VẤN ĐÁP
1) — Chỗ
sanh khởi của Tứ đại ra sao?
— GIÓ:
trên giác thể khởi ra vọng minh liền thấy cái thể của ngoan không mờ tối. Rồi
cái tối của ngoan không với cái sáng của vọng minh, hai cái đối đãi với nhau mà
tâm phát diêu động và mới cảm sanh ra gió tức là phong luân.
ĐẤT, Đá, Vàng, Vật cứng: nhơn cái
ngoan không mờ tối, tâm phát ra diêu động đó, rồi cái vọng giác nhận theo cái
sở minh (chỗ sáng) mà kiến chấp luôn mới cảm thành ra chất cứng Đất, đá, vàng,
v.v… tức là kim luân.
LỬA: Bởi cái vọng giác kiến chấp
cảm thành chất vàng, còn cái vọng minh động niệm cảm thành tướng gió, hai bên
chà xát nhau mới sanh ra lửa sáng, tức là hoả luân.
NƯỚC: Đã có vàng và có lửa thì
phải có nước vì hoả quang (lửa) xông lên đốt vàng nên cảm sanh ra nước, tức là
thuỷ luân, hàm cả mười phương thế giới.
2) — Cách
thức sanh ra bốn chỗ ở của chúng sanh (biển, bốn châu địa cầu, núi, rừng) ra
sao?
— a.
Sanh ra biển: Bởi lửa xông lên, nước giáng xuống, hai món giao hiệp phát
sanh mà tạo thành thế giới. Cái chỗ ướt mà thấp xuống thì làm biển lớn. Đó là
chỗ ở của chúng sanh dưới nước.
b. Bốn châu địa cầu: Còn
cái chỗ khô mà cao lên thì làm doi cồn tức là bốn quả (châu) địa cầu, đó là chỗ
ở của chúng sanh trên mặt đất.
c. Núi: Nếu thế lực của
nước thua lửa tức là phần thượng thăng nhiều thì kết lại thành ra núi cao, đó
là chỗ ở chúng sanh trên núi.
d. Rừng: Nếu thế lực của
đất thua nước tức là phần tươi nhuận nhiều thì rút lại thành ra cỏ cây, đó là
chỗ ở của chúng sanh trong rừng.
3) — Chỗ
phát thỉ của chúng sanh ra sao?
— Khi
đã có Tứ đại (đất, nước, lửa, gió) và khí giới (núi, biển, cỏ, cây, vàng, đá)
tức là các sắc Y báo ở ngoài, rồi các sắc Tứ đại và cái tâm vọng tưởng hai thứ
xen lộn nhau biến khởi ra căn thân (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) khi ấy mới có
các sắc chánh báo ở trong. Ấy gọi là sắc với tâm hoà hiệp nhau mà ngũ ấm (sắc,
thọ, tưởng, hành, thức) đều đủ trong thân mạng của chúng sanh cả.
Từ sáu trần vọng hiện ở ngoài,
sáu căn vọng lập ở trong, căn trần đối nhau nên cái Tạng thức mới phân khai ra kiến,
văn, giác, tri mà khiến cho nghiệp càng ngày càng thêm. Đó là cái chỉ nhơn
của bốn loài Noãn, Thai, Thấp, Hoá.
4) — Nghiệp
quả của nhơn loại như thế nào?
— Có
ba nguyên nhơn:
a. Tất cả nhơn loại đều bị
tình ái buộc ràng không ly nhau đặng, nên trong thế gian cha mẹ con cháu thường
nối nhau mà sanh sản hoài. Đó là lấy sự tham dâm dục làm gốc.
b. Có tham dục tất phải có
thân mạng nên nuôi súc vật để bổ dưỡng. Vì vậy nên mới có sự sát hại nhau. Đó
là lấy sự tham sát hại làm gốc.
c. Bởi cái nghiệp sát hại thạnh hành nên người ăn thịt thú, thú
chết trở lại làm người, người chết trở lại làm thú, từ một loài cho đến mười
loài, tử tử, sanh sanh, vay trả xoay vần cứ ăn lộn nhau mãi. Đó là lấy sự tham
trộm cắp làm gốc. Cái nghĩa tham trộm cắp trên đây là nói phàm vật gì chẳng
cho mà lấy tức là trộm cắp, như các loài thú nguyên nó không phải đem tánh mạng
của nó đưa cho mình sát, vì mình tham ăn thịt mà sát nó nên gọi là trộm cắp.
III. PHẦN TOÁT YẾU
Nguyên nhơn sanh ra thế giới, chúng sanh và nghiệp quả, trước
hết phải có Tứ đại làm gốc. Trên giác thể khởi ra vọng minh liền thấy cái thể
của ngoan không mờ tối. Rồi cái tối của ngoan không với cái sáng của vọng minh,
hai cái đối đãi với nhau mà Tâm phát ra diêu động mới cảm sanh ra gió (phong luân).
Nhơn cái ngoan không mờ tối mà Tâm phát ra diêu động đó, rồi cái
vọng giác nhận theo cái sở minh mà kiến chấp luôn mới cảm thành ra chất cứng
(vàng, đất, đá) tức là kim luân.
Bởi cái vọng giác kiến chấp cảm thành chất vàng, còn cái vọng
minh động niệm cảm thành tướng gió, hai bên chà xát nhau mới sanh ra lửa sáng.
Đã có vàng và có lửa thì phải có nước vì hoả quang xông lên đốt
vàng nên cảm sanh ra nước (thuỷ luân) hoà cả mười phương thế giới.
Bốn chỗ ở của chúng sanh cũng đều do nơi đất nước lửa sanh ra
cả. Bởi lửa xông lên nước giáng xuống, hai món giao hiệp phát sanh mà tạo thành
thế giới. Cái chỗ ướt mà thấp xuống thì làm biển lớn. Đó là chỗ ở của chúng
sanh dưới nước. Còn chỗ khô mà cao lên thì làm doi cồn tức là bốn quả (bốn
châu) địa cầu. Đó là chỗ ở của chúng sanh trên mặt đất. Nếu thế lực của nước
thua lửa tức là phần thượng thăng nhiều thì kết lại thành ra núi cao, đó là chỗ
ở của chúng sanh trên núi. Nếu thế lực của đất thua nước tức là phần tươi nhuận
nhiều thì rút lại thành ra rừng cây. Đó là chỗ ở của chúng sanh trong rừng.
Chỗ phát thỉ của chúng sanh là khi đã có Tứ đại và khí giới tức
là các sắc Y báo ở ngoài, rồi các sắc Tứ đại và Tâm vọng tưởng hai thứ xen lộn
nhau biến khởi ra căn thân. Khi ấy mới có các sắc Chánh báo ở trong. Ấy gọi là
sắc với Tâm hoà hiệp nhau mà ngũ ấm (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) đều đủ trong
thân mạng của chúng sanh cả.
Nghiệp quả của nhơn loại có ba nguyên nhơn dưới đây:
a. Tất cả nhơn loại đều bị tình ái ràng buộc không ly nhau đặng,
nên trong thế gian cha mẹ, con cháu thường nối nhau mà sanh sản hoài. Đó là lấy
sự tham Dâm dục làm gốc.
b. Có sự tham dục tất phải có thân mạng nên mới nuôi loài súc
vật để bổ dưỡng. Vì vậy nên mới có sự sát hại nhau. Đó là lấy sự tham Sát hại
làm gốc.
c. Bởi cái nghiệp sát hại thạnh hành nên người ăn thịt thú, thú
chết trở lại làm người, người chết trở lại làm thú, từ một loài cho đến mười
loài tử tử sanh sanh, vay trả xoay vần cứ ăn lộn nhau mãi. Đó là lấy sự tham
trộm cắp làm gốc.
Cái nghĩa tham trộm cắp trên đây là nói phàm vật gì chẳng cho mà
lấy tức là trộm cắp. Như các loài thú nguyên nó không phải đem tánh mạng của nó
đưa cho mình sát, vì mình tham ăn thịt mà sát nó nên gọi là trộm cắp.
Nam
Mô Long Hoa Thượng Hội Di Lặc Tôn Phật.
Kính
Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.
_____________________________________
BÀI 11
TỨ CÚ KỆ KIM CANG
“Tứ Cú Kệ Kim Cang là nhãn mục của
bộ kinh nầy. Tại sao Phật không chỉ ra Tứ Cú Kệ?”
“Đây cũng là một cái ý nghĩa mà cũng
là một cái nghi án, chúng ta cần phải giải quyết vì đã hai ngàn rưỡi năm nay
rồi, chưa được chính thức thừa nhận. (Trích trong Kim Cang chú giải).”
Theo Nhan Bính tiên sanh thì sở dĩ Phật không
chỉ ra Tứ Cú Kệ là vì sợ e người chấp lấy ngón tay làm mặt trăng, luống nệ cố
theo câu chết trong kinh mà không hồi quang phản chiếu.
Còn theo kinh Kim Cang chú giải thì sở dĩ Phật
không chỉ ra Tứ Cú Kệ chẳng phải sợ người ta chấp về mặt văn tự, vì Phật pháp
là bất định pháp. Các bực Thánh còn có vô số trình độ khác nhau, huống hồ là
phàm phu, làm sao cùng nhau tỏ thấu một bài kệ? Lấy bài kệ làm cái mức nhứt
định để cho vô số người tu hành y theo đó thì cần gì Phật phải bày ra vô lượng
pháp môn cho nhọc lòng? Có phải ai ai cũng tỏ ngộ một thứ pháp với nhau đâu? Có
phải ai ai cũng đồng tu một thứ lý nghĩa nhất định với nhau đâu mà chỉ quyết ra
Tứ Cú Kệ?
Thưa chư quí vị,
Chư Tổ, vị thì chỉ câu nầy là Tứ Cú Kệ, vị lại
chỉ câu kia là Tứ Cú Kệ, làm người xem kinh Kim Cang chưa tỏ ngộ phải ngẩn ngơ,
ngơ ngẩn. Như vậy chúng ta muốn tầm Tứ Cú Kệ thì ít ra chúng ta phải hiểu rõ:
1.
Thế nào là Tứ Cú Kệ Kim Cang hay Tứ Cú Kệ Kim Cang nghĩa là gì?
2.
Chỗ giải Tứ Cú Kệ Kim Cang của chư Tổ có đồng nhau không?
3.
Phật có chỉ Tứ Cú Kệ Kim Cang ra trong quyển kinh Kim Cang chăng?
Thì chúng ta thấy Tứ Cú Kệ hiện ra ra rõ ràng,
trong sáng như ánh thái dương trước mắt ta.
Để giải đáp câu thứ nhứt, chúng tôi xin lần
lượt trích y nguyên văn những lời giải Tứ Cú Kệ của chư Tổ và vạch rõ ra tới
đích của những lời giải ấy.
Trong kinh Kim Cang chư gia, ông Nhan Bính có
nói như vầy:
Bởi trì kinh mà ngộ tánh, Tứ Cú Kệ
hiện ra ở trước, đồng như chốn Thái hư, lịch kiếp chẳng hề hoại. Kinh Tứ Cú
Quyết Nghi Kim Cang là cốt tuỷ của Đại Tạng kinh, còn Tứ Cú Kệ là cốt tuỷ của
kinh Kim Cang. Bằng người thọ trì kinh nầy mà không rõ thấu Tứ Cú Kệ ở chỗ nào
thì đâu có thoát khỏi vòng sanh tử mà làm Phật, làm Tổ đặng.
Tứ Cú Kệ là nhãn mục của bộ kinh
nầy, tuy chú giải đã mấy trăm tay, nhưng chưa có ai chỉ rõ chỗ căn cước đặng.
Phần nhiều không chịu hiểu Tứ Cú Kệ của mình, chỉ bo bo tìm tòi trong kinh
sách, dầu cho tìm đặng nữa, cũng là câu chết trong kinh, chớ đâu phải là câu
sống. Còn sống là bây giờ mới phải. Tuy vậy cũng phải bổn thân thấy biết mới
đặng. Kinh Phật nhãn có nói: Ngàn lời muôn tiếng, chẳng bằng tự mình gặp mặt.
Dầu không nói cũng phân minh, cần phải tự mình xét lấy, quyết chẳng nên cỡi
trâu mà tìm trâu.
Chiếu theo những lời giải của ông Nhan Bính
trên đây thì Tứ Cú Kệ là Chơn Tánh
đồng như chốn Thái hư, lịch kiếp chẳng hề hoại.
Trong Đồng Bài Ký có nói: Thiên Thân Bồ-tát lên cung Đâu Suất hỏi Đức
Di Lặc thế nào là Tứ Cú Kệ? Đáp: Vô ngã, Vô nhơn, Vô chúng sanh, Vô thọ giả. Mà
Đức Lục Tổ Huệ Năng giải, có bốn tướng là chúng sanh, không bốn tướng là Phật.
Kinh Viên Giác có nói: Chưa trừ dứt bốn tướng chẳng đặng quả Bồ-đề, thì cũng y như Đức Lục Tổ Huệ Năng đã
giải. Phải biết chữ Phật hay Bồ-đề đây
là chỉ cái không tướng của Chơn không, tức là cái Tâm Chơn-như hay là Phật tánh
sẵn có. Không bốn tướng tức là ám chỉ cái sự chơn thiệt của các pháp hữu vi tức
là sự không hình tướng của Chơn Phật.
Đức Lục Tổ đại sư nói: Ma-ha Bát-nhã
Ba-la-mật-đa là Tứ Cú Kệ. Như vậy Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật-đa là chỉ cái bản thể
thanh tịnh rộng lớn, vô bờ vô bến, rốt ráo sáng suốt, tức là Phật tánh cũng tức
là cái Bản thể của vạn hữu.
Ông Phó Đại Sĩ lại lộ cái tiêu tức
rất nên thân thiết như vầy: Luận về Tứ Cú Kệ thì khăn khắn chẳng nên rời. Lấy
đó mà suy thì Tứ Cú Kệ vốn chẳng phải là cầu ở ngoài, chỉ tại tâm địa tỏ sáng
mới thiệt là Tứ Cú Kệ. Bằng chẳng phải vậy Lục Tổ lại giải Tứ Cú Kệ là: Ngã,
Nhơn chóng dứt, vọng tưởng mau trừ, dứt lời liền thành Phật. Ví bằng kệ ấy mà
truyền miệng đặng, chỉ dạy đặng, dùng thông minh mà suy nghĩ đặng, thì Phật ta
là Thầy cõi Nhơn Thiên, ở thế 49 năm thuyết pháp cho cả chúng sanh đến 350 độ,
còn trong kinh nầy đến 14 chỗ nói Tứ Cú Kệ, sao lại không chỉ bảo cho rõ ràng
đoan đích. Có phải Phật ta tiếc chi mấy lời mà không chịu nói đâu. Cũng bởi e
cho người chấp lấy ngón tay làm mặt trăng, luống nệ cố theo câu chết trong kinh
mà không lo hồi quang phản chiếu câu sống của mình. Đã bảo nương theo ngón tay
để nhận mặt trăng, mà lại không chịu lìa ngón tay để thấy mặt trăng, lại nhận
ngón tay là mặt trăng, có phải là một sự sai lầm chăng? Cái lầm thứ nhứt là
chẳng biết mặt trăng là gì, còn cái lầm thứ nhì nói ngón tay là mặt trăng, lại
chẳng biết ngón tay là gì nữa.
Tối thượng thừa chẳng ở địa vị của
Phật, chẳng trọng mình có linh tánh cao siêu khỏi thập địa (10 nhân địa của
Bồ-tát), tỏ ngộ cái Đại pháp, ấy là người ở trên chót cây trụ trăm thước lại
bước lên thêm một bước nữa, đó mới là hạng người đã lìa được ngón tay để nhận
được mặt trăng. Vì vậy mà ông Trường Sa có bài tụng rằng:
Đầu cây trăm thước
đứng trân trân
Tuy ngộ nhưng chưa
đúng lý chân
Trên chót bước lên
trên một chút
Mười
phương thế giới hiện toàn thân.
Vả lại Phật ta còn không dám chấp
trước mà chỉ dạy thay, huống chi là ai. Ta sở dĩ nói câu sống đây là: Sanh tử thoát ngoài vòng, Thánh phàm đứng
dưới gió, nghĩa là: ngộ đặng cái lý rốt ráo, thấu đặng cái bản thể
Chơn-như thì chẳng còn sợ sự sanh tử, hết hay chứng Niết bàn, Phàm Thánh là đối
đãi, lìa cả Thánh Phàm mới chẳng chỗ chấp, chẳng chỗ trụ. Trong chỗ nhựt dụng
thường hành, chữ chữ phóng quang, đầu đầu hiện rõ, vốn không một điểm bút mực
nào mà ố đặng. Dầu kẻ có tài nghe rồi liền hiểu cũng phải ngẩn ngơ, huống chi
những hạng kiến thức hẹp hòi mà phân biệt phải quấy cho đặng. Duy có độ lượng
hơn người mới biết đặng cái lỗ mũi vốn là ở trước mắt.
Như vậy thì ông Phó Đại Sĩ cũng nhìn nhận Tứ
Cú Kệ là cái Tâm Chơn-như sáng suốt đó.
Ông Trần Hùng giải:
Kinh Tam-muội có nói: Cả thảy Phật
pháp đều thâu lại ở trong Tứ Cú Kệ. Cho nên ngộ đặng cũng không phải tại học
chữ nghĩa cho nhiều, chỉ trong nhứt
niệm mà tỏ ngộ thiệt đế (1) thì mới thông thấu thiên tánh đặng.
Bằng có người
sốt sắng tu hành, để lòng thì khăn khắn(2) giữ lâu không
nản, còn nói ra thì ai nấy cũng đều thông. Người như vậy chẳng phải là giác
tánh riêng cho một mình mà thôi, mà cũng giác tánh cho cả muôn triệu người nữa.
Chiếu theo lời giải của ông Trần Hùng, Tứ Cú
Kệ là Thiên tánh, thì Thiên tánh tức là Chơn tâm, Tâm với Tánh đâu khác nhau.
Vua Huyền Tông giải:
Tam thiên trân bảo tuy nhiều, hưởng
hết phải mang sanh diệt. Tứ Cú kinh văn vẫn ít, tỏ rồi chứng quả Bồ-đề. Như thế
há chẳng phải kiến tánh thành Phật sao?
Ông Xuyên Thiền sư giải:
Đi đứng nằm ngồi
Hơn thua phải quấy
Lúc giận khi mừng
Không rời cái ấy.
Thế thì ông Xuyên Thiền sư giải Tứ Cú Kệ cũng
là chỉ cái ấy, cái mà không thể kêu
ra được, tức là cái mà ông Duy Ma Cật nín thinh để đáp lại câu hỏi pháp môn không hai(3) của Đức
Văn Thù Sư Lợi vậy.
Ông Vương Nhựt Hưu giải:
Trong kinh thường nói Tứ Cú Kệ, bốn
câu trước thì nói về sự không hình tướng của Chơn Phật, bốn câu sau lại nói về
sự chơn thiệt của các pháp hữu vi. Không luận phải kệ hay không phải kệ, trong
hai lẽ ấy mà hiểu đặng một thì chẳng phải dở đâu.
Kinh Kim Cang chú giải nhìn nhận câu: “Không
chấp tướng, như như chẳng động” là Tứ Cú Kệ Kim Cang. Kinh ấy nhận thức rằng:
Trong Kim Cang trước sau 14 lần nói
Tứ Cú Kệ đều có câu “giữ theo kinh nầy cho đến bài kệ bốn câu mà ghi nhớ đọc
tụng, rồi diễn giảng cho người khác nghe.” Mười ba lần bảo ghi nhớ đọc tụng, vì
người mà giảng thuyết, nhưng không nói thế nào là ghi nhớ, thế nào là đọc tụng
và thế nào là vì người mà diễn thuyết. Phần chót nầy là lần thứ 14 nói Tứ Cú
Kệ, đột nhiên Phật lại thốt ra một câu hỏi, rồi Phật tự trả lời lấy, giải quyết
lấy câu hỏi ấy, để cho người học Kim Cang biết cách thức thọ trì đọc tụng và vì
người mà giảng thuyết. Thế là lần chót kết thúc quyển kinh, Phật mới chịu bày
tỏ cái bí quyết thọ trì đọc tụng và vì người diễn thuyết. Cái bí quyết được
Phật mở ra do Phật hỏi: “Thế nào gọi là vì người mà diễn thuyết?” Rồi tự Phật
trả lời: “Không chấp tướng, như như chẳng động.”
Chúng tôi xin phân câu trả lời ấy ra
làm hai đoạn để giải. Thứ nhứt: Không chấp tướng, thứ nhì: Như như chẳng động,
mà chúng tôi xin sơ lược giải đại khái như sau đây:
– Không chấp tướng: nội trong ba tiếng nầy cũng thấy trùm luôn bốn
tướng mà đức Di Lặc cho là Tứ Cú Kệ rồi. Không chấp tướng tức là không tướng
ta, tướng người, tướng chúng sanh, tướng thọ giả.
– Như như chẳng động: là tỏ cái lý
Bồ-đề Diệu minh Chơn tâm bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất
tăng, bất giảm. Như như chẳng động dứt đường ngôn ngữ, bặt chỗ nghĩ lường,
chẳng dùng thức mà biết đặng, chẳng dùng trí mà rõ được, chẳng qua chẳng lại,
chẳng tới chẳng lui, chẳng trên chẳng dưới, chẳng có màu sắc tiếng tăm, rỗng
rang, vắng lặng, thường tịch mà quang chiếu, quang chiếu mà thường tịch, có đủ
đức tánh tịnh Niết-bàn của chư Phật, gồm ba đức Pháp thân, Bát-nhã, Giải thoát.
Thế thì Tứ Cú Kệ Kim Cang cũng là cái Bồ-đề Diệu minh Chơn tâm bất sanh, bất diệt,
chớ chẳng có chi khác.
Thưa quí vị, trên đây chúng tôi trình bày
nhiều lời giải về Tứ Cú Kệ của chư Tổ. Chúng tôi xin tổng hợp những lời giải ấy
dưới đây để đáp lại câu hỏi thứ nhứt.
Ông Nhan Bính giải Tứ Cú Kệ là Chơn tánh; Đức
Di Lặc cho là không bốn tướng, tức là chỉ cái không tướng của Chơn không hay
Chơn tâm; Đức Lục Tổ Huệ Năng giải là Phật tánh rộng lớn, sáng suốt; Ông Phó
Đại Sĩ nói Tứ Cú Kệ là cái Tâm địa tỏ sáng; Ông Trần Hùng giải Tứ Cú Kệ là Chơn
tánh; Vua Huyền Tông giải là Bồ-đề. Ông Xuyên Thiền sư giải Tứ Cú Kệ là cái ấy
tức là chỗ không thể kêu gọi là gì được; ông Vương Nhựt Hưu giải là Chơn Phật
hay thiệt tướng của các pháp hữu vi; kinh Kim Cang chú giải nhìn nhận câu:
chẳng chấp tướng, như như bất động tức là cái Diệu minh Chơn tâm, v.v…
Chiếu theo những lời giải nầy thì câu hỏi: Thế
nào là Tứ Cú Kệ Kim Cang hay Tứ Cú Kệ Kim Cang nghĩa là gì? thì chúng tôi xin
giải đáp rằng Tứ Cú Kệ Kim Cang là những bài kệ bốn câu trong kinh Kim Cang để
chỉ Chơn tánh, Chơn tâm hay là cái Tâm Chơn-như, Phật tánh v.v… Còn theo ông
Vương Nhựt Hưu thì nói rằng: Không luận phải kệ hay không phải kệ, phàm diễn
thuyết điều chi cũng đều là kệ cả, thì trong một tiếng, một câu, một lời nói mà
thấu triệt được Chơn tánh, đều cũng gọi là kệ cả, vì kệ là một sự nói rốt yếu
lý.
Vì vậy mà chúng ta thấy Đức Di Lặc nói Tứ Cú
Kệ là vô nhơn, vô ngã, vô chúng sanh, vô thọ giả; Đức Lục Tổ Huệ Năng nói Ma-ha
Bát-nhã Ba-la-mật-đa là Tứ Cú Kệ; Ông Phó Đại Sĩ nói Tứ Cú Kệ là khăn khắn
chẳng nên rời v.v… Những lời giải đây, đâu phải là bài kệ bốn câu, nhưng cũng
để chỉ cái Tâm Chơn-như, Phật tánh của mình, như mấy bài kệ bốn câu trong kinh
Kim Cang. Thế thì chúng ta chẳng nên chấp bốn câu hay nhiều câu hay ít câu,
miễn những lời nói đó chỉ rõ được cái Chơn tánh thì đều là Kệ cả.
Chiếu theo lời giải Tứ Cú Kệ Kim Cang thì câu
hỏi thứ nhì “Chỗ giải Tứ Cú Kệ Kim Cang của chư Tổ có đồng nhau không?” Thì
chúng tôi xin lễ phép đáp lại rằng: Chư Tổ giải Tứ Cú Kệ cũng đồng chỉ cái Tâm
Chơn-như ấy. Thế thì sự ngộ và giải của chư Tổ đều đồng ý kiến với nhau. Nhưng
nên chú ý là có vị thì dùng câu nầy ám chỉ bài kệ đầu:
Nhược dĩ sắc kiến
Ngã
Dĩ âm thanh cầu
Ngã
Thị nhơn hành tà
đạo
Bất
năng kiến Như Lai.
Có vị lại dùng câu khác để ám chỉ bài kệ sau:
Nhứt thiết hữu vi
pháp
Như mộng huyễn
bào ảnh
Như lộ diệc như
điện
Ưng
tác như thị quán.
Chỉ có Đức Thế Tôn dùng
câu “Chẳng chấp tướng như như chẳng động” thì chỉ trùm cả hai bài kệ, vì như như chẳng động là chỉ
bài kệ trước, còn chẳng chấp tướng thì chỉ bài kệ sau.
Để giải câu hỏi thứ ba: Phật có chỉ Tứ Cú Kệ
Kim Cang trong quyển kinh Kim Cang chăng?
Chúng tôi xin thưa: Sở dĩ Phật thuyết kinh Kim
Cang là để phá tướng đặng ngộ tánh, tức là để cho chúng ta tỏ ngộ cái Tâm
Chơn-như gọi là Kiến tánh thành Phật, mà Tứ Cú Kệ cũng để chỉ cái Bổn Tâm ấy.
Trong quyển Kim Cang biết bao là câu, là kệ để cho mình ngộ Chơn tánh thì sự ấy
chứng minh rằng Phật đã mượn lời nói để chỉ Tứ Cú Kệ cho mình, nhưng tại mình
căn trí còn kém thấp nên ngộ chẳng nổi.
Cũng như Phật dùng ngón tay để chỉ mặt trăng
cho mình mà mình chẳng biết rời ngón tay để nhìn mặt trăng, lại cứ bo bo bám
vào ngón tay của Phật hoài, hỏi sao thấy Tánh được.
Phật có chỉ Tứ Cú Kệ cũng như không có chỉ,
bởi chí lý thì bặt đường ngôn ngữ, vì Chơn không không có tướng, thảy đều vắng
lặng, Chơn tâm là vô hình, vô ảnh, làm sao mà chỉ?
Những danh từ Chơn tâm, Chơn tánh, Thiệt
tướng, Chơn-như, Bất động, Pháp thân, Niết-bàn, Chơn thể, Thanh tịnh, Bổn lai
diện mục, v.v… đều là cưỡng danh để gọi cái Tâm ấy thôi, cho tới cái Tâm cũng
là cưỡng danh nữa. Thế thì không còn dùng văn tự ngôn ngữ được nữa. Ông Duy Ma
Cật cũng phải đành nín thinh để ám chỉ cái Bổn tâm ấy, cho tới Đức Thế Tôn cũng
phải cưỡng danh mượn lời nói để làm phương tiện chỉ dạy cho chúng sanh đó thôi.
Vậy nên hễ ngộ thì như đi trong đêm tối mà có được ngọn đèn sáng chiếu trước
mắt. Bằng không ngộ thì mờ mờ mịt mịt như bị một màn hắc ám bao phủ, trời đất
đều tối tăm, mặc cho chúng sanh lăn lộn trong ba đường sáu nẻo.
Hỡi ơi! Khổ thay! Khổ thay! Thương thay!
Thương thay! Sanh tử luân hồi hay giải thoát cũng đều do lẽ đó. Bởi thế nên Đức
Giáo Chủ Minh Trí thường dạy câu: Vãng lai do vọng nghiệp, Diệu giác thị Bồ-đề.
Phật tánh Chơn tâm ai ai cũng sẵn có, bằng vẹt được màn vô minh thì nó hiện ra
ở trước mắt đồng như chốn Thái hư chẳng hề hư hoại, cũng như mây vẹt, trăng
liền tỏ rạng. Sở dĩ chúng sanh tu học mà không được siêu thoát cũng do nơi chỉ
chấp theo văn tự chữ nghĩa mà không cầu đại ngộ. Vậy nên không cần thuộc 12 bộ
kinh như Thiện Tinh tỳ kheo, hay ông A-nan, mà chỉ cần Tâm địa tỏ sáng mới thiệt
là Tứ Cú Kệ Kim Cang.
Cũng vì cái Chơn tánh nầy mà Đức Thế Tôn 49
năm hết sức nhọc nhằn thuyết pháp. Nối tiếp theo Ngài, chư Bồ-tát, chư Tổ sư
không kém phần lao khổ chỉ vạch cho chúng sanh biết bao nhiêu phương tiện để tự
tỏ ngộ, tu chứng cho tới cái lý rốt ráo, chỗ khó khăn là nơi đầu cây trăm
thước, bước thêm lên một bước thì mười phương thế giới mới hiện toàn thân. Vì
vậy mới nói Phật chỉ Tứ Cú Kệ mà cũng như không có chỉ chi hết.
Trước khi dứt lời, kẻ sơ sanh hậu học nầy có
đôi lời trần tố cùng các bạn Đạo tâm để lạy cầu chư Phật ra tay chỉ dùm cái mặt
mày nguyên lai sẵn có từ hồi vô thỉ, kẻo bấy lâu xa lìa mẹ cha như người cùng
tử ăn xin nơi xứ lạ quê người, biết chừng nào mới về được quê hương yêu quí.
I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1) Thiệt đế:
Thiệt là chơn thiệt, không giả, không hư dối, đế là chơn lý. Thiệt đế nghĩa là
Đạo lý chân thật, Chơn lý rốt ráo, chỉ Phật tánh hay linh giác của mình (bản
giác).
(2) Khăn khắn:
Một mực, không chịu thay đổi.
(3) Pháp môn không hai: là pháp môn bất nhị. Không hai là không còn hai tướng, hai pháp
đối đãi nữa, như không còn có đối với không, tà đối với chánh, Phật đối với
chúng sanh.
II. PHẦN VẤN ĐÁP
1) — Tứ
Cú Kệ Kim Cang nghĩa là gì?
— Là
bài kệ bốn câu trong kinh Kim Cang chỉ rõ Chơn tánh, hễ ai ngộ được thì thành
Phật thành Tổ.
2) — Các
chư Tổ và Phật giải Tứ Cú Kệ ra sao? Có đồng một ý kiến như nhau hay không?
—
Ông Nhan Bính giải Tứ Cú Kệ là Chơn tánh,
Đức Di Lặc cho là Không bốn tướng (vô ngã, vô nhơn, vô chúng
sanh, vô thọ giả).
Đức Lục Tổ Huệ Năng giải là Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật-đa (Phật
tánh rộng lớn tròn sáng).
Ông Phó Đại Sĩ nói Tứ Cú Kệ là cái tâm địa tỏ sáng.
Ông Trần Hùng giải Tứ Cú Kệ là Chơn tánh.
Vua Huyền Tông giải Tứ Cú Kệ là Bồ-đề.
Ông Xuyên Thiền sư giải Tứ
Cú Kệ là cái ấy là chỗ không thể kêu gọi được.
Ông Vương Nhựt Hưu giải là Chơn Phật.
Đức Phật nói câu Chẳng chấp tướng, như như bất động.
Nhận thấy Chư Tổ và Đức Thế Tôn giải
Tứ Cú Kệ đều như nhau, tức là chỉ Tâm như như bất động hay Chơn tánh hay Giác
tánh hay Chơn tâm Phật tánh, v.v…
3) — Đức
Phật và chư Tổ giải Tứ Cú Kệ như nhau, chỉ rõ Tứ Cú Kệ là Chơn tâm, Chơn tánh,
là Phật tánh, là cái Tâm Bồ-đề sao mình hiểu rồi mà không làm Phật được?
— Ví
như mình có hiểu được đi nữa thì mới thuộc về văn tự Bát-nhã chớ chưa phải thực
chứng chỗ minh tâm kiến tánh, thì làm sao làm Phật được, tức là mình chưa được
hoàn toàn giải thoát. Chừng nào mình được thấy tánh (Kiến tánh) thực sự, phiền
não vọng tưởng tiêu trừ sạch thì cần gì phải tu tới vô lượng kiếp.
III. PHẦN TOÁT YẾU
Tứ Cú Kệ Kim Cang là bài kệ bốn câu trong kinh Kim Cang, chỉ rõ
Chơn tâm, Chơn tánh Phật của mình. Nếu ai tỏ ngộ được thì minh tâm kiến tánh
làm Phật làm Tổ.
Các vị Tổ sư tuy giải Tứ Cú Kệ Kim Cang bằng nhiều lối, nhiều
cách, nhưng không ngoài sự chỉ Bổn tâm, Bổn tánh Phật của mình. Hễ ngộ được thì
làm Phật, bằng không ngộ được thì làm chúng sanh. Siêu với Đoạ chỉ do lẽ đó mà
thôi.
PHẦN THẢO LUẬN
1. Ông Phó Đại Sĩ giải Tứ Cú Kệ có câu nói: Duy có độ lượng hơn
người mới biết đặng cái lỗ mũi vốn là ở trước mắt, nghĩa là sao?
2. Ông Vương Nhựt Hưu nói: Trong kinh thường nói Tứ Cú Kệ, bốn
câu trước thì nói về sự không hình tướng của Chơn Phật, bốn câu sau lại nói về
sự chơn thiệt của các pháp hữu vi. Không luận phải kệ hay không phải kệ, trong
hai lẽ ấy mà hiểu đặng một thì chẳng phải dở đâu.
Xin thảo luận về đoạn kinh nầy:
“Bốn câu trước thì nói về sự không hình tướng của Chơn Phật.”
Vậy bốn câu trước nầy là bốn câu nào?
“Bốn câu sau lại nói về sự Chơn thiệt của các pháp hữu vi.”
Vậy bốn câu sau nầy là bốn câu nào?
3. Không luận phải kệ hay không phải kệ, trong hai lẽ ấy mà hiểu
đặng một thì chẳng phải dở đâu.
Xin hỏi:
Trong hai lẽ ấy là hai lẽ nào? Tại sao trong hai lẽ nầy mà hiểu đặng một thì
chẳng phải dở?
4. Trong kinh Kim Cang Đức Phật nói Tứ Cú Kệ tức là bài kệ bốn
câu, sao chư Tổ giải Tứ Cú Kệ, vị thì chỉ câu nầy, vị lại chỉ câu khác, chẳng
có bài kệ nào bốn câu cả, dù là ý nghĩa giảng cũng đồng với nhau, còn ông Vương
Nhựt Hưu lại nói tới hai bài Tứ Cú Kệ?
5. Ông Nhan Bính nói: Ngàn lời muôn tiếng chẳng bằng tự mình gặp
mặt nghĩa là gì?
6. Ông Phó Đại Sĩ nói: Luận về Tứ Cú Kệ khăn khắn chẳng nên rời
là gì?
Nam
Mô Long Hoa Thượng Hội Di Lặc Tôn Phật.
Kính
Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.
_____________________________________
BÀI 12
KIẾN TÁNH THÀNH PHẬT
Trong bài giảng Tứ Cú Kệ Kim Cang, ông Nhan Bính nói rằng: Bằng
người thọ trì kinh nầy mà không rõ thấu Tứ Cú Kệ ở chỗ nào thì đâu có thoát
khỏi vòng sanh tử mà làm Phật, làm Tổ được. Bởi trì kinh mà Ngộ tánh, Tứ Cú Kệ liền hiện ra ở
trước mắt, đồng như chốn Thái hư, lịch kiếp chẳng hề hoại. Thế thì ngộ Tứ Cú Kệ
tức là Kiến tánh thành Phật, nhưng chúng ta còn đang trong vòng tu học, chưa
Minh tâm Kiến tánh, biết làm cách nào mà Ngộ tánh được, nên mới có bài số 12
nói tiếp theo luôn về đề tài Kiến Tánh thành Phật.
Trong Pháp Bảo Đàn Kinh có nói như vầy: “Bất tri Bổn tâm, bất
thức Bổn tánh, học pháp vô ích; nhược tri tự Bổn tâm, kiến tự Bổn tánh tức là
Thiên Nhơn sư, tức là Phật,” vì tu học pháp Phật mà không được giải thoát, vẫn
trôi lăn trong đường sanh tử luân hồi như chúng sanh không tu thì có ích lợi gì
đâu?
Trong Huyết Mạch Luận, cửa thứ sáu trong sáu cửa vào động Thiếu
Thất của Tổ Bồ-đề Đạt-ma có dạy rằng:
Nếu muốn tìm Phật hãy cần thấy tánh.
Tánh tức là Phật. Nếu chẳng thấy Tánh thì chay lạt, giữ giới đều vô ích cả.
Niệm Phật thì đặng nhân tốt
Tụng kinh thì được thông minh
Giữ giới thì được lên cõi Trời
Bố
thí thì được phước báo.
Nhưng tìm Phật bằng những cách ấy
quyết chẳng đặng vậy. Nếu chẳng được như vậy thì phỏng có giảng nói được 12 bộ
kinh, vẫn không tránh khỏi vòng sanh tử, vẫn chịu khổ trong ba cõi không hẹn
ngày ra.
Nếu không thấu rõ được tự Tâm thì
tụng đọc kinh sách gì cũng chỉ là hư văn, không dùng vào đâu được hết. Xưa có
tỳ khưu Thiện Tinh tụng làu làu 12 bộ kinh, nhưng vẫn không thoát khỏi sanh tử
luân hồi, ấy chỉ vì không thấy Tánh. Nếu cốt tìm Phật, trực tiếp cần thấy Tánh.
Tánh tức là Phật. Phật trước, Phật sau đều lấy Tâm truyền qua Tâm chẳng lập văn
tự.
Hỏi: Nếu chẳng lập văn tự
thì lấy gì làm Tâm?
Đáp: Ngươi hỏi Ta tức đó
là Tâm ngươi. Ta đáp ngươi tức đó là Tâm ta. Nếu Ta không Tâm, nhân đâu mà giải
đáp cho ngươi. Nếu ngươi không Tâm, nhân đâu mà thừa hỏi Ta? Hỏi Ta tức là Tâm
ngươi đó.
Ca Diếp chính là người ngộ được Bổn
tánh ấy. Bổn tánh tức là Tâm, Tâm tức là Tánh, tức chung đồng với chư Phật.
Phật trước, Phật sau chỉ truyền Tâm
ấy. Trừ Tâm ấy ra không Phật nào có thể được.
Hỏi: Nếu trong bất cứ lúc
nào, bất cứ hành động cử chỉ nào cũng đều là tự Tâm cả, sao trong khi mang sắc
thân vô thường nầy, tôi không thấy được Bổn Tâm?
Đáp: Bổn Tâm luôn ở trước
mắt, tại ngươi không chịu thấy, chớ không phải không có Bổn Tâm.
Hỏi: Tâm ở trước mắt sao
tôi không thấy?
Tổ Sư hỏi lại: Ngươi có thường nằm
mộng chứ?
Khách đáp: Thường nằm mộng.
Hỏi: Trong khi ngươi nằm
mộng thì đó là bổn thân ngươi chứ?
Đáp: Đúng là bổn thân tôi.
Hỏi: Lời nói và việc làm
của ngươi trong lúc ấy có khác hay chẳng khác với chính ngươi?
Đáp: Chẳng khác.
Tổ Sư nói: Nếu đã chẳng khác thì
thân ấy tức là Pháp thân ngươi, Pháp thân ấy tức là Bổn Tâm ngươi đó. Tâm ấy vi
diệu khó thấy. Tâm ấy chẳng giống sắc Tâm.
Chính từ trong ánh sáng của Tâm ấy
ứng dụng lên tất cả hành động, tay đưa, chơn bước. Mới hay lẽ khó lường ấy chỉ
mình Phật mới hiểu nổi, ngoài ra tất cả người, Trời và các loại chúng sanh đều
không sáng tỏ được.
PHỤ GIẢI ĐOẠN KINH TRÊN
Muốn đáp câu hỏi: Tâm ở trước mắt sao tôi không thấy? Tổ sư lại
bỏ thân ngũ ấm, tứ đại phiền não, mượn cảnh nằm mộng mà chỉ Pháp thân tức là
Bổn Tâm của ta.
— Sao lại mượn giấc mộng để giải đáp?
— Vì trong lúc ngủ, ý thức (thức thứ 6) không còn tự hoạt động
được nữa, thân tứ đại như thân đã chết rồi, nhưng đâu phải hết. Các chủng tử
thiện ác của chúng ta gây tạo ra vẫn hoạt động như thường, nên mới thường có
các cuộc nằm mộng. Chủng tử ấy tồn tại ở nơi đâu? Lẽ cố nhiên phải có chỗ chứa.
Chỗ đó gọi là thức thứ tám, A-lại-da thức, Thức tinh.
Thức tinh nầy gốc đã sẵn có cái Thể nguyên minh, nhưng vì Thể nguyên
minh chẳng giữ tự tánh, tuỳ theo duyên mà sanh ra các thứ vọng tưởng, rồi chúng
sanh nhận lầm cái vọng tưởng ấy làm tự tánh mà trở đem cái thể nguyên minh
thanh tịnh bỏ đi. Vì bởi đem cái Thể nguyên minh thanh tịnh bỏ đi nên tuy hằng
ngày làm luôn (dùng luôn) mà chẳng tự biết đặng cái thể Bổn minh tự tánh, đến
nỗi lăn lộn vào các thú mà thọ nghiệp sanh tử luân chuyển luôn.
Thể nguyên minh nầy là Bổn Tâm của ta, Bổn Tánh chơn thiệt của
ta. Diệu dụng của tánh mầu nhiệm khó suy lường, khó hiểu biết, chúng sanh mê
muội không thể tự sáng tỏ được, chỉ mình Phật mới hiểu nổi, ngoài ra tất cả
Trời, người và các loại chúng sanh đều không tỏ ngộ được. Chính vì tánh ấy ứng
dụng lên tất cả hành động như tay đưa, chơn bước, tánh là thọ dụng của Tâm ta,
sao ta lại không chịu biết, mà cứ mãi tìm Phật ngoài lòng. Nên kinh nói: Tâm ấy
vi diệu khó thấy, chẳng giống sắc tâm, vô số kiếp đến nay vẫn y như hiện giờ
chẳng sai khác, chưa từng có sống chết, chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng thêm,
chẳng bớt, chẳng sạch, chẳng dơ, không tướng nam nữ cũng không Thánh phàm, cũng
không Phật không chúng sanh, cũng không tướng mạo, giống như hư không, nắm
chẳng được, bỏ chẳng được, núi sông, tường đá không ngăn nổi, ẩn hiện, lại qua,
thần thông tự tại v.v…
Sức chứa rộng lớn của Tâm ứng dụng
không cùng, ứng vào mắt thì thấy màu, ứng vào tai thì nghe tiếng, ứng vào mũi
thì ngửi mùi, ứng vào lưỡi thì biết vị, cho nên bất cứ cử động nào cũng là tự
Tâm cả.
Phật là giác tánh, tức là tánh linh
giác của mình. Tỏ ngộ được tánh linh giác của mình tức là Kiến tánh, tức là
Phật.
Tánh tức là Tâm
Tâm tức là Phật
Phật tức là Đạo
Đạo
tức là Thiền.
Chỉ một chữ Thiền, Thánh và phàm
chẳng suy lường nổi. Thấy thẳng tánh mình thì gọi là Thiền. Nếu chẳng thấy Tánh
mình, tức không phải Thiền vậy. Nếu thấy Tâm mình là Phật thì không cần cắt
tóc, cạo râu, hàng áo trắng vẫn là Phật. Nếu không thấy Tánh, cắt tóc cạo râu
vẫn là ngoại đạo.
Trời Tây 28 Tổ sư Thiền đều lần lượt
truyền Tâm ấn cho nhau, Ta đến xứ nầy cũng chỉ truyền một Tâm ấy, không luận về
giới-thí, tinh tiến, khổ hạnh, cả đến việc vào nước lửa, lên vòng gươm, chay
lạt ngày một lần, ngồi hoài chẳng nằm, thảy thảy chỉ là pháp hữu vi của ngoại
đạo.
Vì ý thức được tánh linh giác của
chính mình trong mọi cử động hành vi tức ý thức được Tâm Phật.
Phật trước, Phật sau chỉ nói pháp
truyền Tâm, ngoài ra không pháp nào khác. Nếu thấu rõ pháp ấy thì phàm phu ngu
dốt không biết được một chữ cũng vẫn là Phật.
Nếu không rõ tánh linh giác của
chính mình, thì dầu đem thân này nghiền nát ra thành vô số bụi bặm để cầu tìm
Phật, rốt cuộc vẫn chẳng được vậy. Phật ấy cũng gọi là Pháp thân, cũng gọi là
Bổn Tâm.
Tâm ấy không có hình tướng, tợ
như hư không. Tâm ấy không lìa ngoài cái sắc thân tứ đại. Nếu lìa tâm ấy,
tức không còn vận động gì được, vì đó là thân vô tri khác gì cây cỏ, ngói gạch.
KỆ ĐÊM NGỒI TỊNH
Canh một: Đoan trang canh một tịnh ngồi tu
Tịch chiếu(1) tinh thần tợ Thái hư
Muôn kiếp vốn không sanh với
diệt
Học đòi sanh diệt, diệt gì
ư?
Gẫm xem các pháp trò ma ảo
Tánh vốn là không uổng sức
trừ
Ví biết tâm mình không tướng
mạo
Lặng im chẳng động tự Như
như.
Canh hai: Canh hai ngưng thần chuyển minh tịnh
Chẳng tưởng chẳng nhớ
chơn-như tính
Um tùm muôn tượng trở về
không
Chấp có chấp không lại vẫn
bịnh
Các pháp như nhiên chẳng có
không
Phàm phu tưởng quấy bàn tà
chánh
Ví biết gìn lòng lẽ chẳng hai(2)
Ai nói tức phàm chẳng phải
Thánh.
Canh ba: Canh ba Tâm tịnh sánh hư không
Rộng khắp mười phương đâu
chẳng thông
Tường vách núi sông không
cản ngại
Bao la vũ trụ tự nơi trong
Tánh của càn khôn là Phật
tánh
Cũng không bổn tánh tức hàm dung(3)
Nào phải riêng đâu chư Phật
được
Hữu tình muôn loại vẫn chung
đồng.
Canh tư: Canh tư không diệt cũng không sanh
Rộng ví hư không pháp giới
bình
Không qua không lại không
còn mất
Chẳng có chẳng không chẳng
ám minh
Không vọng thấy gì: Như Lai
thấy
Không gọi được danh: chân
Phật danh
Ai có ngộ qua rồi mới hiểu
Chúng sanh chưa rõ bởi thong manh.(4)
Canh năm: Canh năm Bát-nhã chiếu vô biên
Chẳng khởi một niệm trải Tam
thiên
Muốn thấy chơn như Tánh Bình
đẳng
Khéo chớ sanh tâm: trước mắt
liền
Lẽ ấy diệu huyền không lượng
được
Dụng công đuổi bắt thêm nhọc
sức
Nếu không một niệm tức Chơn
cầu
Còn
có tâm cầu chưa tỉnh thức.
I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1) Tịch chiếu:
lặng là tịch, chiếu là soi. Tịch chiếu là lặng mà soi cũng gọi là sự chiếu sáng
của bổn tâm tịch tĩnh. Cái thể của Chơn lý kêu là Tịch, cái dụng của Chơn trí
gọi là Chiếu.
(2) Lẽ chẳng hai: nghĩa của pháp môn bất nhị. (Xin xem lại bài 11).
(3) Hàm dung:
Hàm là ngậm chứa, bao gồm, dung là hoà lẫn dung thông. Ý nói Phật tánh là tánh
của Càn không bao trùm vũ trụ vạn vật, chẳng phải riêng chư Phật có mà hữu tình
muôn loại vốn chung đồng một tánh nầy.
(4) Thong manh: là chứng mắt mù, tuy đôi mắt còn y nguyên, vẫn mở như người
thường nhưng lại không thấy. Ý nói chúng sanh chưa ngộ nên chưa thấy đặng chỗ
không tướng của Phật tánh của mình, chẳng khác chi người mù tuy mắt có đó mà
không thấy được.
II. PHẦN VẤN ĐÁP
1) — Thấy
Tánh thành Phật nghĩa là gì?
— Là
thấy được bổn tâm, bổn tánh Chơn-như của mình vốn là không, vốn là trong sạch,
chẳng còn một tí phiền não, vô minh, nên được hoàn toàn sáng suốt liền thành Phật.
Nên biết nó là cái Bản thể của Vũ trụ vạn vật chớ không phải cái Tâm riêng của
chư Phật, mà vạn vật chúng sanh cũng đồng nhau một cái Tâm ấy. Nhưng vì chúng
sanh mê không biết đặng nó, nên chỉ nhận cái Tâm phân biệt hiểu biết sanh diệt,
vô thường ở trong thân mình, cho đó là Bổn Tâm, Bổn Tánh của mình mà luôn phải
bị nó sai sử trong lục đạo luân hồi.
2) — Có
thấy Tánh mới thành Phật, như vậy niệm Phật, tụng kinh, giữ giới, bố thí có
được thành Phật không?
— Niệm
Phật, tụng kinh, giữ giới, bố thí mà không thấy Tánh thì không giải thoát hoàn
toàn thành Phật được.
Niệm Phật tới chỗ vô sanh mới
Kiến tánh thành Phật. Tụng kinh ngộ lý mới Kiến tánh thành Phật. Giữ giới cho
tới chỗ hết mê và huỷ phạm dù là một lỗi nhỏ cũng không phạm tức là Kiến tánh
thành Phật. Bố thí nhưng không trụ tướng, không còn chấp có chấp không vì ngộ
chỗ không tướng của Tâm Chơn không tức là Kiến tánh thành Phật.
3) — Cái
gì là cái Tâm?
— Tổ
đáp: cái mà ngươi hỏi ta đó là cái Tâm của ngươi. Cái mà ta đáp ngươi đó là cái
Tâm của ta.
4) — Cái
gì là cái Tánh?
— Thấy
là cái Tánh nên gọi là Tánh thấy. Nghe là cái Tánh nên gọi là Tánh nghe, ngửi
là cái Tánh nên gọi là Tánh ngửi, nếm là cái Tánh nên gọi là Tánh nếm. Trong
kinh Thủ Lăng Nghiêm, đức Phật nói Tánh quyền gởi nơi căn.
5) — Trong kinh nói Tánh có vọng, chơn. Vậy cái nào là
vọng, cái nào là Chơn?
— Tánh
thấy, tánh nghe v.v… là chơn vì nó còn hoài ở nơi căn, còn thấy nghe rồi tâm
sanh buồn, giận, thương, ghét, tham, ác, độc, dữ, lành, đều là vọng vì các thứ
tâm tánh nầy có rồi mất không còn hoài như tánh thấy, tánh nghe, nên Phật gọi
nó là sanh diệt, nghĩa là sanh ra rồi mất.
6) — Trong kinh nói ai cũng có bổn Tâm, bổn tánh, sao
mình lại chẳng thấy nó?
— Như
trên đã nói Tánh thì mình dễ thấy, như tánh thấy, nghe, ngửi, nếm v.v… Còn Tâm
thuộc về thức thứ 8 cũng gọi là A-lại-da thức hay Thức tinh. Nó có đó nhưng vô
hình, vô tướng khó biết nó cho được, vì mình không thấy nó được, nhưng nhờ kinh
nghiệm, nên mình mới biết có nó, như khi người ta hỏi mình, những lời hỏi đó
chạm vào Tâm mình làm cho hiểu biết, nó bèn phản ứng là trả lời lại. Nếu chúng
ta hỏi một người chết thì người ấy đâu có trả lời lại được, vì Tâm của người ấy
(thức A-lại-da) đã thoát ra khỏi xác thân, xác thân không còn hiểu biết nữa.
Ngộ đặng Bổn Tâm là biết được
Thức tinh của mình tức là A-lại-da thức. Khi nó chưa nhiễm trần, nó rất trong
sạch, thanh tịnh tròn sáng nên gọi nó là cái bổn thể nguyên minh hay là Vô cấu
thức, Bạch tịnh thức… Vì nhiễm trần nên nó chứa đựng các hột giống nghiệp sanh
tử làm cho nó dơ, tối, mới bị luân chuyển thành ra chúng sanh đó thôi.
Vậy muốn thoát nẻo luân hồi phải
cần tu tập theo 5 bài kệ của Tổ Đạt-ma chỉ dạy, thấy tánh mới được.
III. PHẦN TOÁT YẾU
(Xin học bài vấn đáp cho nhuần vì rất cần thiết để thay phần
toát yếu.)
Nam
Mô Long Hoa Thượng Hội Di Lặc Tôn Phật.
Kính
Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.
_____________________________________
BÀI 13
CÔNG PHU GỠ NIÊM THOÁT TRẦN
tức là BỘI TRẦN HIỆP GIÁC
(PHÁP TRỪ LỤC CĂN, DIỆT LỤC
TRẦN)
Trong bài Lục căn cấp 2, chúng ta thấy rằng do
12 tướng hữu vi (sáng tối, động tịnh, thông nghẹt, lại biến, hiệp ly, sanh
diệt) niêm áng Tâm Diệu giác Viên minh làm cho mờ ám, trệ ngại. Nay muốn làm
công phu thoát trần, thì phải lựa một căn nào tròn trong sáu căn, như Nhĩ căn
viên thông chẳng hạn, lột niệm ở ngoài, nghĩa là phá trừ hai tướng động tịnh mà
phục về trong cho tới cái địa vị nguyên minh Chơn giác, thì tánh nguyên minh
phát sáng. Công phu phản văn (nghe vào trong), Đức Quan Thế Âm Bồ-tát
làm cái công phu phản văn nầy mà vào được chỗ Chánh định chứng quả thành Phật.
GIAI ĐOẠN I
Ban đầu ở trong cái nghe, vào dòng mất chỗ,
chỗ vào đã lặng, động tịnh hai tướng chẳng sanh, nghĩa là Đức Quan Thế Âm do
trong cái nghe một niệm chẳng sanh, hồi văn mà chăm nghe cái tự tánh, chớ không
thuận theo cái nghe thường tình là nghe thinh trần ở ngoài, nên gọi là vào
dòng.
Đến lúc vào dòng rồi, thì tất cả thinh trần ở
ngoài không còn chuyền níu nữa nên gọi là mất chỗ, tức là mất cái chỗ sở duyên,
nghĩa là mới phá đặng cái tướng động ở ngoại cảnh, chớ cái tướng tịnh ở trong
Tâm hãy còn.
Đến sau chỗ vào được lặng thì chẳng những cái
tướng động không sanh mà cho đến cái tướng tịnh cũng chẳng sanh nữa, tức là căn
trần đều tiêu vong.
Song tuy đã tới đặng cái cảnh giới như thế là
mới hàng phục được căn và trần mà còn phải công phu tinh tấn lên nữa, vì sau
khi căn, trần, thức tiêu trầm, thì có cái tưởng về một thể thanh trạm là một
thứ trần rất nhỏ nhen khó trừ, mà thứ trần ấy cũng là thức tinh, kêu là pháp
ái, là một như nhơ bẩn dính mắc trong tánh thể khó nạo cho tróc.
GIAI ĐOẠN II
Đến đây công phu thêm lần lên thì cái hay nghe
và cái chỗ nghe đều hết. Hết và nghe chẳng trụ thì cái “hay giác” và cái “chỗ
giác” đều không. Cái không giác rất tròn thì cái “hay không” và cái “chỗ không”
đều diệt. Sanh diệt đã diệt thì tịch diệt hiện tiền. Nên biết Đức Quan Thế Âm
làm cái công phu phản văn nầy trước hết Ngài lập hai cái nghe, một là “văn cơ,”
cái hay nghe, hai là cái “văn tánh,” chỗ nghe. Nay căn trần đã diệt thì cái Văn
cơ và Văn tánh cũng không còn, nên nói cái hay nghe và cái chỗ nghe đều hết.
Khi cái hay nghe và cái chỗ nghe đã hết thì
hiện ra cái cảnh Trạm nhứt vô biên, gọi là chỗ giác, mà cái trí hay soi
được cảnh trạm nhứt vô biên, tức là cái “hay giác.” Thế thì cũng còn cái “hay
giác” đối đãi với cái “chỗ giác,” nên gia công tu thêm cho đến cái “hay giác”
và cái “chỗ giác” đều trong lặng (không), nên kinh nói: Hết và nghe chẳng trụ
thì cái “hay giác” và cái “chỗ giác” đều không.
Khi mới chứng đặng cái không nầy, nhưng cái
không nầy chưa được tròn, vì cái “hay không” và cái “chỗ không” hình như còn
đối đãi với nhau, chưa được dứt. Đến khi cái không giác được tròn thì cái “hay
không” và cái “chỗ không” bị trừ diệt hoàn toàn, mà cái không giác được tròn ấy
(Trí trung không) cũng bị trừ diệt nữa (không còn chấp không và không còn chấp
trung).
Đến đây tướng không đã diệt tức là nguồn gốc
sanh diệt bị tiêu diệt, thì cái Chơn tịch
diệt(1) của Như Lai Tạng hiển nhiên thường trụ nên gọi là Tịch
diệt hiện tiền. Đó là cái Niết bàn Diệu Tâm của Đức Phật truyền cho Tổ Đại Ca
Diếp.
Tịch: nghĩa là lặng, nhưng không phơi cái tướng lặng đối với động, mà
thiệt là cái lặng của Bổn lai tự tánh bất động vậy.
Diệt: nghĩa là dứt, nhưng không phải cái dứt đối với cái sanh, mà là
cái dứt của Bổn lai tự tánh vô sanh vậy. Thế thì tịch diệt tức là lý thể của Bổn giác,(2) Tạng
Như Lai thiệt tế của Chơn-như thanh tịnh bản nhiên khắp cả pháp giới cũng gọi
là cái biển Đại tịch diệt hay cái tạng Đại Quang Minh, mà tất cả cái diệu dụng
gì cũng đều đủ ở trong đó cả.
GIAI ĐOẠN III
Đương khi đoạn hoặc chứng chơn, bỗng nhiên
vượt khỏi thế gian và xuất thế gian, chẳng còn bị cái pháp có trong Tam
giới và cái pháp không ngoài Tam giới ràng buộc nữa, chỉ thấy mười
phương tròn sáng, liền đặng hai món công đức thù thắng, một là trên hiệp với
cái Tâm Bản diệu giác của các Phật mười phương và cùng với Như Lai đồng một từ
lực.
Hai là dưới hiệp với chúng sanh trong sáu
đường, cùng với cả thảy chúng sanh đồng một lòng bi ngưỡng.
Trong giai đoạn công phu nầy hai tướng “có” và
“không” không còn ràng buộc nữa, nên vượt ra khỏi thế gian và xuất thế gian,
toàn thể hiện, chỉ thấy mười phương tròn sáng liền đặng hai món công đức thù
thắng.
Một là trên hiệp với cái Tâm Bản diệu giác của
các Phật mười phương và cùng với Như Lai đồng một từ lực.
Hai là dưới hiệp với chúng sanh trong sáu
đường, cùng với tất cả chúng sanh đồng một lòng bi ngưỡng.
Chữ Bi là lo buồn thương xót cầu Phật cứu khổ
cho chúng sanh. Chữ Ngưỡng nghĩa là trông mong nhờ Phật thương xót ban vui cho
chúng sanh.
I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1) Chơn tịch diệt: Tịch là vắng lặng, diệt là dứt mất, chỉ cảnh giới Niết bàn.
Niết bàn Tịch diệt của Tiểu thừa còn chấp không. Niết bàn Tịch diệt của Đại thừa
không còn chấp không nên gọi là Chơn tịch diệt.
(2) Lý thể của Bổn giác: Bổn giác tức là Bồ-đề hay Phật đà (Phật tánh sẵn có). Lý đối
với Sự, Lý là tâm tánh, Sự là thể tướng, Lý thể tức là Tánh Tướng của Bổn Tâm
Chơn-như,
II. PHẦN VẤN ĐÁP
1) — Công
phu phản văn nghĩa là gì?
— Công
phu phản văn là xoay cái tánh nghe lại để nghe vào trong (tánh nghe của mình)
chớ không nghe thinh trần ở ngoài cảnh nữa.
2) — Vào
dòng nghĩa là gì?
— Đức
Quan Thế Âm do trong cái nghe một niệm chẳng sanh, hồi văn mà chăm nghe cái tự
tánh, chớ không thuận theo cái nghe thường tình là nghe thinh trần ở ngoài nên
gọi là vào dòng.
3) — Mất
chỗ nghĩa là gì?
— Khi
nghe vào tự tánh thì tất cả thinh trần ở ngoài không còn chuyền níu nữa nên gọi
là mất chỗ, tức là mất chỗ sở duyên.
4) — Làm
cái công phu nầy đến chừng nào căn trần mới tiêu vong?
— Khi
thinh trần tiêu vong tức là mới trừ được cái tướng động ở ngoài, bèn trừ luôn
cái tướng tịnh ở trong Tâm thì căn trần mới tiêu vong.
5) — Căn,
Trần, Thức tiêu trầm rồi thì có cái tướng về một thể thanh trạm gọi là gì?
— Khi
căn, trần, thức tiêu trầm rồi thì có cái tưởng về một thể thanh trạm gọi là pháp
ái hay thức tinh, là một thứ dơ bẩn dính sát trong tánh thể khó nạo cho
tróc.
6) — Làm
sao trừ được cái cảnh trạm nhứt vô biên nầy?
— Cái
cảnh trạm nhứt vô biên nầy gọi là chỗ giác, còn cái trí hay soi được cảnh trạm
nhứt nầy gọi là cái hay giác. Vậy nên tu thêm cho đến cái hay giác và cái chỗ
giác đều trống lặng, tức là hoàn về không.
7) — Khi
hoàn về không thì cái không nầy còn đối đãi không?
— Lúc
đầu còn đối đãi, vì còn cái chỗ không và cái hay biết cái chỗ không ấy, vậy ta
phải tấn tu thêm cho đến khi cái hay không và cái chỗ không đều hoàn toàn bị
trừ diệt, tức là nguồn gốc sanh diệt bị tiêu diệt thì cái Chơn tịch diệt của
Như Lai Tạng hiển nhiên thường trụ. Đó là cái Niết bàn Diệu Tâm của đức Phật
truyền cho Tổ Đại Ca Diếp.
III. PHẦN TOÁT YẾU
Công phu phản văn là không nghe thinh trần ở ngoại cảnh nữa mà
nghe trở vào trong nên gọi là vào dòng, tức là mới trừ được cái tướng động ở ngoài.
Bây giờ bèn trừ luôn cái tướng tịnh ở trong Tâm mình nữa, tức là không trụ chấp
cái tướng tịnh ở trong thì căn trần mới tiêu vong.
Khi căn, trần, thức tiêu trầm rồi thì Tâm ta hiện ra một cảnh
trạm nhứt vô biên gọi là Thức tinh hay là pháp ái, là một thứ dơ bẩn dính sát
trong tánh thể khó nạo khó trừ. Cái cảnh Trạm nhứt vô biên nầy gọi là chỗ giác,
mà mình biết được cái cảnh giác nầy gọi là trí hay giác. Thế thì chỗ giác và
cái hay giác còn đối đãi nhau, vậy phải công phu thêm cho đến khi chỗ giác và hay
giác đều hoàn về không. Khi hoàn về không rồi thì chúng ta phải tu thêm để diệt
trừ cái không ấy nữa, tức là nguồn gốc sanh diệt bị tiêu diệt thì cái Chơn tịch
diệt của Như Lai Tạng hiển nhiên thường trụ. Đó là cái Niết bàn Diệu Tâm Chánh
Pháp Nhãn Tạng Như Lai của Đức Phật truyền cho Đức Đại Ca Diếp làm sơ Tổ bên xứ
Ấn Độ.
Nam
Mô Long Hoa Thượng Hội Di Lặc Tôn Phật.
Kính
Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.
_____________________________________
BÀI 14
CỬA VÀO VIÊN GIÁC
Trong kinh Viên Giác,(1) Ngài Uy
Đức Tự Tại Bồ-tát bạch hỏi Đức Phật: “Ví
như cái thành lớn, ngoài có bốn cửa tuỳ lại phương nào cũng được, không phải
chỉ có một đường. Cúi xin Đức Thế Tôn rộng vì chúng con và chúng sanh đời sau,
tuyên thuyết tất cả phương tiện tiệm thứ, khiến cho người cầu pháp Đại thừa chóng
được ngộ và chứng Viên giác du hý ở bể Đại Tịch diệt của Như Lai.
Đức Phật đáp: Thiện nam tử! Vô thượng Diệu
giác biến khắp mười phương, sinh ra các Đức Như Lai và tất cả pháp. Bởi tất cả
chúng sanh cùng với chư Phật đồng một bản thể bình đẳng không khác, nên người
tu hành khi đã trở về tánh Viên Giác, thì thực không có hai nơi. Phương tiện
tuỳ thuận, số đó không lường, thâu nhiếp qui lại theo tánh sai biệt thì có 3
thứ: 1. Xa-ma-tha, 2. Tam-ma-bát-đề, 3. Thiền-na.
1. Xa-ma-tha: Tàu dịch là chỉ, nghĩa là ngừng đậu vào đế lý chẳng
loạn động, đình chỉ các vọng niệm, tắt nghỉ các lòng sái quấy phiền não để cho
Tâm yên lặng thanh tịnh.
Trong kinh Viên Giác, Đức Phật nói: “Vọng niệm
đã lắng trong thì có thể biết được cái tướng phiền động của thức tâm. Ví như nước
đã lắng trong liền thấy cặn bã, đồng thời tĩnh tuệ lại phát sinh, rõ biết thân
tâm như khách trần,(2) từ đó diệt hết nên ở trong phát ra
vắng lặng nhẹ nhàng. Bởi vắng lặng cho nên mười phương thế giới Tâm các Đức Như
Lai ở trong hiện ra trong tâm của hành giả, rất rõ ràng như bóng trong gương.
Phương tiện tu chứng nầy gọi là Xa-ma-tha.”
2. Tam-ma-bát-đề: tức là quán, nghĩa là soi chiếu thông
suốt, lãnh hội lẽ chơn như tức là dùng Trí huệ trừ diệt tận gốc phiền não, vô
minh, chứng đặng tánh Viên Giác. Nên biết chỉ thuộc về không môn,
Chơn-như môn, noi theo Chơn-như vô vi mà xa lìa các tướng, còn quán
thuộc về hữu môn, sanh diệt môn, noi theo sự tướng hữu vi mà phát đạt trí giải
vậy.
Do thứ lớp nơi sự tu mà nói thì chỉ ở
trước, trước phục phiền não, quán ở sau, chính là lúc dứt phiền não mà
chứng Chơn-như. Còn nếu thiệt chỉ, thiệt quán ắt chẳng phân hai.
Pháp tánh tỏ ra tịch tĩnh ấy là chỉ, pháp tánh
thường chiếu luôn ấy là quán (tịch chiếu). Thiệt quán ắt tịch tĩnh thì quán tức
là chỉ. Thiệt chỉ ắt minh tịnh thì chỉ tức là quán. Pháp quán Tam-ma-bát-đề dạy
cách quán để ly huyễn (dối) như trong kinh có đoạn nói:
Chúng sanh huyễn tâm lại y vào huyễn mà diệt,
các huyễn diệt hết nhưng giác tâm không động. Y vào huyễn mà nói giác cũng gọi
là huyễn. Nếu nói có giác thì vì chưa ly được huyễn, nói không có giác lại cũng
như thế. Cho nên nếu huyễn diệt, gọi là bất động.
Thiện nam tử! Tất cả các Bồ-tát và chúng sanh
đời mạt pháp phải nên xa lìa tất cả cảnh giới huyễn hoá hư vọng, do cái tâm xa
lìa kia gìn giữ được kiên cố. Tâm như huyễn đó cũng phải xa lìa, cái xa lìa đó
cũng là huyễn, cũng phải xa lìa. Trái lại lìa cái tâm xa lìa huyễn, cũng phải
xa lìa tới chỗ không phải xa lìa, tức là trừ được mọi huyễn. Ví như nảy lửa,
nhân hai mảnh gỗ, lửa bốc cháy hết gỗ, tro bay, khói hết, lấy huyễn mà tu huyễn
cũng lại như thế. Các huyễn tuy hết nhưng không bị đoạn diệt.
3. Thiền na: Tàu dịch là tĩnh lự. Tĩnh tức là chỉ, lự tức là quán, tĩnh
quán không hai tức là Thiền na, nghĩa là pháp thiền na dạy phải song tu chỉ
quán, cũng gọi là Định Huệ đồng tu, chớ không như Xa-ma-tha chỉ tu về Định, còn
Tam-ma-bát-đề chỉ tu về Huệ.
Trong kinh Viên Giác, Đức Phật dạy về thiền
na:
Thiện nam tử! Nếu có
các Bồ-tát ngộ tính Viên giác, lấy tâm tịnh giác không thủ huyễn hoá và các
tĩnh tướng, hiểu biết thân tâm đều là quái ngại và vô ngại, vô tri giác minh,
là tâm tĩnh giác không có vọng tưởng phân biệt và hiểu biết. Cái thể của giác
minh tức là tâm linh tuyệt đãi không y vào các ngại là mọi tướng đối đãi cảnh
ngại và không ngại. Ngại vì huyễn quán giao tiếp lẫn với
phiền não, không ngại là tĩnh tướng đồng với Niết-bàn.
Phiền não với Niết-bàn
không có chấp trước, vì thế không thủ huyễn hoá thì siêu vượt qua khỏi cảnh
ngại (phiền não). Không thủ tĩnh tướng thì siêu vượt qua cảnh vô
ngại (Niết-bàn). Thụ dụng thế giới với thân tâm ở cõi trần, như âm thanh ở
trong chuông, tiếng ra bên ngoài. Phiền não Niết-bàn không có lưu ngại, ở trong
liền hay phát ra tịch diệt khinh an. Diệu giác tuỳ thuận, tịch diệt cảnh giới,
thân tâm mình và người cũng không giá trị, chúng sanh thọ mệnh đều là phù
tưởng. Như phương tiện nầy gọi là Thiền na.
Định là công phu tu
Chỉ, Huệ là công phu tu Quán, tịch niệm là công phu Thiền-na. Nếu Bồ-tát chỉ
diệt các huyễn (Quán) không thủ tác dụng, riêng đoạn phiền não, phiền não đoạn
hết liền chứng thực tướng. Bồ-tát như thế gọi là đơn tu Thiền-na.
4. Hai mươi lăm thứ thanh tịnh luân:
Tất cả Như Lai, Viên giác thanh tịnh nguyên
không có tu tập, nhưng chúng sanh khi chưa giác, huyễn lực tu tập có 25 thứ
thanh tịnh định luân.
Ba pháp môn thông gọi là định (Xa-ma-tha,
Tam-ma-bát-đề và Thiền-na) biến hoá ly hợp thay đổi tu tập gọi là Định luân.
Định có nghĩa là quyết định, luân có nghĩa là phá nát, 25 thứ có thể quyết định
phá nát hai chướng (phiền não chướng và sở tri chướng) chứng quả Bồ-đề Niết-bàn
nên gọi là thanh tịnh Định luân.
Trên đã nói về ba môn, tiếp theo:
5. Nếu Bồ-tát trước giữ rất tĩnh, lấy tâm tĩnh tuệ mà chiếu soi
các huyễn ở như trong đó khởi hạnh Bồ-tát. Vị Bồ-tát ấy trước tu Xa-ma-tha, sau
tu Tam-ma-bát-đề.
6. Nếu các Bồ-tát lấy tĩnh tuệ chứng tính rất tĩnh, liền đoạn
phiền não thoát khỏi sanh tử. Vị Bồ-tát đó trước tu Xa-ma-tha, sau tu Thiền-na.
7. Nếu các Bồ-tát lấy tuệ vắng lặng lại hiện ra huyễn lực biến hoá
rất nhiều độ các chúng sanh, sau đoạn phiền não mà tịch diệt. Vị Bồ-tát đó
trước tu Xa-ma-tha sau tu Tam-ma-bát-đề, sau nữa tu Thiền-na.
8. Nếu các Bồ-tát lấy lực chí tĩnh đoạn phiền não rồi, sau mới
khởi Bồ-tát thanh tịnh diệu hạnh độ chúng sanh. Vị Bồ-tát đó trước tiên tu
Xa-ma-tha, sau tu Thiền-na, sau nữa tu Tam-ma-bát-đề.
9. Nếu Bồ-tát lấy lực rất tĩnh, tâm đoạn phiền não, lại độ chúng
sanh kiến lập thế giới. Vị Bồ-tát đó trước tu Xa-ma-tha, sau đồng thời tu
Tam-ma-bát-đề và Thiền-na.
10. Nếu Bồ-tát lấy lực chí tĩnh, nhờ đó phát biến hoá, sau đoạn
phiền não. Vị Bồ-tát đó trước đồng thời tu Xa-ma-tha, Tam-ma-bát-đề và sau tu
Thiền-na.
11. Nếu các Bồ-tát lấy lực rất tĩnh để giúp cho tịch diệt, sau khởi
tác dụng biến hoá thế giới. Vị Bồ-tát ấy trước đồng thời tu Xa-ma-tha,
Thiền-na, sau tu Tam-ma-bát-đề, v.v…
(Xin
xem thêm trong kinh Viên Giác có đủ 25 thứ thanh tịnh định luân.)
I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1) Viên Giác
(đừng lầm với Duyên giác): a. Chỉ bực tu hành đến chỗ giác ngộ hoàn toàn
(rốt ráo) chứng quả Phật thừa rốt ráo.
b.
Chỉ sự giác ngộ tròn trịa, đầy đủ. Tất cả chúng sanh đều sẵn có cái Bổn giác
Chơn tâm. Từ vô thỉ đến nay cái Bổn giác ấy nó vẫn thường ở nơi mình, nó vẫn
thanh tịnh chiếu liễu, nhưng mình đang mê nên không tự biết. Đến khi tu thành
Đạo thì cái Giác ấy nó trở lại với mình, tròn trịa, đầy đủ. Đối với bực ấy cái
Thể gom về sự nhứt tâm, cái nhơn thâu vào Như Lai Tạng và cái quả tóm vào nền
Viên Giác.
(2) Khách trần: (thân tâm như khách trần) Khách trần là tiếng tỷ dụ phiền não.
Khách đối với chủ nhà nghĩa là người ở
xa đến tạm ngụ rồi đi chớ không ở hoài. Phiền não cũng như thế, người ta đối
cảnh mà sanh phiền não tức là phiền não từ ngoài vào và ở tạm nơi tâm mình.
Trần là trần cấu tức là bụi dơ. Phiền não bám vào ta làm dơ dáy thân tâm ta như
bụi dơ dính vật.
Trần cũng có nghĩa vật dao động cũng
như bụi bặm thì dao động. Phiền não ví như bụi bặm hay dao động (vọng tâm) còn
Chơn tâm Chơn tánh thì vắng lặng yên ổn tự nhiên.
II. PHẦN VẤN ĐÁP
1) — Đức
Uy Đức Tự Tại Bồ-tát hỏi Đức Phật như thế nào?
— Đức
Uy Đức Tự Tại Bồ-tát hỏi Phật tất cả phương tiện tiệm thứ khiến cho người cầu
pháp Đại thừa chóng được ngộ và chứng Viên Giác, du hý ở bể Đại tịch diệt của
Như Lai.
2)
— Đức
Phật đáp ra sao?
— Với
sự tu hành chứng quả Vô thượng Diệu giác thực không có hai, phương tiện tuỳ
thuận số đó không lường, thu nhiếp qui lại theo tánh sai biệt thì có ba thứ: 1.
Xa-ma-tha, 2. Tam-ma-bát-đề, 3. Thiền-na.
3) — Tu
theo ba pháp nầy ra làm sao?
— 1.
là Xa-ma-tha: Tàu
dịch là Chỉ, nghĩa là ngừng đậu vào đế lý chẳng loạn động, đình chỉ các vọng
niệm, tắt nghỉ cái lòng sái quấy phiền não để cho Tâm thanh tịnh.
2. là
Tam-ma-bát-đề: tức là Quán, nghĩa là soi chiếu thông suốt, lãnh hội lẽ Chơn-như
tức là dùng Trí huệ trừ diệt tận gốc phiền não vô minh, chứng đặng tánh Viên
Giác.
3. là
Thiền-na: Tàu dịch là Tĩnh Lự, Tĩnh tức là Chỉ, Lự là Quán. Chỉ Quán không hai
tức là Thiền-na. Pháp Thiền-na dạy phải song tu vì song tu Chỉ Quán tức là Định
Huệ đồng tu.
4)
— Hai
mươi lăm thứ Thanh tịnh định luân nghĩa là gì?
— Ba
pháp thông là Xa-ma-tha,
Tam-ma-bát-đề và Thiền-na gọi là định; ba pháp nầy biến hoá, ly hợp,
thay đổi tu tập gọi là luân. Định có nghĩa là quyết định, luân
có nghĩa là phá nát, 25 thứ có thể quyết định phá nát hai chướng (phiền não
chướng và sở tri chướng) chứng quả Bồ-đề, Niết-bàn gọi là Thanh tịnh định luân.
III. PHẦN TOÁT YẾU
Đức Uy Đức Tự Tại Bồ-tát hỏi Đức Phật tất cả phương tiện tiệm
thứ để tu chứng Viên Giác, Đức Phật phương tiện tuỳ thuận chỉ ra ba thứ là Xa-ma-tha, Tam-ma-bát-đề và Thiền-na.
– Xa-ma-tha: là Chỉ nghĩa là
ngừng đậu vào Đế lý chẳng loạn động, đình chỉ các vọng niệm, tắt nghỉ các lòng
sái quấy phiền não để cho Tâm thanh tịnh.
– Tam-ma-bát-đề: là Quán tức là
soi chiếu thông suốt, lãnh hội lẽ Chơn-như tức là dùng Trí huệ diệt trừ tận gốc
phiền não vô minh, chứng đặng tính Viên Giác.
– Thiền-na: là Tĩnh Lự. Tĩnh tức là Chỉ
(Xa-ma-tha), Lự tức là Quán (Tam-ma-bát-đề) Chỉ Quán không hai tức là Thiền-na.
Nhận thấy phép Thiền-na dạy song tu Chỉ Quán, vì song tu Chỉ
Quán tức là Định Huệ đồng tu.
Có 25 thứ thanh tịnh định luân. Ba pháp thông là Xa-ma-tha, Tam-ma-bát-đề và Thiền-na là định.
Ba pháp nầy biến hoá, ly hợp thay đổi tu tập gọi là luân. Định có
nghĩa là quyết định, luân có nghĩa là phát nát; 25 thứ có thể quyết
định, phá nát hai chướng (phiền não chướng và sở tri chướng), chứng quả Bồ-đề,
Niết-bàn nên gọi là thanh tịnh định luân.
BÀI TẬP
Xin giải đáp những câu hỏi sau đây:
1. Trong bài nói: Chỉ thuộc về Không môn, Chơn-như môn, noi theo
Chơn-như vô vi mà xa lìa các tướng, còn Quán thuộc về Hữu môn, Sanh diệt môn,
noi theo sự tướng hữu vi mà phát đạt trí giải vậy.
Xin hỏi: Vịn
theo đâu mà nói Chỉ thuộc về Không môn, Chơn-như môn, noi theo Chơn-như
mà xa lìa các tướng, còn Quán thuộc về Hữu môn, Sanh diệt môn, noi theo
sự tướng hữu vi mà phát đạt trí giải vậy?
2. Xin giải nghĩa câu Thụ dụng thế giới với thân tâm tướng ở cõi
trần, như âm thanh ở trong chuông tiếng ra bên ngoài, phiền não, Niết-bàn không
có lưu ngại, ở trong liền hay phát ra tịch diệt, khinh an.
Nam
Mô Long Hoa Thượng Hội Di Lặc Tôn Phật.
Kính
Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.
_____________________________________
BÀI 15
QUẢ VỊ BỒ ĐỀ
Bồ-đề hay Phật đà là tiếng Phạn, chữ Hán là
Đạo, tức là Giác, có nghĩa là sáng suốt, ngộ đặng chơn lý, chỉ cho bản thể Chơn
tâm lìa các vọng niệm, tròn khắp rộng lớn như hư không, cũng gọi là Pháp thân
Bình đẳng Như Lai (Phật tánh sẵn có). Bực tự giác, giác tha, giác hạnh viên
mãn, đắc Đạo thành Phật, tức là quả vị Bồ-đề.
TÂM THỨC:
Tâm thức là tâm hiểu biết do ý thức khởi phân
biệt. Tâm ấy vốn là hư vọng, không phải chơn thiệt. Bực Tiểu thừa chỉ thành lập
có sáu thức (Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân và Ý thức), trong khi tu hành, dùng ý
thức để công phu tạo tác nên không chứng được quả vị Bồ-đề.
BẢY CHỖ HỎI LÒNG
Muốn tu chứng quả vị Bồ-đề thì phải ngộ Chơn
tâm, lẽ cố nhiên phải biết rõ các thứ vọng tâm mê lầm. Vì vọng tâm mê lầm là
tâm hư vọng, sanh diệt vô thường, như tâm phan duyên, tức là tâm nương theo
duyên, theo cảnh vật ở ngoài do nơi mắt, tai, mũi, lưỡi, thân luôn luôn nương
theo sắc, thinh, hương, vị, xúc mà có. Còn ý thức cũng chỉ là thứ tâm lý có
gián đoạn, ý niệm luôn sanh diệt không ngừng và khi ta chết rồi thì ý thức cũng
tiêu tan.
Xem như ông A-nan đã chứng sơ quả Tu-đà-hoàn,
mà cũng còn nhận sự suy nghĩ hiểu biết làm tâm, nên mới bị nạn Ma-đăng-già như
sự tích dưới đây trong kinh Thủ Lăng Nghiêm:
Khi ấy nhằm vào khoảng
cư hạ của các Tỳ kheo đã giải chế, cũng là ngày giỗ kỵ phụ vương của vua
Ba-tư-nặc. Vua sắm đủ các món chay báu rồi đích thân đi rước Phật và các vị Đại
Bồ-tát đến trong cung mà dưng tiệc cúng dường. Trong lúc ấy có đại chúng đông
đủ, chỉ thiếu một mình ông A-nan là vì bữa trước ông đã thọ thỉnh một người
trai chủ ở xứ khác rồi, nên ông mắc đi xa chưa về kịp.
Ông chỉ đi có một
mình, đến chừng trở về nửa đường lại nhằm bữa không có ai dưng cúng, nên ông
bèn mang bình bát tới thành mà khất thực. Trong ý ông muốn trước cầu một người
lâu nay chưa có lần nào trai tăng mà làm một vị thí chủ, bất kỳ giàu hay nghèo,
quý hay tiện, nhơ hay sạch, nhà nào cũng đặng chớ ông không có lựa chọn, vì
lòng ông muốn làm pháp bình đẳng để viên thành công đức vô lượng cho tất cả
chúng sanh.
Vì ông đã từng nghe
Phật quở ông Tu-bồ-đề và ông Đại Ca-diếp, làm bực A-la-hán đi khất thực mà một
người bỏ nhà nghèo xin nhà giàu, còn một người bỏ nhà giàu xin nhà nghèo, tâm
không đặng quân bình.
Ông bèn ra ngoài
thành, rồi lần lần bước vào trong cửa thành nghiêm chỉnh, oai nghi, kính trọng
một pháp trì trai vậy.
Trong khi khất thực,
ông bị nàng Ma-đăng-già, một ả tứ thời dùng chú thuật của Kim đầu ngoại đạo mà
bắt ông vào phòng rờ rẫm, vuốt ve làm gần hư cái giới thể thanh tịnh của ông.
Phật đang chứng trai ở
cung vua Ba-tư-nặc, biết ông A-nan bị nạn, thọ thực rồi cáo về. Đến tịnh xá lên
pháp toà ngồi, Phật phóng một ngọn vô uý quang minh, trong ấy có một vị hoá
thân Phật tuyên thuyết một bài thần chú, rồi Phật dạy ông Văn Thù đem chú ấy
qua cứu ông A-nan và bắt luôn nàng Ma-đăng-già đem về chỗ Phật.
Ông A-nan về tới tịnh
xá thấy Phật, lòng ăn năn hỗ thẹn, bèn quỳ lạy dưới chơn Phật, khóc lóc mà bạch
rằng:
— Bấy lâu nay con ỷ
lại là em của Phật và đa văn quảng kiến, mạnh nhớ. Bao nhiêu pháp Tiểu thừa,
Đại thừa Phật nói ra con đều thuộc hết không quên một chữ, cho tới 12 bộ kinh
cũng đều nằm lòng. Con nghĩ rồi đây thế nào Phật cũng nghĩ tình anh em ruột
thịt, vì sự mạnh nhớ học nhiều mà chứng quả cho con thành Phật, khỏi cần tu
chứng chi hết. Hôm nay con mới vỡ lẽ rằng những sự ỷ lại ấy đều không nhằm chi
cả, cho nên đứng trước nữ sắc Ma-đăng-già mà con kềm chế cái Tâm con không
được, để đến nỗi nhọc lòng Phật sai ông Văn Thù Đại Bồ-tát qua cứu con. Vậy nay
con xin hỏi Phật cái pháp chánh giác để tu theo cái pháp chánh định, chứng quả
làm Phật mới mong đắc được quả Bồ-đề.
Sau
khi ông A-nan bạch hỏi như thế, Đức Phật bèn hỏi lại ông A-nan:
— Nầy A-nan, ngươi nói
đứng trước nữ sắc Ma-đăng-già mà ngươi kềm chế cái Tâm không đặng, vậy cái gì
là Tâm của ngươi?
Ông A-nan đáp:
— Theo lời Phật hỏi
cái gì là Tâm của tôi, thì tôi xin đáp với Phật rằng sự suy nghĩ, hiểu biết là
Tâm của tôi, ngoài sự suy nghĩ hiểu biết thì không có cái gì nữa đáng gọi là
Tâm được.
Khi ông A-nan bạch như
vậy, Phật bèn quở rằng:
— Đó có phải là Tâm
của ngươi đâu?
Ông A-nan nghe Phật
quở, thất kinh, liền đứng dậy chắp tay bạch rằng:
— Như cái hay suy nghĩ
hiểu biết đó chẳng phải là Tâm của tôi, thì kêu nó là cái gì? Và như vậy tôi
không có Tâm hay sao?
Phật đáp:
— Cái Tâm đó là nhơn
đối với cái tướng hư vọng của lục trần ở ngoài mà sanh ra, nên gọi nó là vọng
tưởng hay làm hoặc-loạn Chơn tánh của người, vì vậy chẳng nên nhận nó làm Tâm.
Từ
đời vô thỉ đến nay, ngươi nhận lầm nó làm Tâm, như nhận kẻ cướp làm con nên
phải thọ những nghiệp sanh tử luân hồi mãi mãi không dứt.
A-nan, thế thì từ kiếp
vô thỉ đến nay khiến ngươi bị trôi lăn trong biển sanh tử cũng bởi nguyên tại
Tâm. Vậy nay Ta hỏi ngươi Tâm của ngươi bây giờ ở tại đâu?
— Bạch Đức Thế Tôn,
tất cả trong thế gian mười loại chúng sanh ai cũng đều nhận cái tâm hay biết,
hay suy nghĩ ở tại trong thân.
1.
Phật phá cái Tâm ở trong thân
Phật hỏi ông A-nan:
— Hiện ông đang ở
trong Tịnh xá Kỳ Hoàn, làm sao ông thấy được rừng Kỳ Đà ở ngoài?
— Do cửa mở rộng nên
tôi mới thấy được rừng Kỳ Đà ở ngoài.
— Trước khi ngươi thấy
rừng Kỳ Đà ở ngoài, ngươi có thấy Phật và các hàng Thánh chúng không?
— Bạch, tôi thấy Phật
cùng các hàng Thánh chúng ở trong trước, rồi do nơi cửa mở mà tôi mới thấy rừng
Kỳ Đà sau.
— A-nan, nếu có người
nói: Tôi ở trong giảng đường chỉ thấy rừng Kỳ Đà ở ngoài, chớ không thấy Phật
và các hàng Thánh chúng ở trong được không?
— Bạch Đức Thế Tôn,
đâu có lý như vậy được.
— Cũng như thế, nếu
Tâm của ngươi ở trong thân thì nó phải thấy biết ở trong trước, rồi mới thấy
biết ở ngoài sau. Vậy Tâm ngươi có thấy biết gan, ruột, phèo, phổi của ngươi
chăng?
— Bạch không.
— Nếu nó không thấy
biết ở trong, mà lại thấy biết cảnh vật ở ngoài thì có khác chi người ở trong
giảng đường chẳng trông thấy Phật, mà ngoài lại thấy rừng mà ngươi cho là vô lý
đó. Thế thì ngươi nói Tâm ở trong thân là không phải rồi.
2.
Phật phá cái Tâm ở ngoài
— Bạch Đức Thế Tôn,
cái Tâm của tôi không phải ở trong nên không thấy ruột gan, phèo phổi mà nó lại
thấy cảnh vật ở ngoài, tức là nó ở ngoài. Có lẽ lý nầy chắc đúng.
— Nầy A-nan, có hai
người Tỳ kheo đi khất thực, nếu một người ăn thì người kia có no được không?
— Bạch Thế Tôn, hai
người Tỳ kheo tuy đã chứng quả A-la-hán, nhưng mỗi người đều có thân mạng
riêng, thì không thể có người nầy ăn mà người kia lại no được.
— A-nan ơi, nếu Tâm
ngươi ở ngoài thân, thì thân và tâm là hai vật khác nhau, không can thiệp với
nhau. Nếu không can thiệp nhau thì cái chỗ biết của Tâm thì thân không biết
tới, cũng như hai ông Tỳ kheo một người ăn thì người kia làm sao no được.
Bây giờ Ta giơ cái tay
lên, con mắt ngươi ngó mà Tâm ngươi có biết hay không?
— Bạch, biết.
— A-nan, con mắt thuộc
về thân, còn cái biết thuộc về Tâm. Ngươi ngó cái tay của Ta mà thân và tâm đều
thấy biết một lượt, thì thân và tâm đâu phải hai thể. Nếu đã không phải hai thể
thì làm sao gọi tâm ở ngoài thân được.
3.
Phật phá cái Tâm nép trong con mắt
— Bạch Đức Thế Tôn,
tâm tôi nó chẳng phải ở trong vì nó không biết trong, nó cũng chẳng phải ở
ngoài vì thân tâm đều biết một lượt, nhưng tuy nó không phải ở ngoài, mà nó hay
thấy ở ngoài, đó là bởi nó nép trong căn con mắt cũng như con mắt nép sau chén
lưu ly, mà chén lưu ly không chút gì làm ngại cho con mắt, nên hễ con mắt tuỳ
thấy vật gì thì tâm cũng tuỳ theo phân biệt được liền.
— A-nan, ngươi nói tâm
nép trong con mắt cũng như con mắt nép sau chén lưu ly, vậy khi con mắt thấy
cảnh vật, có thấy chén lưu ly không?
— Bạch thấy.
— Nếu tâm của ngươi
nép sau con mắt như con mắt nép sau chén lưu ly, thì tại sao đương khi tâm thấy
cảnh vật lại chẳng thấy con mắt. Nếu tâm thấy con mắt thì con mắt đồng với cảnh
vật bên ngoài rồi. Còn nếu như tâm chẳng thấy con mắt thì làm sao nói tâm nép
sau con mắt được.
4.
Phật phá cái Tâm ở cả trong và ngoài
— Hễ tôi mở mắt ra thì
thấy sáng tức là thấy ngoài. Còn nhắm mắt lại thấy tối tức là thấy trong, nghĩa
đó có phải như thế chăng?
— A-nan, đương khi
ngươi nhắm mắt mà thấy tối, vậy cái tối đó đối với con mắt hay không đối? Như
đối với con mắt thì cái tối ở trước con mắt chớ đâu phải ở trong. Nếu ngươi cho
rằng cái tối đó ở trong thì đang khi ban đêm, mấy chỗ tối không có đèn lửa, đều
là gan, ruột, phèo, phổi của ngươi hay sao? Còn như cái tối chẳng đối với con
mắt thì làm sao ngươi gọi là thấy được. Lại nếu nói mở mắt thấy sáng là tâm ở
ngoài, thì thân và tâm là hai vật khác nhau, như trường hợp thứ hai rồi. Vậy
nên biết ngươi nói tâm ở cả trong và ngoài là không trúng.
5.
Phật phá cái Tâm ở theo chỗ tuỳ hiệp
— Bạch Đức Thế Tôn,
tôi nghe Phật thường nói: Bởi tâm sanh nên pháp mới sanh, bởi pháp sanh nên tâm
mới sanh. Bây giờ tôi đem câu ấy mà suy nghĩ thì cái hay suy nghĩ đó là Tâm
tánh của tôi. Vậy nên, hễ tâm tuỳ theo một pháp nào đó mà sanh ra, chớ bất tất
định nó ở trong, ở ngoài chi cả.
— Ngươi đã hiểu chữ
hiệp chưa? Hiệp nghĩa là có hai thể gặp nhau như vung giáp nồi, như nắp đậy
hộp, vậy mới gọi là hiệp. Vả lại cái tâm suy nghĩ của ngươi nguyên là một thứ
vọng tưởng giả nguỵ, không có thiệt thể thì lấy chi mà hiệp đặng.
6.
Phật phá cái Tâm ở khoảng giữa
— Con mắt có thấy nên
thuộc về nội căn, sắc trần không biết nên thuộc về ngoại cảnh. Trong căn, ngoài
cảnh đối với nhau nên cái thức (tâm biết) mới sanh vào khoảng giữa. Vậy cái
khoảng giữa đó có lẽ là chỗ của tâm vậy?
— Tâm của ngươi ở giữa
căn trần, thì nó gồm cả căn và trần như cha mẹ hiệp nhau mà sanh ra, hay là
chẳng gồm căn và trần như chẳng nhơn cha mẹ mà tự sanh con được?
Vả chăng trần tức là
vật, căn tức là thể. Nếu gồm cả căn trần thì vật, thể tất phải lộn lạo vì vật
là thứ không biết, còn thể là thứ có biết. Nửa biết, nửa không đối địch nhau
thành ra hai bên thì đâu phải là giữa. Lại nữa, chẳng gồm đặng căn trần thì tâm
ngươi đã chẳng phải căn, là có biết, lại cũng chẳng phải trần, là không
biết. Vậy tức là không có thể tánh rồi thì lấy gì làm tướng giữa ấy đặng?
7.
Phật phá cái Tâm ở chỗ vô trước(1)
— Bạch Đức Thế Tôn,
lúc trước tôi thấy Phật cùng ông Mục-kiền-liên, ông Tu-bồ-đề, ông Phú-lâu-na và
ông Xá-lợi-phất thường nói: Cái Tâm tri giác phân biệt ấy chẳng ở trong, chẳng
ở ngoài và chẳng ở chặng giữa. Hễ nhứt thiết đều không trước cả thì gọi
là Tâm. Vậy thì cái mà tôi không trước ấy có thể gọi là Tâm được không?
— A-nan, ngươi nói cái
tâm tánh tri giác không ở vào đâu, rồi ngươi lấy cái mà không trước nơi tất cả
pháp làm tâm. Vậy cái nghĩa ba chữ tất cả pháp ngươi đã hiểu chưa? A-nan, phàm
trong cõi đời, cõi hư không, những loài ở dưới nước, loài ở dưới đất, loài bay,
loài chạy, loài vô tình, loài hữu tình, tổng bao nhiêu vật tượng hết thảy gọi
là tất cả pháp, mà nay ngươi nói không trước, thì cái không trước của ngươi đó
là tại tâm của ngươi nguyên không xứ sở mà không trước tất cả pháp, hay là
nguyên có xứ sở mà không trước tất cả pháp? Nếu nguyên không xứ sở mà tự nhiên
không trước thì cái tâm ấy đồng với lông rùa, sừng thỏ, gốc vốn là không rồi,
còn phải thêm hai chữ không trước làm chi? Còn nếu nguyên có xứ sở mà chẳng
trước tất cả pháp, thì thành ra bỏ cái trước mà lấy cái không trước. Nếu đã có lấy,
có bỏ thì đâu đặng gọi là không trước.
Bởi cái trước nó theo
nơi tâm không tướng mà khởi ra. Nếu ngươi quả không có cái Tâm tướng thì thiệt
là vô tâm. Nếu vô tâm thì quyết không có trước. Còn nếu ngươi không phải thiệt
là vô tâm thì tất có cái Tâm tướng. Nếu đã có Tâm tướng thì tất có chỗ sở tại.
Nếu đã có chỗ sở tại thì quyết định có trước, đâu đặng gọi là tất cả không
trước.
Vậy nên phải biết
rằng, ngươi nói tất cả không trước gọi là Tâm giác tri chắc là không phải.
. . . . . .
Kính thưa quí vị, nhận xét trong bảy chỗ hỏi
lòng, ông A-nan dùng cái Tâm suy nghĩ phân biệt, khi chấp có ở trong, ở ngoài,
ở giữa, nép sau con mắt, tuỳ hiệp, không trước, đều thuộc về Tâm thức hư vọng,
có chỗ trụ, chỗ chấp, chớ đâu phải là Chơn tâm. Tâm nầy hoặc do năm căn tiếp xúc
với năm trần mà tả tượng vào nội tâm, nên gọi nó là bóng tiền trần rọi nơi Chơn
tánh, hoặc do ý thức phân biệt mà có. Những thứ tâm hiểu biết ấy như trăng dưới
nước, như ảnh trong gương, hoa đốm giữa hư không.
Nên chú ý trong bảy chỗ hỏi lòng, Phật hỏi
Chơn tâm mà ông A-nan lại dùng vọng tâm để đáp, khi nói tâm ở trong, ở ngoài, ở
giữa đều có chỗ trụ, chỗ chấp, nên Phật mới phá được.
Bực Tiểu thừa, từ hàng Nhơn Thiên cho đến các
bực tiên gia ngoại đạo, cùng bực Tiểu thánh hữu học, bởi không biết đặng Chơn
tâm mầu diệu, nên cũng phải dùng ý thức mà tu hành. Thức đã không thiệt thì chỗ
chứng quả làm sao chơn? Cũng như bên Tiên gia buộc cái Tâm thức về sự nhớ nghĩ
không thôi, như buộc tâm vào dưới rún, rồi thấu xuống vĩ lư,(2) thẳng lên giáp
tích,(2) nhẩn đến đạt tới nê
hoàn(3) rồi xung lên đảnh mà xuất thần ra gọi là Dương Thần. Tan
ra thì thành gió, hợp lại thì thành hình, ngao du thiên hạ, tiêu diêu tự tại.
Công phu nhiều thì bay lên Thiên cung, công phu ít thì ẩn cư nơi bồng đảo.
“Nếu nương vào đây cho là phải, mà chẳng cần
tu Tam muội, đến khi quả báo nơi cõi Tiên hết, trở lại đoạ làm quỉ cõi dưới” (Vạn
pháp qui Tâm lục, Thiền sư Tổ Nguyên). Còn bực vô-sắc-giới tu pháp thiền
định tới chỗ cao sâu, trong lúc thiền không còn thấy thân và cảnh, chứng đặng
cái Tâm không, nhưng còn biết cái không không ấy, nghĩa là cũng còn trong
vòng hoạt động của ý thức, nên không được giải thoát ra khỏi tam giới, cho
đến các bực Tiểu thánh hữu học cũng đều như thế, chỉ trừ ra quả vị A-la-hán
diệt đặng thức thứ sáu mới ra khỏi Tam giới, nhưng lại chứng quả hoàn diệt chớ
đâu phải là Chơn tâm bao giờ. Về pháp môn niệm Phật cũng thế, dù cho trì danh
niệm Phật, hay niệm Phật nương theo hơi thở mà luôn luôn trụ chấp cái niệm ấy
cũng đều là sự hoạt động của ý thức, tức là pháp tu niệm Phật của Tiểu thừa,
chớ đâu phải pháp môn Tịnh độ của Đại thừa. Trong kinh Pháp Bảo Đàn, tổ Huệ
Năng có nói: “Có niệm là Tà, không niệm mới Chánh,” nghĩa là còn niệm là còn
trong vòng sanh tử, không niệm mới giải thoát, bởi vì không niệm tà, chánh, Tâm
ấy là tâm bất sanh, bất diệt, niệm Phật còn không có há lại có niệm chúng sanh
hay sao?
Nhưng mới tu phải lo niệm cách nào cũng được,
miễn là lo trừ niệm chúng sanh cho hết, nếu niệm không gián đoạn cũng được vãng
sanh về cõi Cực lạc để tu thêm nữa cho tới chỗ thành công đắc quả. Thế thì quả
vị Bồ-đề hẳn còn cách xa. Bởi vậy chư Tổ thường dùng môn Đốn pháp để đưa hàng
Tiểu căn qua bực Đại ngộ như:
1. Đừng lấy bùn mà rửa bùn:
Bùn sình là một thứ nước dơ, nay ta lại lấy
thứ nước dơ ấy để rửa vật đã dính bùn sình, thì biết chừng nào vật ấy mới được
trong sạch. Ví như Tâm ta bị phiền não làm dơ ố mà nay ta lại dùng Tâm sanh
diệt để công phu thì kết quả cũng là sanh diệt chớ đâu có khác.
2. Đừng lấy cát mà muốn nấu cho thành cơm:
Cát là loại đá mẳn, không phải là gạo, đem nấu
lại đòi thành cơm, đâu có lẽ đó.
— Hỡi quí vị Đạo tâm thân mến, tu hành muốn
thành Thánh quả Bồ-đề, lại khởi duyên dùng vọng tâm sanh diệt mà tu đặng cầu
quả vị Chánh giác, thì ví như lấy bùn mà rửa bùn, lấy cát muốn nấu cho thành
cơm, vì lấy Tâm sanh diệt vô thường mà tu để cầu chứng chỗ bất sanh bất diệt,
thật là chuyện ít có vậy.
— Cũng bởi mê, không chịu nương theo Chánh
pháp của Phật mà tu theo Chánh định, sanh niệm quấy ác do ý thức tác động nên
mới thành ra cảnh giới đau khổ trầm luân.
— Cũng bởi mê nên mới khởi ra niệm lành, lại
cho là phải, đều là do sự tác động của ý thức nên mới có cảnh giới Thiên đàng
mà thụ hưởng.
— Cũng bởi mê nên mới khởi ra cái niệm Phật và
cố chấp giữ mãi cái niệm ấy, do ý thức luôn luôn tác động nên mới khởi ra cái
cảnh giới Cực lạc vui vẻ, nhưng cũng may nhờ thần lực của Đức Tây phương Giáo
chủ A-Di-Đà Phật tiếp dẫn và thu nhiếp mới được ở hoài cảnh bất thối ấy, nhưng
cũng phải tu thêm cho đến quả Giác Bồ-đề.
Vậy nay nhờ tiền căn kiếp trước nhiều tu, lại
sanh đắc phùng thời gặp Long Hoa Thắng Hội tại thế, sao không cầu Pháp bảo Đại
quả để tự độ và độ người, lại cầu cái Tiểu quả làm mất cái dịp lập công bồi đức
ngàn năm một thuở, hay chỉ bo bo giữ lấy có một môn tu Phước, làm trái với
Thánh ý của Đức Giáo chủ Minh Trí, nghịch với huấn từ của Đức Tông Sư, thì sanh
tử khó thoát được.
Kính thưa quí vị, hãy tu đầy đủ hai môn, Phật
không có độ ta được, Thầy Tổ không cứu ta được, chỉ có ta độ lấy ta mà thôi.
Phật và Thầy Tổ là ông thầy chỉ đường cho ta
đi, còn đi đến nơi đến chốn là do ta đó thôi.
Xem như xưa kia ông A-nan là em của Phật, ỷ
lại nơi Phật độ mà còn không đặng thay, dù đã thuộc nằm lòng 12 bộ kinh, nhưng
đến khi gặp nạn Ma-đăng-già mới vỡ lẽ hư thực.
Thế thì không tu Huệ như Đức Giáo chủ Minh Trí
đã chỉ dạy, để biết rõ bổn tâm, bổn tánh mà thực hành pháp Tam-ma-địa (Chánh
định) thì làm sao đến đặng Long Hoa Hội?
_____________________________________
BÀI 16
QUẢ VỊ BỒ ĐỀ
(Tiếp theo)
— Trường Long Hoa đã mở, lấy gì để vào thi?
— Tịnh Độ Cư Sĩ Phật Hội Việt Nam đáp: Lấy
Phước Huệ để vào trường thi, vì chư Phật mười phương đều là bực Lưỡng Túc Tôn,
nghĩa là bực Phước Túc, Huệ Túc. Có câu: Tài pháp nhị thí thỉ thành công, Phước
Huệ lưỡng toàn phương tác Phật, nghĩa là thí tài, thí pháp thì chắc chắn đi đến
chỗ thành công, còn Phước Huệ đầy đủ là phương châm làm được Phật.
— Tiên Thiên Huỳnh Đạo Tam kỳ đáp: Lấy Phước
đức và Công đức để vào trường thi, vì Phước đức là môn tu Phước, còn Công đức
tánh là Trí huệ tức là Trí sáng suốt. Dùng Trí sáng suốt ấy để tạo ra vô lượng
Phước đức nhưng không trụ chấp mới được hoàn toàn giải thoát, tức là vào được
Hội Long Hoa.
— Các giáo phái cũng đều hiểu rõ như vậy nên
đua nhau lập công bồi đức, mở ra các cơ quan từ thiện và đồng thời lập ra các
Đạo tràng (trường học Đạo) để tu Huệ. Lại còn gởi Tăng Ni những bực nhơn tài ra
ngoại quốc đến xứ Phật (Ấn Độ) cùng các nước khác khảo cứu, sưu tầm, học hỏi
những cái cao thâm, huyền diệu để đem về cho Giáo hội, tín đồ của mình tu học
thêm, bởi lẽ họ biết Pháp bảo là một ngôi báu trong Tam Bảo, mà chư Phật quý
trọng hơn tính mạng của các Ngài, vì Pháp Bảo là nguồn gốc sanh xuất ra chư
Phật và các hàng Thánh chúng. Vậy nên kỉnh Phật bao nhiêu, họ quý trọng Pháp
Bảo và Tăng Bảo bấy nhiêu. Chỉ có Tôn giáo nào muốn đi lùi vào dĩ vãng mới thờ
ơ, lãnh đạm với ngôi Pháp Bảo. Không thể nào người tu Phật muốn tầm con đường
giải thoát mà lại không học Đạo pháp được. Từ xưa đến nay các vị Thiền sư, các
Tổ cùng các hàng Bồ-tát, càng tu cao chừng nào thì lại càng học Pháp Bảo thâm
sâu chừng nấy. Trong Tứ Hoằng thệ nguyện của các hàng Bồ-tát có câu: “Pháp môn
vô lượng thệ nguyện học” vì các Ngài biết không có Pháp Bảo thì đừng nói chuyện
tu hành giải thoát gì hết. Do những lý do trên nên Đức Giáo chủ Minh Trí, trước
khi viên tịch để Huấn từ lại dạy rằng:
Tinh tấn thực hành Phước Huệ Song Tu là lên
đường giải thoát,
Tinh tấn thực hành Phước Huệ Song Tu là đường
về Cực lạc.
Sau rốt Ngài còn nhấn mạnh, sợ chúng ta quên
lời dạy bảo nầy: Tôi tha thiết khuyên nhủ tất cả lớn nhỏ, nam nữ ghi lấy,
nhớ lấy.
Thật đúng như vậy, nếu không tu đủ hai môn thì
đã đành uổng một kiếp khổ cực tu hành của mình mà không được giải thoát, lại vô
tình huỷ diệt một công trình vĩ đại của một đời Ngài đã hoàn toàn hy sinh cứu
độ mình.
— Hỡi các cấp lãnh đạo toàn quốc! Hỡi những
người con chí hiếu của Đức Ngài, quí vị nên lèo lái, hướng dẫn các chức sắc,
hội viên, các hàng thiện nam tín nữ tu học cho đủ hai môn Phước và Huệ thì quí
vị mới khỏi ngỡ ngàng khi gặp lại Đức Giáo chủ Minh Trí nơi Long Hoa Tràng sau
nầy.
QUẢ VỊ BỒ-ĐỀ
Quả vị Bồ-đề là chỗ tu chứng rốt ráo viên mãn
của chư Phật, chỗ ấy không còn dùng ngôn ngữ, tư tưởng để tầm kiếm hiểu biết.
Chỉ có Phật với Phật mới hiểu nhau mà thôi, nhưng lại chỗ tuyệt đối ấy là nguồn
gốc sanh ra Trời đất, vũ trụ vạn vật.
Kinh nói: Trước khi chưa có Trời đất là một
khối Hồng Mông hỗn độn,(5)
tạm gọi là nhứt khí Tiên thiên, vô hình, vô tướng, nào đâu có vũ trụ vạn vật
bao la vô cùng vô tận, cùng thế giới, chúng sanh. Nay vì bất giác mê chơn, khởi
vọng niệm nên mới có Sơn hà, đại địa và vạn vật. Vọng niệm ấy gọi là Vô minh
bất giác.
Kính thưa quí vị Đạo tâm, động đến vấn đề nầy
thì năm châu thế giới, các bực Thánh nhơn, các hàng trí thức, học giả, đua nhau
nêu lên các câu hỏi thắc mắc quan trọng như dưới đây:
1. Nếu nói trước khi sanh ra Trời đất thì cái Bản thể đó là Nhứt
khí Tiên thiên. Vậy xin hỏi cái gì sanh ra Nhứt khi Tiên thiên?
— Đáp: Nhứt khí Tiên thiên là Thái cực,
Thái cực do Vô cực hay là Hư vô Tiên thiên khí sanh ra.
— Hỏi: Vậy Vô cực do cái gì sanh ra?
— Đáp: Tự hữu, hằng hữu, nghĩa là tự nó
có và hằng có hoài.
Đáp như thế là nhìn nhận cái thuyết tự nhiên
rồi, nhưng trong kinh Thủ Lăng Nghiêm Đức Phật bác hẳn cái lý tự nhiên và nhơn
duyên. Nếu đem câu hỏi nầy mà hỏi ông Duy Ma Cật thì chắc có lẽ ông cũng nín
thinh mà thôi. Ôi! Giải quyết không được vấn đề nầy mà đòi chứng quả ngôi Diệu
Giác sao đặng, nghĩa là phá mê tận gốc chưa nổi đó.
2. Nếu nói Nhứt khí Tiên thiên là vô hình, vô tướng, thường thanh,
thường tịnh, bất sanh, bất diệt sao lại có Vũ trụ, vạn vật vô tình nhẩn đến hữu
tình?
— Đáp:
a) Có một luận thuyết như vầy: Nhứt khí Tiên thiên lúc đó là một khối Hồng
Mông hỗn độn, bỗng nhiên phát hiện ra một vừng Đại Quang Minh. Cái Quang Minh
ấy mới phân ra thanh và trược. Hễ thanh thì nhẹ nhàng bay lên làm Trời, còn
trược thì nặng nề chìm xuống làm đất. Từ đó mới nối tiếp sanh ra muôn vàn sự
vật thế giới, nhân sinh.
b) Đạo Lão đáp: Đối với Nguyên thuỷ Vũ trụ, Đức Lão Tử chỉ
quan niệm là Đạo. Nó vốn là một sự hỗn hợp mà thành, nó sinh ra trước Trời đất,
vừa trống không, vừa yên lặng, đứng yên không biến đổi, trôi đi khắp mà không
thôi, có thể làm mẹ đẻ của thiên hạ. Ta không thể biết tên nó là gì, phải đặt
tên là Đạo và gượng gọi nó là Đạo. Như vậy theo Đức Lão Tử, vật Nguyên thuỷ
sanh ra Vũ trụ vạn vật, vẫn là một vật không tên, hay đúng hơn là chưa có tên
mà Ngài cưỡng danh gọi là Đạo.
c) Khoa học đáp: Từ thế kỷ 19, khoa học tìm thấy tất cả vật
chất đều do 92 nguyên tố hoà hợp lại mà thành, theo từ đơn vị gọi là nguyên tử.(6) Sau người ta
tìm thấy một nguyên tử bao hàm điện tử và chất tử nữa. Rồi dần dần họ lại phân
tích đến điện lực và năng lực cũng như quang tuyến vô hình. Như vậy đơn vị cuối
cùng của vật chất chưa phải là nguyên tử và cũng chưa chắc nó là điện tử, chất
tử, vì điện tử nó chỉ là một điện tử lực vẫn quay tít, bay vùn vụt, đi đi lại
lại không ngừng, nó có thể là Quang tuyến mà cũng có thể bị tiêu diệt ngay. Vậy
đối với vấn đề vật chất là gì, khoa học ngày nay chưa có một quan niệm rốt ráo
về nó.
d) Đạo Phật đáp: Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, ông Phú Lâu Na
hỏi Phật: Tánh Như Lai Tạng là thanh tịnh bản nhiên, mà sao lại thoạt nổi lên
núi, sông, đất liền và các tướng hữu vi?
Đức Phật đáp: Do Vô minh.
Ông Phú Lâu Na hỏi thêm: Nếu Vô minh là nguyên
nhơn sanh ra vạn pháp, vậy cái gì sanh ra Vô minh?
Đức Phật đáp: Do Vọng minh (chấp sáng).
Vậy nên biết một niệm vọng minh là ông Tổ của
tất cả các tướng hữu tình và vô tình vậy. Nên hễ một niệm vọng minh khởi thì
làm ra thế giới, trong một niệm tối tăm thì thành ra hư không. Thế thì thế giới
sắc tướng, hư không bao gồm vạn vật, vũ trụ từ vô hình đến hữu hình, sở dĩ có
cũng đều do một niệm vọng minh sanh ra mà thôi (Thủ Lăng Nghiêm).
Nếu có người thắc mắc hỏi thêm:
— Cái niệm vọng minh ấy lại do cái gì sanh ra?
Đáp:
— Do vô minh sanh ra vì bởi mê muội, tối tăm
(mê chơn) mới chấp sáng. Cái chấp sáng đó là vô minh rồi. Đáp như thế tức là
dùng lý tương đối, còn đứng về mặt Bản thể với Hiện tượng sâu xa hơn, là đáp:
Cái vọng niệm vọng minh ấy (có niệm) do vô niệm sanh ra, tức là do Bản thể sanh
ra Hiện tượng.
Còn đứng về mặt Viên dung Bình đẳng thì Vọng
minh tức là Vô minh, Vô minh tức là Vọng minh, Bản thể tức là Hiện tượng, Hiện
tượng tức là Bản thể, tuy hai mà là một, tuy một mà là hai, không hai, không
sai, không khác, không trong, không ngoài, nên nói Thể, Dung, Tánh, Tướng Như
như bình đẳng. Nếu đáp theo lý tuyệt đối thì không phải Hiện tượng, không phải
Bản thể, không phải có niệm, không phải vô niệm, tức là phải nín thinh, chỉ chỗ
bặt đường ngôn ngữ, hết chỗ nghĩ lường, nhưng tuỳ duyên độ lấy chúng sanh mà
nói là có niệm, không niệm, có Bản thể, có Hiện tượng, có Sanh tử, có Bồ-đề
thiệt tướng rõ ràng chiếu soi trùm khắp Vũ trụ vạn vật.
HOA BÁT-NHÃ, TRÁI BỒ-ĐỀ
Trong kinh Kim Cang Chư Gia, nhơn dịp người
anh của ông Xung Ứng xem kinh Viên Giác, đưa cho ông coi mà nói: Cổ nhơn có nói
rằng:
Xanh xanh tre sậm vốn
thiệt Chơn-như,
Mơn
mởn hoa vàng há không Bát-nhã.
Chơn như, tre sậm một loài, bởi không nhiễm
sắc, thinh, hương, vị. Bát-nhã hoa vàng một thể, vì chẳng chấp Kiến, Văn, Giác,
Tri.
Ông Trần Hùng nói: Ba-la-mật có sáu pháp,
nhưng chỉ có Bát-nhã hay sanh tám muôn bốn ngàn Trí huệ, thì do sáu độ gồm đủ,
muôn hạnh vẹn toàn. Cho nên Như Lai dùng cái đục Trí huệ soi núi Nhơn ngã, dùng
sức Trí huệ khai khoáng phiền não, dùng lửa Trí huệ thét nên vàng ròng (Phật
tánh). Do lẽ đó, chúng ta phải lo tu Huệ không dụng pháp mà công phu, vì
còn dụng pháp mà công phu tức là lối tu của bực Tiểu thừa. Có câu: “Nhơn Thiên
ái ngã, Nhị thừa ái pháp.”
Ông Trần Hùng giải chữ Phật là Giác (Phật
tánh). Giác trong Tâm không các vọng niệm, Giác ngoài cảnh chẳng nhiễm lục
trần, chớ đâu có bảo tu thiền, tu định, tu tịnh, tu niệm, tu thần thông, hay
thả lỏng cho Tâm thức chạy rong theo cảnh trong, mà lại khen là huyền, là diệu,
vì Phật tánh của ta không có những thứ ấy.
Tổ Huệ Năng nói: Thiền định và giải thoát
không phải là Phật pháp. Bực thượng tu, ngoài ở nơi tướng mà lìa tướng, trong ở
nơi không mà lìa không. Phật còn là thừa rồi, huống chi những cái gì khác. Vả
lại, Phật là một vị Giáo chủ, chẳng phải tướng mà hiện tướng là Ứng thân Phật,
Tướng mà chẳng phải tướng là Báo thân Phật, chẳng phải tướng, chẳng phải không
tướng là Pháp thân Phật.
Phật đã là thừa thì pháp lại có thể có hay
sao? Nên Đức Thế Tôn bảo ông Tu Bồ Đề rằng:
“Tu Bồ Đề, bằng có pháp chi mà Như Lai đặng
đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thì Phật Nhiên Đăng chẳng thọ ký cho Ta
qua đời sau hẳn đặng làm Phật. Bởi thiệt chẳng có pháp chi mà đặng Đạo Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác, cho nên Phật Nhiên Đăng mới thọ ký cho như vầy:
Ngươi qua đời sau hẳn đặng làm Phật, hiệu Thích Ca Mâu Ni.”
Hỏi: Nếu nói Phật là
thừa, như vậy chẳng có Phật hay sao? Nếu có Phật thì Phật ấy là cái gì?
Đáp: Tâm mình là Phật,
chẳng có Phật nào khác. Nếu nói ngoài Tâm có Phật, thì Phật ấy là giả, nên nói
rằng thừa.
Hỏi: Nay chính khi
vọng niệm khởi, Phật tại chỗ nào?
Đáp: Nay khi biết vọng
niệm khởi, biết ấy chính là Phật. Vì thế nếu không có vọng niệm thì Phật cũng
không. Tại sao vậy? Vì mình khởi Tâm chấp thấy Phật, bèn bảo có Phật, nên thành
cái chấp thấy chúng sanh, bèn bảo có chúng sanh nên độ. Khởi Tâm niệm Phật, bèn
bảo có cõi Cực lạc nên vãng sanh. Khởi tâm động niệm thảy là chỗ thấy biết của
mình. Nếu không tất cả thấy biết, thì Phật ở chỗ nào? Như Đức Văn Thù Sư Lợi
vừa khởi thấy Phật, liền liếc thấy hai ngọn núi Thiết vi.
Hỏi: Nay chính khi ngộ,
Phật ở chỗ nào?
Đáp: Hỏi từ đâu đến,
biết từ đâu khởi, nói, nín, động tịnh, tất cả sắc thinh đều là Phật sự, chỗ nào
lại tìm Phật. Chỉ chớ sanh kiến chấp khác thì núi là núi, nước là nước, tăng là
tăng, tục là tục, núi sông, quả đất, mặt trời, mặt trăng, sao, thảy đều không
ngoài Tâm mình. Ba ngàn thế giới, trọn là tự thể của mình, chỗ nào có nhiều
thứ? Ngoài Tâm không pháp, khắp thấy núi xanh, hư không thế giới rõ ràng, mà
không có bằng mảy tơ, sợi tóc cho mình sanh hiểu biết, nên nói: Tất cả sắc thinh
là mắt Huệ của Phật. Pháp không khởi riêng, nương cảnh mới sanh, vì vật nhiều
có trí nhiều. Trọn ngày nói mà chưa từng nói, trọn ngày nghe mà đâu từng nghe.
Đức Thích Ca 49 năm nói pháp mà chưa từng nói một chữ.
Hỏi: Nếu vậy chỗ nào
là Bồ-đề?
Đáp: Bồ-đề cũng không
phải chỗ, Phật cũng không được Bồ-đề, chúng sanh cũng không mất Bồ-đề. Không
thể do thân mà được, không thể lấy Tâm mà cầu, tất cả chúng sanh tức là tướng
Bồ-đề.
Hỏi: Thế nào là phát
tâm Bồ-đề?
Đáp: Bồ-đề không sở
đắc, nay mình chỉ phát Tâm không sở đắc, quyết định không được một pháp, tức là
Tâm Bồ-đề. Bồ-đề không có chỗ trụ, thế nên không có chỗ đắc. Nên nói: Ta ở nơi
Phật Nhiên Đăng không có một chút pháp nào có thể được, Phật liền thọ ký cho
Ta. Biết tất cả chúng sanh vốn là Bồ-đề, không lẽ lại được Bồ-đề. Nay nghe nói
phát Tâm Bồ-đề, bèn cho là có một Tâm học làm Phật. Chỉ nghĩ làm Phật dù có tu
ba A-tăng-kỳ kiếp cũng chỉ là Báo thân, Hoá thân, cùng với Phật Chơn tánh Bản
nguyên có gì liên hệ?
(Hoàng Bá Đoạn Tế Thiền sư Uyển Đăng Lục)
SỰ TU CHỨNG QUẢ VỊ BỒ-ĐỀ
1. Bực Tối thượng: Kinh nói: “Bất tri bổn tâm, bất thức bổn
tánh, học pháp vô ích. Nhược tri bổn tâm, thức tự bổn tánh, tức danh Đại trượng
phu, Thiên Nhơn sư, Phật.” Nên chỉ trong một câu, một lời nói, một niệm, liền
thể nhập Chơn-như, chứng quả thành Phật, chẳng cần lịch kiếp tu hành. Bực ấy ví
như người lực sĩ quên hạt châu trên trán, hướng ra ngoài tìm kiếm, chạy khắp
mười phương, trọn không thể được. Gặp người trí chỉ cho liền thấy bảo châu như
cũ. Để cho dễ nhận thức, chúng tôi xin thí dụ sau đây: Mình đang ngồi niệm
Phật, chợt có người nói: Thể của niệm Phật là vô niệm, mình bèn ngộ chỗ vô tâm,
quyết định biết tất cả pháp vốn không sở hữu, cũng không sở đắc, không y, không
trụ, không năng, không sở, không động vọng niệm, liền chứng quả Bồ-đề. Phải
biết bực nầy đã trải qua vô lượng kiếp học Pháp bảo rồi, nay mới đặng như vậy.
2. Bực tu thứ lớp: Bực nầy không trực chỉ nhơn tâm, kiến tánh
thành Phật liền được, nên phải tu học có thứ lớp, nghĩa là lần lần tu tiến cho
đến khi chứng được quả vị rốt ráo.
Muốn tu chứng được quả vị Vô thượng Bồ-đề, lẽ
cố nhiên phải biết Tâm bất giác. Tâm bất giác có ba tướng tế và sáu tướng thô,
nên gọi là Tam tế, lục thô. Nơi đây chúng tôi không còn nói đến sự đoạn trừ Lục
thô, chỉ nói về phá ba tướng tế mới chứng được quả Phật.
Ba tướng tế ấy là:
a) Nghiệp tướng vô minh: Do vô minh bất giác sanh tâm vọng động.
b) Chuyển tướng vô minh: Do tâm vọng động nên chuyển Tạng không Như
Lai làm Thức tánh (Tạng thức) cũng gọi là tâm năng kiến.
c) Hiện tướng vô minh: Vì có tâm năng kiến (năng phân biệt) nên cảnh
bị phân biệt hiện ra, tức là sở kiến, cũng gọi là Tướng phần.
Muốn phá ba tướng tế nầy, lẽ cố nhiên phải
dùng Thỉ giác đến Cứu cánh giác. Thỉ giác lại có bốn lớp từ thô đến tế là Sanh,
Trụ, Dị, Diệt.
Chúng tôi chỉ nói về chỗ giác ngộ niệm Trụ để
trừ tâm năng sở, rồi mới đến chỗ giác ngộ niệm Sanh để trừ Nghiệp tướng vô minh
chứng quả Bồ-đề.
GIÁC NGỘ NIỆM TRỤ
Bồ-tát phá một phần vô minh thì chứng được một
phần Pháp thân, gọi là Sơ địa. Phá hai phần vô minh thì chứng được hai
phần Pháp thân, gọi là Nhị địa. Cho đến phá mười phần vô minh thì chứng
được mười phần Pháp thân, gọi là lên Thập địa. Vì phá vô minh từng phần
nên gọi là Tuỳ phần giác.
Các vị Bồ-tát nầy ban sơ còn trụ ở năng sở đối
đãi nên gọi là trụ tướng vô minh. Đến khi nhập Chơn-như quán, chỉ nhứt tâm
Chánh niệm Chơn-như, chứng đặng Pháp thân thanh tịnh, không còn năng sở đối đãi
nữa, không còn tướng niệm trụ, tức là trừ được Chuyển tướng vô minh.
GIÁC NGỘ NIỆM SANH
Bồ-tát bực Đẳng giác, giác ngộ đặng niệm sanh,
tức là phá trừ được Sanh tướng vô minh, nghĩa là đang khi tu hành, đến lúc Chơn
cùng hoặc tận, tột bực Thập địa, chứng bực Đẳng giác, liền dùng trí Kim Cang
đoạn trừ sạch Sanh tướng vô minh. Trí Kim Cang chỉ cái lý thấu được thật tướng.
Thật tướng ấy như chất Kim Cang rắn chắc bền bỉ, không hư hoại, không hao kém,
như gươm bén phá vỡ hết các tướng cùng các sự chấp trước. Ấy là giác ngộ niệm
Sanh, xa lìa các vọng hoặc vi tế và nhứt niệm hiệp với Chơn thể Chơn-như, chứng
được quả Diệu Giác thành Phật gọi là Cứu cánh giác, tức là quả vị A-nậu-đa-la
Tam-miệu-tam-bồ-đề, hay là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, gọi tắt là
quả vị Bồ-đề tương đương với sự chuyển Vô Cấu thức hay Ym-ma-la thức, hay Bạch
tịnh thức thành Pháp giới Thể tánh Trí.
Chừng ấy toàn thể của thức đều tiêu tan, nhưng
còn trí, mà trí cũng hết đối đãi thì lần lần cũng mất, trở thành cái Tạng Đại
quang minh y như xưa.
Than ôi! Trải qua bao nhiêu cuộc tang thương
biến đổi, để rồi cuối cùng tu thành Phật cũng chẳng thấy có chi thêm có chi bớt
hết (có nói trong bài Giác).
PHẦN KẾT LUẬN
Kính thưa quí vị, Quả vị Bồ-đề là chỗ rốt ráo,
viên mãn cao sâu mầu nhiệm, phải dùng ba nhơn tu chứng mới đắc quả thành công.
1. Chánh nhơn: Tâm Chơn như là cái nhơn chánh để thành Phật
chớ không phải dùng Tâm thức hư vọng mà cầu được.
2) Duyên nhơn: Phật, Bồ-tát và kinh sách là trợ duyên để
thành Phật.
3) Liễu nhơn Phật tánh: Là chánh nhơn và duyên nhơn đầy đủ mới làm
cho hành giả liễu ngộ Phật tánh của mình.
LỜI PHỤ: Trong thời kỳ mạt pháp nầy, chúng
sanh phần nhiều phước mỏng nghiệp dày, làm sao mà tu hành đến ngôi Diệu giác
nổi? Phần thì phải trả nghiệp, nhồi quả trong vô lượng kiếp đã lỡ gây ra, nên
chi thây chất thành non, máu chảy thành suối. Đành rằng chúng sanh đã sẵn có
chánh nhơn là Tâm Chơn-như, duyên nhơn là Đức Di Lặc ra đời lập Hội Long Hoa.
Các hàng Bồ-tát, Giáo chủ viết kinh, thuyết pháp dạy dỗ, nhưng chúng sanh cũng
không đủ khả năng để đi đến chốn.
Biết rõ như thế nên Đức Giáo chủ Minh Trí phải
quyền dạy từ thấp lên cao. Trước hết Ngài dạy phần Nhơn đạo, hành Lễ Bái Lục
Phương và pháp môn niệm Phật dễ nhớ dễ tu, hợp với thời kỳ đó chưa có ai hiểu
biết kinh kệ gì hết. Lần lần Ngài dạy qua Phật đạo cũng từ từ, khởi đầu là pháp
Thọ Tam qui, Trì Ngũ giới và Tịnh Tam nghiệp (bực hạ). Kế tiếp pháp Trừ Lục
căn, Diệt Lục trần (bực trung). Và sau cùng là pháp Lục độ ba-la-mật tức là
thực hành Phước Huệ Song Tu, vì có Phước túc, Huệ túc mới là cái phương châm
làm được Phật. Đó là Liễu nhơn Phật tánh, là sự liễu ngộ Phật tánh của mình.
Nam Mô A-Di-Đà Phật, kính thưa quí vị, điều
cần ghi nhớ là trước khi viên tịch, Đức Từ phụ Giáo chủ còn lưu lại Huấn từ như
trên đã nói, hầu khuyến khích chúng ta nên mạnh dạn và mau tiến đến quả vị bất
thối.
Ôi! Biển rộng sông dài, vũ trụ bao la, nhưng
không so được lòng Từ bi bác ái của một vị Giáo chủ đối với chúng sanh, một
đấng Cha lành đối với đàn con dại. Sở dĩ chúng tôi nhắc lại Huấn từ của Đức
Giáo chủ là để cho quý vị nhớ thực hành đầy đủ hai môn đặng vào trường thi Long
Hoa Thắng Hội, chiếm cho đặng bảng vàng, làm vẻ vang cho Tịnh Độ Cư Sĩ Phật Hội
Việt Nam, rạng danh cho Thầy Tổ, cũng tức là đắc được quả vị Bồ-đề. Ấy là báo
hiếu cho Đức Giáo chủ Minh Trí đó quí vị.
Và quí vị nên biết, bài pháp nầy nói về bực
Tối thượng Chánh đẳng Chánh giác, nên chúng tôi phải phá các pháp tu thiền, tu
định, tu niệm, tu Phước hữu lậu… chớ không phải chúng tôi dám bài bác các pháp
tiệm tu ấy. Vì các pháp ấy cũng do Phật, Thánh, Tiên dạy… Vậy nên bực nào Giác
ngộ, thực hiện được Đốn pháp thì cứ tiến tu, còn bực nào chưa kham phải giữ tu các
Tiệm pháp, nhưng cố gắng đừng trụ một chỗ mà khó tiến lên được… Trong 37 phẩm
Trợ đạo, Đức Phật cũng có dạy là phải xả cái pháp mình đã tu chứng rồi, để tu
tiến lên quả vị cao hơn nữa.
Trước khi dứt lời, chúng tôi thành tâm cầu
nguyện cho Âm siêu, Dương thới, lưỡng lộ tồn vong tổng giai thành Phật đạo.
I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1) Tâm vô trước: Tâm không chấp tướng, không trụ tướng, không thủ tướng, không
nhiễm tướng v.v…
(2) Vĩ lư hay
vĩ cung: đốt xương chót cuối xương sống dưới mông (danh từ Tiên đạo).
(3) Giáp tích:
Xương sống (danh từ Tiên đạo).
(4) Nê hoàn:
là đảnh đầu, điểm cao nhứt trong cơ thể con người, cũng gọi là Thiên môn (danh
từ Tiên đạo), bên Phật học từ điển thì gọi là Niết bàn.
(5) Hồng mông hỗn độn: Một thể rộng lớn mênh mông lộn xộn chưa phân ngôi thứ.
(6) Nguyên tử:
Phần nhỏ nhứt của vật chất gồm có dương tử (proton), trung hoà tử (neutron) và
điện tử (électron) hay âm tử. Dương tử và trung hoà tử cấu thành cái nhân mà
điện tử quay chung quanh.
II. PHẦN VẤN ĐÁP
1) — Tại
sao trong bảy chỗ hỏi lòng (Tâm) ông A-nan trả lời Tâm ở trong, ở ngoài, nép
trong con mắt, ở cả trong ngoài, ở khoảng giữa, vô trước, đều bị Phật bác hết?
— Vì
bảy chỗ ấy có chỗ trụ, chỗ chấp đều thuộc về vọng tâm chớ không phải chơn tâm
nên Phật đều bác hết.
2) — Trong
lúc tu hành ai ai cũng phải lạy Phật, niệm Phật, làm phước thiện hoặc như bên
Tiên gia luyện các phép thần thông huyền diệu tuyệt vời, còn các cõi Trời
Vô-sắc-giới tu pháp thiền định của Đức Phật dạy tới chỗ cao sâu, chứng đặng cái
Tâm không, còn bực A-la-hán chứng đặng Niết bàn tịch diệt mà không thành đạo
Bồ-đề được hay sao?
— Vì
còn dùng cái ý thức để tu, để công phu, hay diệt cái ý thức để chứng quả hoàn
diệt, tất cả đều còn trong vòng tạo tác hay chấp không, chớ đâu phải cái Đạo vô
thượng chánh đẳng chánh giác của Đức Như Lai. Tu nhơn không thiệt thì chỗ chứng
quả làm sao Chơn? Lấy cát nấu mà muốn thành cơm sao được.
3) — Trường
Long Hoa đã mở, làm sao chiếm cho được bảng vàng?
— Phải
tu Phước ba-la-mật và Huệ ba-la-mật vì Phước Huệ Song Tu là Lục độ ba-la-mật.
Không có sáu chiếc đò lớn nầy khó đến đặng bờ bên kia (bờ Đại Giác của chư
Phật) ắt còn phải bị nhận chìm trong biển khổ, sông mê muôn ngàn ức kiếp nữa.
Khổ thay! Thương thay!
4) — Quả
vị Bồ-đề nghĩa là gì?
— Là
chỗ tu chứng rốt ráo viên mãn của chư Phật. Chỗ ấy không còn dùng ngôn ngữ, tư
tưởng để tầm kiếm, hiểu biết. Chỉ có Phật với Phật mới hiểu nhau mà thôi, nhưng
lại chỗ tuyệt đối ấy là nguồn gốc sanh ra Trời đất Vũ trụ muôn vật. Đó cũng là
cái tâm chung của muôn loài vạn vật vậy.
5) — Nói
như thế thì cái Tâm ta, Phật cùng vạn vật là cái Bản thể của Vũ trụ hay sao?
Nếu đúng như vậy thì cái tâm hiểu biết ở trong thân nầy là cái gì, không phải
cái tâm của ta sao?
— Cái
tâm hiểu biết ở trong thân ta là cái vọng tưởng hư dối bị nhốt trong thân như
tên tù bị nhốt trong ngục thất. Chúng sanh ai ai cũng nhận lầm thằng giặc ấy
làm con nên mới nông nỗi bị nó dẫn dắt lăn lộn trong ba đường, sáu nẻo, không
có ngày thảnh thơi. Ấy cũng tại chúng sanh mê chơn mà bỏ cái thể nguyên minh
rộng lớn của mình để cam đành theo giặc là vậy. Hãy nghe một trong năm bài kệ
của đức Đạt Ma Tổ sư trong Ngộ Tánh Luận như vầy:
Canh ba tâm tịnh sánh hư không,
Rộng
khắp mười phương đâu chẳng thông
Tường
vách núi sông không cản ngại
Bao la
Vũ trụ tự nơi trong
Tánh
của Càn khôn là Phật tánh
Cũng
không Bổn tánh tức hàm dung
Nào
phải riêng đâu chư Phật được
Hữu tình muôn loại vẫn
chung đồng.
6) — Muôn
loài vạn vật vũ trụ đều đồng nhau một Tâm nầy, tại sao đồng một Bản thể rộng
lớn lại sanh ra muôn loài sai khác?
— Đức
Phật nói do một niệm vọng minh là Ông Tổ của các tướng hữu tình và vô tình. Hễ
một niệm vọng minh khởi thì làm ra thế giới, còn một niệm tối tăm thì thành ra
hư không. Thế thì thế giới sắc tướng hư không bao gồm vạn vật vũ trụ từ vô hình
đến hữu hình, sở dĩ có cũng đều do một niệm vọng minh sanh ra mà thôi. (Kinh
Thủ Lăng Nghiêm).
III. PHẦN TOÁT YẾU
Quả vị Bồ-đề là chỗ tu chứng rốt ráo của chư Phật không còn năng
sở đối đãi cũng gọi là Bản giác, Chơn giác hay Phật tánh sẵn có.
Ông A-nan tuy tu chứng đặng sơ quả Tu-đà-hoàn nhưng chưa ngộ
đặng Tâm nầy, thành thử Phật hỏi ông bảy lần về Bổn Tâm của ông. Ông đáp ở
trong, ở ngoài, ở giữa v.v… đều bị bác hết vì còn có chỗ trụ. Không thể dùng
cái Tâm thức để công phu tu chứng quả vị Bồ-đề được mà phải ngộ Bổn Tâm, Bổn
Tánh tức là thấy Tánh thành Phật, không cần tu trong A-tăng-kỳ kiếp. Bổn Tánh
của Ta rộng lớn bao trùm muôn sự muôn vật chớ chẳng phải cái Tâm thức nhỏ hẹp
trong thân Ta đâu, Bổn Tánh ấy tức là Bản thể của vũ trụ vạn hữu, Phật, chúng
sanh cùng muôn loài hữu tình cũng như vô tình đều đồng chung nhau một Bổn Tâm
nầy chớ không phải riêng đâu chư Phật được.
Muốn đặng thấy Tánh thành Phật hay tu chứng cho được Bổn Tâm nầy
thì phải thật hành Phước Huệ Song Tu tức là môn tu Phước ba-la-mật và môn tu
Huệ ba-la-mật, vì Phước Huệ Song Tu của Đức Giáo chủ Minh Trí chỉ dạy là Lục độ
ba-la-mật vậy. Có đủ Phước túc và Huệ túc, chắc chắn vào được Hội Long Hoa và
chiếm bảng vàng rạng danh muôn thuở và vì lẽ đó rất cần, nên đức Ngài trước khi
viên tịch để Huấn từ lại dặn rằng:
TINH TẤN THỰC HÀNH PHƯỚC HUỆ SONG TU LÀ LÊN ĐƯỜNG GIẢI THOÁT.
TINH TẤN THỰC HÀNH PHƯỚC HUỆ SONG TU LÀ ĐƯỜNG VỀ CỰC LẠC. Rồi còn nhấn mạnh: TÔI THA THIẾT KHUYÊN NHỦ TẤT CẢ LỚN NHỎ,
NAM NỮ GHI LẤY, NHỚ LẤY.
Nếu không ghi lấy, nhớ lấy, không thực hành đầy đủ Phước Huệ
Song Tu thì sẽ ra sao các Ngài?
BÀI TẬP
1. Ông A-nan nhắc lại với Phật: Lúc trước tôi thấy Phật cùng ông
Tu-bồ-đề, ông Phú-lâu-na, ông Mục-kiền-liên, ông Xá-lợi-phất thường nói cái Tâm
tri giác phân biệt ấy chẳng ở trong, chẳng ở ngoài và chẳng ở chặng giữa. Hễ
nhứt thiết đều không trước cả thì gọi là Tâm. Vậy thì Cái mà tôi không
trước ấy có thể gọi là Tâm được không?
Xin giải thích rành rẽ hai câu in chữ nghiêng và xin nói rõ chỗ
sai biệt của hai câu ấy.
2. Xin giải thích câu: Như Đức Văn Thù Sư Lợi vừa khởi thấy
Phật, liền liếc thấy hai ngọn núi Thiết vi?
3. Xin giải thích câu: Chỉ chớ sanh kiến chấp khác thì núi là
núi, nước là nước, tăng là tăng, tục là tục, núi sông, quả đất, mặt trời, mặt
trăng, sao, thảy đều không ngoài Tâm mình?
4. Tất cả Sắc Thinh là con mắt Huệ của Phật nghĩa là gì?
— H Ế T —
Nam
Mô Long Hoa Thượng Hội Di Lặc Tôn Phật.
Kính
Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét