Thứ Hai, 9 tháng 3, 2020

QUI ĐIỀU NHẬP MÔN


TỊNH ĐỘ CƯ SĨ PHẬT HỘI VIỆT NAM
* * *



QUI ĐIỀU
NGƯỜI MỚI NHẬP MÔN


Tịnh Độ Cư Sĩ Phật Hội Việt Nam là một tôn giáo do người cư sĩ sáng lập, lấy Phước Huệ Song Tu làm tôn chỉ tu học hành thiện, và lấy pháp môn niệm Phật làm căn bản.
Những người muốn qui y, nhập môn theo TĐCS PHVN là người đã thường xuyên đến với giáo hội, và đã am hiểu ít nhiều về đường lối tu học hành thiện. Bất luận nam nữ, lớn nhỏ, giàu nghèo, nếu có tâm nguyện lành muốn qui y tu hành theo đường lối TĐCSPHVN đều được cả. Riêng trẻ dưới 15 tuổi, phải có sự đồng ý của thân nhân, cha mẹ.
Khi nào nhận thấy thích hợp muốn qui y nhập môn theo Giáo hội thì phải đích thân đến hội quán gần nơi cư trú của mình, gặp quí vị lãnh đạo Giáo hội để hỏi và nghe giải thích, hướng dẫn qui điều dành cho người mới nhập môn như thế nào, tu học hành đạo ra sao. Sau đó nhận xét thấy thích hợp thì xin mẫu đơn để điền các chi tiết vào. Tiếp theo học thuộc lòng bài nguyện nhập môn để đến ngày qui định tới chùa làm Lễ Qui y.
Người mới nhập môn không phải đóng bất cứ một lệ phí nào cả, chỉ cần có nhang đèn bông quả là được. Trường hợp không có thì Giáo hội sẽ lo.
Tự mình phát nguyện tu hành, thọ trì Tam qui Ngũ giới trước Phật đài, mỗi tháng trai lạt 2 ngày, 6 ngày hoặc 10 ngày, hoặc trường trai tuỳ theo sức khoẻ khả năng, Giáo hội không bắt buộc.
Khi làm lễ Qui y do Ban Chấp hành Đạo đức hướng dẫn xong, xem như từ nay mình chánh thức là người một Thầy, huynh đệ một nhà, là hội viên tín đồ của TĐCS PHVN.
Hằng tháng nên lui tới Giáo hội, trước Lễ Phật nghe Pháp, học hỏi giáo lý đạo đức. Sau làm công quả phước thiện như: chặt, phơi, sưu tầm thuốc, hoặc tham gia các công tác từ thiện xã hội khác.
Trường hợp người đau bệnh nặng không thể đến chùa mà phát tâm muốn Giáo hội làm Lễ Qui y, nhờ gia đình cử người đến thỉnh các vị trong Ban để thực hiện ngay tại nhà.
Người mới nhập môn phải giữ sáu điều:
1. Thọ Tam Qui
2. Trì Ngũ giới
3. Công phu tứ thời
4. Trai kỳ
5. Trì niệm Lục tự Di Đà
6. Phải thường xuyên đến chùa lễ Phật, nghe pháp ít nhất hai ngày vào mùng Một, Rằm mỗi tháng và các ngày vía Phật.

***

TỊNH ĐỘ CƯ SĨ PHẬT HỘI VIỆT NAM
  <Tên Hội quán làm Lễ Qui y>
*

Số: ……………/Quyển: ……….


TỜ ĐĂNG KÝ QUI Y

Họ và Tên:________________________________________________
Pháp danh: ________________________________________________
Năm sinh: _________________________________________________
Họ và tên cha: _____________________________________________
Họ và tên mẹ: ______________________________________________
(________________________________________________________ )
Giấy CMND số:____________________________________________
Địa chỉ thường trú: __________________________________________
_________________________________________________________
Số điện thoại: ______________________________________________
Ngày qui y:___________________________   tại:_________________
Người đảm trách qui y:_______________________________________
Người giới thiệu: ___________________________________________
                                               ……… ngày … tháng … năm ……
                                                         Người xin qui y ký tên,

          ______________________
          GHI CHÚ: Trước khi quy y:
            1. Phải học thuộc lòng bài nguyện hương và Điều lệ người mới nhập môn.
            2. Làm tờ đăng ký quy y.
            3. Nộp 2 tấm ảnh 2x3cm để làm Giấy Chứng nhận.


1. THỌ TAM QUI
Thọlãnh, vâng chịu; tamba, quituân theo, giữ theo. Qui cũng có nghĩa là trở về, nghĩa là sửa đổi lòng vọng ra chơn, đặng y theo giáo lý của Phật.
Tam qui là: Qui y Phật, Qui y Pháp, Qui y Tăng.
QUI Y PHẬT
Qui y Phật nghĩa là tuân theo Phật, nguyện y theo lời Phật dạy.
Phật là bậc toàn giác, toàn minh, thoát ly ra ngoài biển khổ, còn chúng sanh thì say mê theo bể ái trầm luân, chịu luân hồi đời đời kiếp kiếp. Bởi không biết khổ là khổ mà trở lại cho khổ là vui, nên phải vơ vẩn trong biển luân hồi đời đời chịu khổ: Sống khổ, đau khổ, già khổ, chết khổ.
Nay ta muốn vượt qua biển khổ đến bến Bồ đề thì ta phải tuân theo Phật, phải làm y theo Phật. Phật tức là Đức Thích Ca Mâu Ni, ngài là Giáo chủ cõi ta bà này.
Ta làm y theo Phật, thì không chấp tướng ta với người, không chia rẽ kẻ lạ người quen, giống này da khác, cũng không phân biệt giai cấp, sang hèn quyền quí chi cả, chỉ giữ một lòng bình đẳng mà giúp đời, vì người người đều có Phật tánh. Kinh Niết Bàn có câu: “Nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh.” Ta giúp đời thì phải có lòng từ bi như Phật. Có câu: “Từ dã năng phổ chúng sanh chi lạc, Bi dã năng bạt chúng sanh chi khổ.” Nghĩa là: Lòng lành rải khắp sự vui cho chúng sanh, lòng thương hay đẩy lui sự khổ cho chúng sanh.
Vậy ta phải có lòng từ thiện, yêu nhân loại, bố thí giúp đỡ kẻ đói rách hoạn nạn, phải tịnh tâm, nhẫn nhục, độ lượng khoan dung, phải an vui với đời mà chịu những điều cực nhọc, phải học theo hạnh Phật Thích Ca lo cứu người thoát khổ, phải coi cái nghiệp duyên chung của quần chúng là trọng đại hơn nghiệp duyên của cá nhân. Như vậy mới đúng lý nhiệm mầu và khỏi trái lòng Từ bi của Phật. Vậy là qui y Phật.
QUI Y PHÁP
Qui y Pháp nghĩa là tuân theo giáo pháp của Phật dạy, tức là Kinh, Luật, Luận.
KINH: Khi Phật còn tại thế, Ngài đi ta bà giảng dạy chúng sanh trong 49 năm, gọi là thuyết pháp, hoặc Ngài bảo các vị bồ tát giảng. Rồi sau các đệ tử tu hành đắc đạo, gia công biên chép lại những lời giáo huấn của Phật (có đủ nghĩa lý thấp cao, rộng hẹp) ra từng tập, lưu truyền cho đến đời nay gọi là Kinh Phật.
LUẬT: Luật là giới luật, như ngũ giới, thập giới, v.v… Phật chế giới luật rõ ràng, xuất gia hay tại gia, các Phật tử phải nương theo giới luật mà tu hành, làm lành lánh dữ. Học Phật tu Phật mà không giữ giới, cũng như người đi trong đêm tối mà không đèn không đuốc, phải vấp ngã chẳng sai.
LUẬN: Luận là luận bàn. Sau khi Phật tịch rồi, có nhiều vị cao tăng tu hành đắc đạo, vì thấy Phật pháp cao sâu mầu nhiệm, phần nhiều người hiểu lầm hành sái, nên ra công viết sách, giải nghĩa lý cho rõ ràng minh bạch, gọi là tạng Luận.
Phật đạo có tám vạn bốn ngàn (84.000) pháp môn, nhưng không phải là số nhất định, vì tục ngữ bên Ấn Độ gọi 84.000 thay cho con số nhiều lắm không kể xiết.
Lập pháp môn nhiều như vậy là tuỳ theo căn cơ, phương tiện cho chúng sanh, ai tu pháp nào cũng đặng.
Vậy người tu hành cần phải suy nghĩ cho biết rõ chân lý mà tu hành để khỏi lầm đường lạc nẻo, mới có thể thoát vòng khổ hải.
QUI Y TĂNG
Qui y Tăng là tuân theo ông Thầy giảng dạy Phật pháp. Tăng theo tiếng Phạn là Sangha, dịch âm là Tăng già, nghĩa là hoà hiệp, tức là những Thầy dạy đạo chơn chánh đã thông suốt đạo lý.
Nay ta được biết Phật, biết phương pháp tu hành, là nhờ ông Thầy dạy ta học Phật. Vậy người tu hành theo Phật phải noi theo gương của ông Thầy và phải vâng chịu điều chỉ bảo. Mỗi người đều có trí lương tri, lương năng, biết phân biệt chơn giả, nếu biết là chơn là phải, thì cứ thực hành đi, không nên chần chờ, tinh tấn tu hành lập công bồi đức, tìm hiểu cái lý “Sanh tuỳ hà xứ lai, tử tùng hà xứ khứ,” nghĩa là mình bởi đâu mà sanh ra, rồi chết sẽ về đâu, lảu thông cái nghiệp trái trần duyên, chừng ấy tâm mình thường thanh, thường tịnh, không động, không xao, mới mong siêu thoát tam giới, chứng quả Niết bàn.

2. TRÌ NGŨ GIỚI
Trìcầm nắm, giữ gìn; ngũnăm; giớiđiều răn, dặn dò. Ý nói ta dặn dò lòng ta, phải nắm giữ bo bo cái điều răn đó, đừng cho nó hở ra, như ta nắm giữ châu báu trong tay sợ mất vậy. Có câu: “Đắc nhứt thiện, quyền quyền phục ưng, phất thất như dã.” Nghĩa là: Đặng một điều lành, bo bo nắm giữ vào lòng, đừng để rớt mất.
Người mà phát tâm tu hành, trước hết phải giữ tròn năm điều răn: 1- không được sát hại sanh linh; 2- không được trộm cắp; 3- không được tà dâm; 4-không được nói dối; 5- không được uống rượu.
Người mà giữ trọn năm điều răn ấy tức là giữ trọn năm nhơn cách: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
GIỚI THỨ NHẤT: CẤM SÁT SANH
Cấm người giết hại lẫn nhau, cùng loài động vật; các giống ấy đều có tánh như người, nó cũng tham sống sợ chết, nó cũng đôi bạn, cũng sanh đẻ, cũng biết khát uống, đói ăn, biết lạnh trốn gió, biết nực dầm nước, biết đau, biết nhức, sợ đánh, sợ đâm, nó cũng biết ơn đền nghĩa trả, mà nỡ nào sát hại sanh mạng nó cho đành.
Người cùng loài vật cũng đồng một bản thể, nếu chúng nó có tu cũng thành Phật như ta vậy. Kinh Niết Bàn nói: “Chúng sanh đều có Phật tánh.” Theo luật thế gian, hễ giết người thì phải thường mạng, còn luật nhơn quả của tạo hoá thì lại gây cuộc oan trái, nối tiếp luân hồi quả báo cho hậu thân. Muốn tránh tội sát sanh, không chi bằng ăn chay. Ăn chay có nhiều bực như là: ăn chay theo sóc vọng là mỗi tháng 2 ngày, lục trai là 6 ngày, thập trai là 10 ngày, vân vân...
GIỚI THỨ HAI: CẤM TRỘM CƯỚP
Không đặng cướp giựt, lập mưu kế lường gạt mà đoạt của người.
Người đời thường coi của tiền quá trọng, túi tham không đáy, tham muốn không cùng, nên mới sanh ra cái tội trộm cắp lường gạt. Thử hỏi mình mất tiền của có biết ưu sầu tiếc nuối không? Dẫu cho ai cũng trả lời rằng “có” vậy. Thế thì tất nhiên ai mất của tiền lại không ưu sầu tiếc nuối như mình?
Như vậy thì nỡ nào sanh lòng trộm cướp lường gạt mà lấy của người cho đành. Có lắm người vì bị trộm cắp mà phải khốn cùng, có nhiều người vì bị lường gạt mà phải quyên sanh. Thánh nhơn có dạy rằng: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhơn,” nghĩa là điều gì mình không muốn, thì đừng làm cho người. Làm lành thường bữa an vui, gây dữ có ngày mang hại, đó là lẽ cố nhiên ai ai cũng biết.
Nếu mỗi người đều phát tâm tu hành, chẳng màng ăn ngon, mặc tốt, ở đẹp, thì tất phải tuyệt đặng lòng tham, lại còn tu hạnh bố thí, có tiền của cho người, giúp người, cho đến lời nói cũng hằng khuyên người hướng thiện, được toàn cả như vậy thì sẽ đặng thái bình.
IỚI THỨ BA: CẤM TÀ DÂM
Tà dâm là tội lấy vợ, con người. Gian dâm vợ người, rủi bị chồng người bắt đặng, vì ghen tương mới có sự đâm chém, giết hại lẫn nhau. Gian dâm con của người, làm cho gia đình người bị nhục, đến nỗi phải trầm mình hay là tự tử vì bị danh nhơ.
Vậy người giữ giới tà dâm không nên sanh lòng tà ngoại; chồng phải giữ phận chồng, vợ phải lo tròn phận vợ, rốt lại nam nữ phải giữ chánh lễ. Vả lại ở thế gian nầy, từ loài người cho đến loài cầm thú, đều cũng bởi sự dâm dục mà gây nên các việc, tạo nghiệp sanh tử. Kinh Phật gọi thế gian nầy là cõi dục giới. Nếu người tu hành hằng làm lành lánh dữ, hàm dưỡng tinh thần, để cầu cho thần thức nhẹ nhàng, tránh khỏi vòng sanh tử, thì có đâu phạm đến điều dâm dục, hà huống là sự tà dâm.
GIỚI THỨ TƯ: CẤM NÓI DỐI
Nói dối là một sự rất ác độc; nói dối chẳng qua là muốn lợi cho mình, đặng phần mình. Hễ nói thêm thì dư  cho người cũng hại, còn bớt thì thiếu của người cũng nguy.
Thường ở đời có lắm người bị đổ thừa nói thêm hoặc bị dối trá lường gạt, mà bậu bạn phải chia lìa, cửa nhà tan nát, làm cho cha xa con, vợ rẽ chồng, đến nỗi có lúc phải quyên sanh tánh mạng, thiệt là hại thay, độc ác thay !
Sách có câu: “Bán cú phi ngôn, ngộ tổn bình sanh chi đức” nghĩa là nửa câu nói quấy thì gặp sự mất đức của mình. Vì vậy Phật cấm không được nói dối. Thấy sao, nghe sao, phải lặp lại y lời, đừng thêm đừng bớt. Nếu người người đều tu hành, biết sợ “khẩu nghiệp” thì tất nhiên tránh đặng cái tội vọng ngữ.
GIỚI THỨ NĂM: CẤM UỐNG RƯỢU
Rượu là một thứ thuốc dễ làm say người, tốn của người. Uống nó vào bụng thì người khôn lanh hoá ra khờ dại; hễ rượu vào thì lời ra, sanh lắm điều tác tệ, việc gì ác đức cũng dám làm, dầu cho mẹ, vợ con, bậu bạn cũng không kể đến. Nó làm cho con người mê muội quên tất cả bổn tánh.
Rượu uống thì hừng chí, ngũ tạng xao động, lửa lòng phừng lên, tâm tánh rối loạn, không phân biệt chánh tà, mất gương trí huệ. Vì vậy Phật cấm uống rượu, để được tâm tánh vững vàng, yên thần lặng trí.
Ngũ giới cấm lập thành là do đức Văn Thù Bồ tát. Ngài bạch cùng Phật Thích Ca, xin lập ngũ giới cấm đặng chế phục kẻ phàm phu không làm quấy, để đặng trọn lành. Từ ấy lưu truyền đến nay (do theo kinh Huệ mạng).

3. CÔNG PHU TỨ THỜI
Là thời gian dùng để lễ bái Phật trong bốn thời: 6 giờ sáng, 12 giờ trưa, 6 giờ chiều, 12 giờ khuya. Trước khi lễ bái phải y phục chỉnh tề, quỳ trước bàn Phật thành tâm đọc bài công phu tứ thời, rồi lễ 24 lạy (nếu bận việc hoặc trong người không được khoẻ, lễ 6 lạy). Lạy xong, đứng dậy xá 3 xá trước bàn Phật, kế xoay theo bên trái ra phía sau xá 3 xá và tiếp tục xoay bên trái trở lại trước bàn Phật xá 3 xá là đủ. Trường hợp người cư sĩ bận rộn thì công phu vào hai thời: Lúc 6 giờ sáng và 6 giờ chiều.
Sau đây là bài nguyện công phu tứ thời:
Nam Mô A Di Đà Phật (niệm 3 lần xá 3 xá).
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (niệm 3 lần xá 3 xá).
Nam Mô Cứu Khổ Cứu Nạn Quan Thế Âm Bồ Tát (niệm 3 lần xá 3 xá).
Nam Mô Đức Tông Sư Minh Trí, Giáo chủ Tịnh Độ Cư Sĩ Phật Hội Việt Nam tác đại chứng minh (niệm 3 lần xá 3 xá).
Nam Mô Đức Bà Cô Năm Diệu Thiện tác đại chứng minh. (niệm 1 lần xá 1 xá).
Đệ tử cúi xin Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni, chư Phật, Hiền Thánh Tăng chứng minh cho đệ tử (tên họ, pháp danh, tuổi) vẹn giữ một lòng ngay thẳng, cầu cho Huệ tâm, Huệ tánh, Huệ nhãn, Huệ nhĩ, Huệ tỉ, Huệ khẩu, siêu phàm nhập thánh, tế độ quần sanh, tổng giai thành Phật Đạo, chung qui trực vãng Tây Phương.
Nam Mô A Di Đà Phật (xá 3 xá lễ 24 lạy).


4. TRAI KỲ
Là ăn chay mỗi tháng 2 ngày mùng Một và Rằm. Hoặc bốn ngày là 14, 15, 30 (tháng thiếu 29) và mùng 1. Hoặc 6 ngày là mùng 1, mùng 8, 14, 15, 23, 30 (tháng thiếu 29). Hoặc 10 ngày là mùng 1, mùng 8, 14, 15, 18, 23, 24, 28, 29, 30 (tháng thiếu 27, 28, 29). Ban đầu ăn chay mấy ngày cũng được, lần lần ít nhất là 10 ngày chay lạt.


5. TRÌ NIỆM LỤC TỰ DI ĐÀ
Trìcầm nắm, giữ gìn, niệmghi nhớ. Lục tựsáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật. Trì niệm lục tự Di Đà là ý nói dặn dò nơi lòng giữ gìn, ghi nhớ sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật đừng cho xen hở. Đó là thực hành pháp môn Tịnh Độ vậy.
Phật Thích Ca tả cảnh Tịnh Độ (trong Kinh A Di Đà Tiểu bổn) như vầy: “Từ đây qua hướng tây xa lắm, có một thế giới kêu là Cực lạc, là chỗ của đức Phật A Di Đà ở và đương thuyết pháp. Người trong cõi ấy toàn là vui sướng, thanh nhàn, muốn chi đặng nấy, không điều cực khổ. Nơi ấy không có ác đạo, thật là một phước địa đẹp đẽ trang nghiêm, và người ở được cõi đó, đời đời kiếp kiếp khỏi phải luân hồi.”
Phật Thích Ca thấy chúng sanh chịu nhiều điều khổ não, nào là sanh, lão, bịnh, tử, nên đem lòng từ bi, truyền chỉ pháp môn Tịnh Độ là tu trong một đời người sẽ đặng thành Đạo.
Pháp môn Tịnh Độ của Ngài dạy đây, chẳng có chi khác hơn là niệm sáu chữ “Nam Mô A-Di-Đà Phật.” Thật là một phép dễ tu, dễ chứng và rất hạp với hoàn cảnh của mỗi người, già, trẻ, gái, trai, giàu, nghèo, đều có thể tu được cả, nhưng chủ yếu có một điều là phải giữ lòng cho đặng thuỷ chung như nhứt, kính tin cho đặng chắc chắn đến cùng, thì được vãng sanh về Cực lạc.
Trong Phật thuyết A-Di-Đà kinh có nói: “Ở thế gian, nếu trai lành gái tín phát tâm tu hành, gần lúc lâm chung, nhờ trì niệm danh hiệu của đức Phật A-Di-Đà, hoặc một ngày, hoặc hai ngày cho đến bảy ngày, tâm không rối loạn, thì Ngài và thánh chúng đến tiếp dẫn chẳng sai.” Lại cũng trong kinh trên đây, đức Thích Ca có nói rằng: “Ai có lòng tin Phật thường niệm danh hiệu của Đức A-Di-Đà, phát nguyện sanh về Cực lạc, thì người ấy quyết chắc thành Phật, không phải đoạ lạc nơi tam đồ lục đạo nữa.”
Đức A-Di-Đà, vì lòng thương chúng sanh vô hạn, nên lập ra 48 điều thệ nguyện độ tận chúng sanh và thề rằng: Nếu còn một điều nguyện của Ngài mà không thành tựu, quyết không làm Phật. Hiện nay Ngài ở tại Tây phương Cực lạc thế giới, đệ tử của Ngài là bực Thinh văn, Duyên giác và Bồ tát, dân của Ngài đều là người trí huệ, an nhàn tự tại, lại nhờ các vị Bồ tát, La hán chỉ phép tu hành không hề thối chuyển.
Vậy chúng ta hãy tin chắc chắn nơi lời vàng ngọc của đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, và nơi nguyện lực tiếp dẫn của đức A-Di-Đà mà cầu sanh về Tịnh Độ, thọ trì qui giới, tịnh tam nghiệp, và tập niệm lần lần sáu chữ “Nam Mô A-Di-Đà Phật” thường giờ, thường ngày, hằng tháng, hằng năm, một lòng tưởng niệm; cho đến lúc đi đứng, nằm ngồi, đừng quên, thì đặng phần vãng sanh về Cực Lạc. Được như vậy mới đúng câu: “Nhứt cú Di-Đà vô biệt niệm, bất lao đàn chỉ đáo Tây phương.” Nghĩa là: một câu Di-Đà không tưởng khác, chẳng nhọc khảy tay đến Tây phương.


6. PHẢI ĐẾN CHÙA LỄ PHẬT
Ngoài các ngày vía Phật, mỗi tháng ít nhất phải đến chùa (Giáo hội gần nhà) 2 lần, mùng Một và ngày Rằm. Hoặc những dịp lễ vía, lễ an vị Phật, khai trương Phòng thuốc, v.v… Đến chùa để trước lễ Phật nghe pháp, học hỏi giáo lý đạo đức, sau gặp huynh đệ trau dồi sự tu học, lập công bồi đức, hầu được phước túc huệ túc, mau đạt đến chỗ hoàn toàn giải thoát.
Nam Mô A Di Đà Phật.

******


BÀI NGUYỆN NHẬP MÔN
Người thọ Tam Qui phải học thuộc lòng bài này
và tự mình xướng lên trước Phật đài:
Nam Mô A Di Đà Phật (xá)
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (xá)
Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quan Thế Âm Bồ tát (xá)
Nam Mô Đức Tông Sư Minh Trí, Giáo chủ Tịnh Độ Cư Sĩ Phật Hội Việt Nam tác đại chứng minh (xá)
Nam Mô Giới hương, Định hương, Huệ hương, Giải thoát hương, Giải thoát tri kiến hương, mỗi nhựt phần hương thấu đáo thập phương. Tạ thiên, tạ địa, tạ tứ phương.
Nam Mô A Di Đà Phật (3 lần, xá 3 xá)
Hôm nay, ngày …… tháng …… năm ………, đệ tử (tên họ, tuổi), nguyện cầu Ơn trên chư Phật Hiền Thánh Tăng chứng cho con thọ Tam quy, Trì ngũ giới, gìn lòng ngay thẳng, giữ dạ tu hành. Cầu được huệ tâm, huệ tánh, huệ nhãn, huệ nhĩ, huệ tỷ, huệ khẩu, siêu phàm nhập thánh, tế độ quần sanh, tổng giai thành Phật đạo, chung quy trực vãng Tây phương.
Con nguyện từ hôm nay, con là một Phật tử trung thành, vận dụng khả năng cả tài lẫn lực, hầu thực hiện khắp cùng chủ nghĩa từ bi bác ái của Đức Như Lai, theo pháp môn Phước Huệ Song Tu của Đức Tông Sư Minh Trí đã chỉ dạy.
Nam Mô A Di Đà Phật (3 lần, xá 3 xá).
Lễ đủ 24 lạy, đứng lên xá 3 xá, sau đó xoay ngược chiều kim đồng hồ, xoay mặt ra cửa chánh điện xá 3 xá, rồi xoay vô chánh điện xá 3 xá.
Lễ Phật xong qua lễ Đức Quan Thế Âm 12 lạy, và lễ Đức Tông Sư 6 lạy.
Cần yếu: Người thọ Tam Qui phải chay lạt 6 hay 10 ngày, ít lắm là 2 ngày sóc — vọng, và 2 ngày này phải đến hội quán gần nhà mình để cùng Giáo hội chung lo vun bồi đạo đức.
- Ăn chay 6 ngày (lục trai) vào các ngày âm lịch: mùng 1, mùng 8, 14, 15, 23, 30 (tháng thiếu 29).
- Ăn chay 10 ngày (thập trai) vào các ngày âm lịch: mùng 1, mùng 8, 14, 15, 18, 23, 24, 28, 29, 30 (tháng thiếu 27, 28, 29).

* * * * * * * * *

BÀI NGUYỆN CÔNG PHU TỨ THỜI
Nam Mô A Di Đà Phật (niệm 3 lần xá 3 xá).
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (niệm 3 lần xá 3 xá).
Nam Mô Cứu Khổ Cứu Nạn Quan Thế Âm Bồ Tát (niệm 3 lần xá 3 xá).
Nam Mô Đức Tông Sư Minh Trí, Giáo chủ Tịnh Độ Cư Sĩ Phật Hội Việt Nam tác đại chứng minh (niệm 3 lần xá 3 xá).
Nam Mô Đức Bà cô Năm Diệu Thiện tác đại chứng minh (niệm 1 lần xá 1 xá).
Đệ tử cúi xin Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni, chư Phật, Hiền Thánh Tăng chứng minh cho đệ tử (tên họ, pháp danh, tuổi) vẹn giữ một lòng ngay thẳng, cầu cho Huệ tâm, Huệ tánh, Huệ nhãn, Huệ nhĩ, Huệ tỷ, Huệ khẩu, siêu phàm nhập thánh, tế độ quần sanh, tổng giai thành Phật đạo, chung qui trực vãng Tây Phương.
Nam Mô A Di Đà Phật (xá 3 xá lễ 24 lạy).


Thứ Tư, 4 tháng 3, 2020

GIÁO LÝ CĂN BẢN CẤP 5


TỊNH ĐỘ CƯ SĨ PHẬT HỘI VIỆT NAM


GIÁO LÝ CĂN BẢN
CẤP 5



Biên soạn:
Cư sĩ LIỄU NHƯ






MỤC LỤC
                                                                                                                     
Bài 1:         Chín lớp định của cõi Sắc và Vô sắc
Bài 2:         Bồ tát thừa — Hiền và Thánh
Bài 3:         Bát thức Tâm vương — Chuyển thức thành trí
Bài 4:         Các chơn lý Sắc Không của Đạo Phật
Bài 5:         Thuyết Duyên khởi
Bài 6:         Giác
Bài 7:         Vô minh
Bài 8:         Diệu dụng vô ngại (Chơn như dụng)
Bài 9:         Nguyên nhân sâu xa sanh ra vạn pháp
Bài 10:       Nguyên nhân sanh ra thế giới, chúng sanh, nghiệp quả
Bài 11:       Tứ cú kệ Kim Cang
Bài 12:       Kiến tánh thành Phật
Bài 13:       Công phu gỡ niêm thoát trần tức Bội trần hiệp giác
Bài 14:       Cửa vào Viên giác
Bài 15:       Quả vị Bồ đề
Bài 16:       Quả vị Bồ đề (tiếp theo)


BÀI 1

CHÍN LỚP ĐỊNH
CỦA CÕI SẮC VÀ VÔ SẮC

Trong chín lớp định nầy, bốn lớp định của Trời Tứ Thiền và bốn lớp định của Trời Tứ Không đều là phàm vị,(1) chỉ có bực Diệt Thọ Tưởng thì thuộc về Thánh vị.(2)

A. TỨ THIỀN THIÊN
1. Sơ thiền:
Hành giả phải ngồi kiết già hay bán già, đếm hơi thở (thở vô và thở ra thì đếm một, cứ như thế đếm lên đến mười; rồi đếm trở lại đừng cho xen hở). Khi hơi thở được điều hoà(3) thì biết trong Tâm có dáng êm đềm, yên ổn, trụ ở nơi tịnh duyên mà chẳng tán loạn thì là Thô trụ; rồi lần lần thiếp trụ(4) hơn trước thì gọi là Tế trụ.(5)
Sau lúc Tế trụ một thời gian (một vài tháng), thoạt nhiên Tâm địa có một phần mở mang tỏ rõ, rồi cái thân của mình xem dường như mây như bóng, rỗng rang trong sạch nhưng còn thấy cái tướng thân tâm, nên gọi là Dục giới định.
Sau rốt, Tâm ấy bỗng nhiên rỗng trống như cõi hư không, chẳng thấy có thân mình và đồ y phục, giường đệm, đó gọi là Vị đáo định.
Cái định Tâm nầy giữ được tăng tiến trong một thời gian, hoặc một tháng hay một năm tuỳ theo công phu của hành giả, thì hốt nhiên biết được tự Tâm có hơi rọ rạy phát động, thân mình lần lần như mây, như bóng, cái động đó hoặc từ trên phát xuống hoặc từ dưới phát lên, hay ngang hông phát ra hai đầu, lần lần phát cả châu thân có công đức vô lượng, nhưng lược kể thì có mười món nầy: 1. Không, 2. Minh, 3. Định,    4. Trí, 5. Thiện tâm, 6. Nhu nhuyễn, 7. Hỷ, 8. Lạc, 9. Giải thoát, 10. Cảnh giả hiện tiền đồng khởi với động xúc một lược. Đó là cái tướng động đầu hết. Từ lúc phát động như vậy rồi trong một thời gian ngắn từ 10 ngày đến một tháng, hay một năm thì có tám thứ xúc khác theo thứ lớp mà phát ra là: 1. Động, 2. Dưỡng (ngứa), 3. Lãnh (lạnh), 4. Noãn (ấm), 5. Khinh (nhẹ), 6. Trọng (nặng), 7. Sáp (rít), 8. Huợt (ươn).
Chứng Sơ thiền: Trong lúc ở nơi Vị đáo định đã phát ra các thứ xúc đụng thân tâm mà biết đặng cái tướng xúc ấy rít hay trơn, lạnh ấm v.v… thì gọi là Giác chi.
Trong các xúc ấy, lại biết cái nào thô mà xa lìa, cái nào thiện mà tu tập thì gọi là Quán chi. Đương khi giác quán đặng cái chưa từng có, rồi trong lòng rất mừng thì gọi là Hỷ chi. Sau lúc mừng, trong lòng êm đềm, vui vẻ thì gọi là Lạc chi. Thọ cái vui rồi mà Tâm vẫn yên trụ, không chút nào tán loạn thì gọi là Nhứt tâm chi. Chi nghĩa là năm món công đức nầy chống giữ lẫn nhau, làm cho định tâm được an ổn, bền chắc không hư nên gọi là Chi.
2. Nhị thiền:
Ở trong bực Sơ thiền mà hành giả nhàm bỏ cái giác quán phân biệt thì đặng bực Nhị thiền. Bực Thiền nầy Định Tâm và cái mừng đồng phát và đủ cả bốn Chi công đức: 1. Nội tịnh, 2. Hỷ, 3. Lạc, 4. Nhứt tâm.
3. Tam thiền:
Hành giả trong bực Nhị thiền mà nhàm bỏ cái Hỉ tướng thì chứng được bực Tam thiền, định tâm với lạc pháp đồng phát và đủ cả 5 Chi công đức: 1. Xả, 2. Niệm, 3. Tri, 4. Lạc, 5. Nhứt tâm.
4. Tứ thiền:
Hành giả ở trong Tam thiền nhàm bỏ cái lạc pháp, định tâm an ổn dứt hết hơi thở ra vô và đủ bốn Chi công đức: 1. Chẳng khổ, chẳng vui, 2. Xả (bỏ cái vui Tam thiền), 3. Niệm thanh tịnh, 4. Nhứt tâm. Tu theo bốn pháp Thiền trên đây thì vượt khỏi cái lưới hoặc ở Dục giới mà sanh về cõi Sắc giới.

B. TỨ KHÔNG THIỀN THIÊN
Không Xứ định:
Khi đặng Tứ thiền rồi, lại nhàm chán sắc uẩn ràng buộc như lao như ngục, khổ cực nhiều bề nên bỏ cái tưởng Sắc mà chuyên chú về cái tưởng Không, lâu lâu thì Tâm với Không rỗng rang trong sạch một cách in nhau, chẳng biết chi là khổ, là vui, và chẳng thấy có chi là Sắc tưởng nữa, Tâm thức đặng lặng, tự tại an nhàn, nên gọi là Không Xứ định.
Thức Xứ định:
Khi tu chứng được Không Xứ định rồi, lại chê bỏ cái Hư không ngoài mà buộc lòng trụ về phần nội Thức, Tâm thức rỗng rang thanh tịnh nên gọi là Thức Xứ định.
Vô Sở Hữu Xứ định:
Khi chứng được Thức Xứ định rồi, lại nhàm chán Thức Xứ định mà quán Tâm thức tuyệt nhiên không chỗ có, rồi Tâm và cái không chỗ có tương ưng với nhau nên gọi là Vô Sở Hữu Xứ định.
Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng định:
Khi đã chứng được Vô Sở Hữu Xứ định rồi lại chê bỏ để quán cái chẳng phải có (như Vô Sở Hữu Xứ định) và chẳng phải không (như Thức Xứ định) nên chơn thiệt định phát ra một màu vắng bặt như tướng Niết bàn nên gọi là Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng định. Tu bốn pháp Không Thiền trên đây sau mạng chung vượt khỏi cõi Sắc giới mà sanh về cõi Vô Sắc giới.
Diệt Thọ Tưởng định:
Tu pháp Diệt Thọ Tưởng là lấy cái Thọ Tưởng (quán sát chơn không) mà diệt trừ hết các pháp của Tâm và Tâm sở, rồi xoay lại bỏ cái Thọ Tưởng tức nhiên Tâm và diệt pháp tương ưng với nhau, bặt dứt hết mọi điều tri giác, nên gọi là Diệt Thọ Tưởng định.
Tu từ bực Sơ thiền cho đến Diệt Thọ Tưởng định thì gọi là chín lớp định, chẳng còn chút tạp niệm nào xen lộn vào được.

I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1)    Phàm vị: là bực phàm, chỉ người còn nặng lòng phiền não, sanh tử (ngu nhơn).
(2)    Thánh vị: là bực Thánh, chỉ bực tu hành chứng ngộ diệu lý giải thoát trong Tiểu thừa, từ Sơ quả cho đến Tứ quả, trong Đại thừa từ Sơ địa lên tới Thập địa.
(3)    Điều hoà: hoà hợp cho vừa, cho cân.
(4)    Thiếp tịnh: Tịnh cho đến lúc mê không còn hay biết gì hết, như ngủ quên.
(5)    Tế trụ: Tế là hết sức nhỏ, có nghĩa là Tịnh tới chỗ yên lặng thanh tịnh. Tế trụ là Tâm an trụ vào chỗ yên lặng thanh tịnh.

II. PHẦN VẤN ĐÁP
1)       Bực Sơ thiền tu định cách nào?
          Bực Sơ thiền tu pháp sổ tức quán, điều hoà hơi thở trụ ở nơi Tịnh duyên mà Tâm chẳng tán loạn thì gọi là Thô trụ, rồi lần lần Thiếp trụ thì gọi là Tế trụ, đến khi thấy cái thân của mình dường như mây, như bóng, rỗng rang trong sạch nhưng còn thấy cái tướng thân tâm nên gọi là Dục giới định. Đến khi tâm rỗng trống như hư không thì gọi là Vị Đáo định.
2)        Bực Nhị thiền tu định cách nào?
           Bực Sơ thiền nhàm bỏ cái giác quán phân biệt nên định tâm và cái mừng đồng phát và đủ cả 4 Chi công đức nên chứng đặng bực Nhị thiền.
3)        Bực Tam thiền tu định cách nào?
           Bực Nhị thiền mà nhàm bỏ cái Hỉ tướng thì chứng được bực Tam thiền.
4)        Bực Tứ thiền tu định cách nào?
           Bực Tam thiền nhàm bỏ cái lạc pháp, định tâm an ổn dứt hết hơi thở ra vô và đủ cả 4 Chi công đức thì chứng quả Tứ thiền.
5)        Bực Không Xứ định tu cách nào?
           Tâm chuyên về cái tưởng không, nên Tâm thức đặng yên lặng an nhàn nên gọi là Không Xứ định.
6)        Bực Thức Xứ định tu cách nào?
           Rời bỏ cái tưởng không ở bên ngoài, buộc lòng trụ về nội thức bên trong, nên Tâm thức được rỗng rang thanh tịnh, ấy gọi là Thức Xứ định.
7)        Bực Vô Sở Hữu Xứ định tu cách nào?
           Biết rõ Tâm thức tuyệt nhiên không chỗ có, nên Tâm và cái không chỗ có đó tương ưng với nhau, nên gọi là Vô Sở Hữu Xứ định.
8)        Bực Phi tưởng, Phi phi tưởng định tu cách nào?
           Lìa bỏ cái chẳng phải không (Thức Xứ định) nên gọi là Phi tưởng. Lìa bỏ cái chẳng phải có (Vô Sở Hữu Xứ định) nên gọi là Phi phi tưởng, thì chơn thiệt định phát ra một màu vắng bặt như tướng Niết bàn.
9)        Bực Diệt Thọ Tưởng định tu cách nào?
           Lấy cái Thọ tưởng diệt trừ hết các pháp của Tâm và Tâm sở, rồi lại bỏ cái Thọ Tưởng ấy luôn; bặt dứt hết mọi điều tri giác nên gọi là Diệt Thọ Tưởng Định.

III. PHẦN TOÁT YẾU
Trong 9 lớp định nầy có 4 cõi Thiền thiên, 4 cõi Không Thiền thiên và cõi Diệt Thọ Tưởng định, nhưng chỉ có cõi sau nầy thuộc về Thánh vị mà thôi.
Tứ Thiền thiên có Sơ thiền dùng phép sổ tức quán tu định chứng từ Thô trụ đến Tế trụ, rồi đến Dục giới định, sau rốt đến Vị Đáo định, thân tâm rỗng trống như cõi hư không, lòng được êm đềm, vui vẻ nhưng còn cái giác quán phân biệt.
Bực Nhị thiền thiên nhàm bỏ cái giác quán phân biệt nên định tâm và cái mừng đồng phát. Bực Tam thiền nhàm bỏ cái hỉ tướng nên định tâm và lạc pháp đồng sanh. Bực Tứ thiền thiên nhàm bỏ cái lạc pháp, định tâm an ổn dứt hết hơi thở ra vô, vượt khỏi cái lưới hoặc ở Dục giới mà sanh về cõi Sắc giới.
Tứ không Thiền thiên gồm có Không Xứ định, nhàm chán cái Sắc uẩn rằng buộc như lao, như ngục, nên bỏ cái tưởng Sắc mà chuyên chú về cái tưởng Không, nên chứng đặng Không Xứ định.
Thức Xứ định lại chê bỏ cái hư không ngoài mà trụ vè phần nội thức nên Tâm thức rỗng rang thanh tịnh. Bây giờ lại nhàm chán cái Thức Xứ định mà quán Tâm thức không chỗ có, nên Tâm và cái không chỗ có tương ưng với nhau, gọi la Vô Sở Hữu Xứ định. Khi chứng đặng Vô Sở Hữu Xứ định lại chê bỏ để quán cái chẳng phải có và chẳng phải không nên Chơn thiệt định phát ra một màu vắng bặt như tướng Niết bàn, ấy gọi là Phi tưởng, Phi phi tưởng định.
Diệt Thọ Tưởng định là lấy cái Thọ Tưởng (quán sát chơn không) mà diệt trừ hết các pháp của Tâm và Tâm sở, rồi xây lại bỏ cái Thọ Tưởng, tức nhiên Tâm và diệt pháp tương ưng với nhau, bặt dứt hết mọi điều tri giác nên gọi là Diệt Thọ Tưởng định.

BÀI TẬP
Xin đáp những câu hỏi sau đây:
1. Xin phân biệt và giải rõ cái Không của Tứ Không Thiền thiên, của Niết bàn Tịch diệt và Niết bàn Tịch chiếu.
2. Đề tài để thảo luận:
Cõi trời Phi tưởng, Phi phi tưởng định, quán cái chẳng phải có, chẳng phải không, nên chơn thiệt định phát ra một màu vắng bặt như tướng Niết bàn, tu như vậy có đặng giải thoát chưa? Tại sao?
                                                 Nam Mô Long Hoa Thượng Hội Di Lặc Tôn Phật.
                                                 Kính Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.

_____________________________________



BÀI 2

BỒ TÁT THỪA:
HIỀN VÀ THÁNH


I. HIỀN
Hàng Nhị thừa muốn tu qua bực Phật trước hết phải tu các cấp Hiền và các cấp Thánh của thừa Bồ-tát, sau mới đến được quả vị Phật thừa.
Các cấp Hiền gồm có:
1. Bực Sơ trụ Thập tín.
2. Tam hiền gồm có Thập trụ, Thập hạnh và Thập hồi hướng.
3. Tứ gia hạnh gồm có: Noãn địa, Đảnh địa, Nhẫn địa và Thế Đệ nhứt địa.
Các bực Thánh gồm có:
1. Hoan Hỉ địa, 2. Ly Cấu địa, 3. Phát Quang dịa, 4. Diễm Huệ địa, 5. Nan Thắng địa, 6. Hiện Tiền địa, 7. Viễn Hành địa, 8. Bất Động địa, 9. Thiện Huệ địa, 10. Pháp Vân địa.

A. THẬP TÍN
Mười đức tu hành mà Tín tâm là đứng đầu nên gọi là Thập Tín.
1. Tín Tâm trụ: nghĩa là Tâm trụ ở Đức tin thuần chơn dứt hết các thứ vọng tưởng.
2. Niệm Tâm trụ: Lòng chơn tín đã sáng tỏ rồi, tất cả Viên thông, Tâm trụ ở chỗ niệm tưởng không bị ngăn ngại bởi Ấm, Xứ, Giới.
3. Tinh Tấn tâm: Dùng lòng tinh minh trong sạch sáng suốt tu tiến lên địa vị chơn tịnh nên gọi là Tinh Tấn tâm.
4. Huệ Tâm trụ: Lòng Tinh Tấn đã hiện ra thì Trí huệ thuần chơn tự nhiên phát khởi.
5. Định Tâm trụ: Khi có Trí huệ liền giữ cầm lấy trí sáng thì khắp cả đều vắng lặng trong sạch nên gọi là Định Tâm trụ.
6. Bất Thối tâm: Định quang phát sáng (Tâm định phát sáng) thì tánh sáng càng sâu vào, chỉ tới mãi không lui nên gọi là Bất Thối tâm.
7. Hộ Pháp tâm: Tâm tấn tới được giữ cầm chẳng mất, nhờ vậy mà được giao tiếp với khí phần của Như Lai trong mười phương nên gọi là Hộ Pháp tâm.
8. Hồi Hướng tâm: Nhờ Tâm sáng tỏ tự mình phát ra Diệu lực rồi dùng cái diệu lực ấy day lại cái ánh sáng từ quang(1) của tha Phật, tới an trụ nơi tâm Phật của mình một cách tỏ rạng như hai cái gương đối chiếu. Vì nghĩa day lại Phật kia mà tới nơi tâm Phật nên gọi là Hồi Hướng tâm.
9. Giới Tâm trụ: Là Tâm gìn giữ, an trụ chỗ vô vi nên gọi là Giới Tâm trụ.
10. Nguyện Tâm trụ: Nếu trụ giới được tự tại thì có thể dạo chơi mười phương, đi đến đâu cũng được tuỳ theo sở nguyện nên gọi là Nguyện Tâm trụ.

B. THẬP TRỤ
Là mười địa vị an trụ của Bồ-tát Đại thừa:
1. Phát Tâm trụ: Bực Thiện nam tử dùng phương tiện phát mười thứ Tinh tấn, Tâm tính phát huy mười dụng thâu vào tròn một Tâm nên gọi là Phát Tâm trụ.
2. Trị Địa trụ: Tự tâm phát sáng như trong đồ lưu ly trong sạch hiện rõ vàng ròng rồi noi bước theo Diệu tâm trước mà luyện thành tâm địa nên gọi là Trị Địa trụ.
3. Tu Hành trụ: Nhờ đã trải qua địa vị trước, tâm cùng địa lẫn biết rõ ràng, chơi dạo mười phương không còn lưu ngại nên gọi là Tu Hành trụ.
4. Sanh Qui trụ: Hành động với Phật thì thọ được khí phần của Phật, nhập vào thai chủng Phật nên gọi là Sanh Qui trụ.
5. Phương Tiện Cụ Túc trụ: Đã vào Đạo thai thì tự mình đã thừa phụng Tôn tự của Đại giác, cũng như thai đã thành rồi, tướng người chẳng thiếu nên gọi là Phương Tiện Cụ Túc trụ.
6. Chánh Tâm trụ: Dung mạo đã như Phật thì Tâm tướng cũng đồng nên gọi là Chánh Tâm trụ.
7. Bất Thối trụ: Thân tâm hiệp thành ngày đêm tăng trưởng nên gọi là Bất Thối trụ.
8. Đồng Chơn trụ: Linh tướng của mười thân đều đủ trong một lúc nên gọi là Đồng Chơn trụ.
9. Pháp Vương Tử trụ: Đã thành hình ra khỏi thai thì mình làm con Phật nên gọi là Pháp Vương Tử trụ.
10. Quán Đảnh trụ: Bồ-tát đã thành Pháp Vương Tử, làm nổi Phật sự, Phật bèn đem nước Trí huệ mà rưới lên đảnh đầu cũng như vị Vương tử dòng Sát-lỵ, khi lên ngôi Quốc vương thì thọ lễ quán đảnh do nơi tay một vị Bà-la-môn vậy.

C. THẬP HẠNH
Thập tín, Thập trụ, thuộc về phần tự lợi, còn Thập hạnh và Thập Hồi hướng thuộc về phần lợi tha.
1. Hoan Hỉ hạnh: Hạnh là Tánh đức tốt thường làm việc lợi ích cho người. Khi thành Phật tử rồi đủ cả Diệu đức của Như Lai, và lại tuỳ thuận theo lòng nguyện dục trong mười phương mà làm cho được sự vui mừng, nên gọi là Hoan Hỉ hạnh.
2. Thiện Ích hạnh: Có năng lực thiện xảo làm lợi ích cho tất cả chúng sanh nên gọi là Thiện Ích hạnh.
3. Vô Sân Hận hạnh: Tự giác ngộ lấy mình và cho người, dù cho gặp nhục cảnh cũng không trái nghịch, sân hận, nên gọi là Vô Sân Hận hạnh.
4. Vô Tận hạnh: Tuỳ cơ loại của chúng sanh mà hiện cái thân hình Tam Thế Bình Đẳng, thông đạt mười phương cái hạnh lợi tha không hết, nên gọi là Vô Tận hạnh.
5. Ly Si Loạn hạnh: Tuy có rất nhiều pháp môn chẳng đồng, nhưng Bồ-tát khéo hiệp đồng hết thảy không hề sai lầm, nên gọi là Ly Si Loạn hạnh.
6. Thiện Hiện hạnh: Ở trong pháp đồng mà hiểu rõ các pháp khác, rồi ở trong mỗi tướng khác mà mỗi mỗi thấy đồng nên gọi là Thiện Hiện hạnh.
7. Vô Trước hạnh: Như vậy cho đến mười phương Hư không đầy cả vi trần mà trong mỗi vi trần hiện đủ mười phương thế giới, hiện trần, hiện giới chẳng lưu ngại nhau nên gọi là Vô Trước hạnh.
8. Tôn Trọng hạnh: Những sự biến hiện ấy đều là Đệ nhứt Ba-la-mật-đa nên gọi là Tôn Trọng hạnh.
9. Thiện Pháp hạnh: Bởi viên dung vô ngại như vậy mà thành được khuôn phép của chư Phật trong mười phương nên gọi là Thiện Pháp hạnh.
10. Chơn Thiệt hạnh: Mỗi mỗi đều thanh tịnh vô lậu, nhứt chơn vô vi, Tánh gốc sẵn vậy, chẳng quyền tiệm tu hành nên gọi là Chơn Thiệt hạnh.

D. THẬP HỒI HƯỚNG
Hồi hướng là đem công đức tu hành của mình mà xoay về cho chúng sanh, xoay về quả Phật.
1. Cứu hộ Nhứt thiết chúng sanh ly chúng sanh tướng hồi hướng: Nghĩa là trong lúc tế độ chúng sanh, lìa các tướng năng độ, sở độ. Ấy là hồi tâm vô vi tới đường Niết bàn nên gọi là Cứu độ Nhứt thiết chúng sanh ly chúng sanh tướng hồi hướng.
2. Bất Hoại hồi hướng: Cũng bởi có chúng sanh khó độ mà vẫn không hoại diệt cái bi nguyện độ sanh, cho nên gọi là Bất Hoại hồi hướng.
3. Đẳng Nhứt thiết hồi hướng: Trí giác trong sạch rõ bày, Trí giác ấy đồng với trí Cứu cánh giác của Phật nên gọi là Đẳng Nhứt thiết hồi hướng.
4. Chí Nhứt thiết xứ hồi hướng: Cái thể tinh thuần chơn thiệt của bổn giác đã phát huy ra diệu dụng thì nhơn địa của tự tâm đồng như quả địa của chư Phật, nên gọi là Chí Nhứt thiết xứ hồi hướng.
5. Vô tận Công đức tạng hồi hướng: Thế giới với Như Lai thiệp nhập lẫn nhau được khỏi ngăn ngại nên gọi là Vô tận Công đức tạng hồi hướng (Hồi hướng Kho công đức Vô tận).
6. Tuỳ thuận Bình đẳng thiện căn hồi hướng: Nghĩa là Hồi hướng tuỳ thuận căn lành bình đẳng.
7. Tuỳ thuận Đẳng quán Nhứt thiết chúng sanh hồi hướng: Cái căn chơn thiệt bình đẳng đã thành rồi thì chúng sanh trong mười phương đều là bổn tánh của ta, nhưng tánh tuy tự tha thành tựu viên mãn mà chẳng mất sự cứu độ chúng sanh, nên gọi là Tuỳ thuận Đẳng quán Nhứt thiết chúng sanh hồi hướng.
8. Chơn như tướng hồi hướng: Tức hết thảy các pháp, ly hết thảy các tướng. Tức với ly hai cái đều không dính mắc, nên gọi là Chơn như tướng hồi hướng.
9. Vô phược giải thoát hồi hướng: Nghĩa là hồi hướng giải thoát không bị buộc, không dính mắc, nên gọi là Vô phược Giải thoát hồi hướng.
10. Pháp giới Vô lượng hồi hướng: Cái Toàn thể và Đại dụng của tánh đức đều đã tròn nên, thì pháp giới không còn hạn lượng nên gọi là Pháp giới Vô lượng hồi hướng.

Đ. TỨ DIỆU VIÊN GIA HẠNH
Tứ gia hạnh nầy diệu mầu tròn đủ khác với tứ gia hạnh của Tiểu thừa thông giáo(2) chẳng phải mầu, chẳng phải tròn nên gọi là Diệu viên.
1. Noãn địa: Lấy cái giác của Phật dùng làm cái nhơn tâm của mình, nhưng Phật giác tuồng như hiển rõ  mà chưa hiển rõ, ví như dùi cây lấy lửa mới có hơi nóng chớ chưa có thiệt lửa nên gọi là Noãn địa.
2. Đảnh địa: Noãn địa lấy giác của Phật làm tâm của mình, còn vị nầy thì lấy tâm của mình làm hạnh của Phật, tuồng như nương mà chẳng phải nương, cũng ví như người leo lên núi cao, thân tuy vào giữa hư không nhưng dưới chơn đi còn bám đất tức là còn có chút ngăn ngại nên gọi là Đảnh địa.
3. Nhẫn địa: Tâm với địa hai cái đã đồng, tức là chứng được Trung Đạo một cách thiện xảo, cũng ví như người gặp việc hay dung nhẫn, chẳng phải ôm lòng oán hận và cũng chẳng phải toàn quên nên gọi là Nhẫn địa.
4. Thế Đệ nhứt địa: Tâm Phật nhơn quả đã dung hoà rồi, thì số lượng tiêu diệt, mê Trung đạo, hai cái đều không chỗ chỉ, siêu việt hơn trên đời nên gọi là Thế Đệ nhứt địa.

II. THÁNH (THẬP ĐỊA)

BÀI THỨ NHỨT
1. Hoan hỷ địa: (hoan hỷ là vui vẻ, sung sướng). Đối với quả Đại Bồ-đề đã đặng thông đạt, giác ngộ thông với giác ngộ của Như Lai, cùng tột cảnh giới Phật, nên gọi là Hoan hỷ địa.
2. Ly cấu địa: Tâm tánh của chúng sanh vào nơi chỗ đồng (đồng một cảnh giới với Phật), cái đồng cũng diệt, gọi là Ly cấu địa.
3. Phát quang địa: Tịnh đúng sáng suốt nên gọi là Phát quang địa.
4. Diễm huệ địa: Sáng suốt đúng thì, giác tánh đã viên mãn gọi là Diễm huệ địa.
5. Nan thắng địa: Tất cả cái đồng cái khác, không thể léo hánh đến gọi là Nan thắng địa.
6. Hiện tiền địa: Sự thanh tịnh sáng suốt của tánh vô vi Chơn-như đã hiện rõ nên gọi là Hiện tiền địa.
7. Viễn hành địa: Cùng tột đến bờ mé của Chơn-như gọi là Viễn hành địa.
8. Bất động địa: Hoàn toàn chỉ có cái tâm Chơn-như gọi là Bất động địa.
9. Thiện huệ địa: Phát sanh cái công dụng của Chơn-như gọi là Thiện huệ địa.
10. Pháp vân địa: Từ bi thức mây mầu diệu cho trùm cả biển Niết-bàn gọi là Pháp vân địa.

BÀI THỨ HAI
Thập địa là mười địa vị Đại thừa Bồ-tát, gồm có:
1. Hoan hỷ địa: (Cực hỷ địa) là rất vui mừng vì mới chứng được quả Thánh tính (Phật tính) và chứng đủ hai lý nhơn không và pháp không làm lợi ích cho mình và cho người sanh ra rất vui mừng.
2. Ly cấu địa: Ly là thoát lý, rời khỏi, cấu là bụi bẩn cấu nhiễm (trần cấu), tức là 6 căn bản phiền não (Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Tà kiến) nó làm bẩn cái tâm Bồ-đề sáng suốt, yên tịnh của mình. Ngôi nầy đã giữ được giới Bồ-tát rất trong sạch, không bao giờ phạm giới một ly, vì trong tâm Bồ-tát đã thoát ly hết mọi trần cấu phiền não.
3. Phát quang địa: là phát ra Trí huệ sáng suốt, thành tựu được những đại Thiền định, pháp Tổng trì, phát sanh ra Trí quang thần diệu vô biên, nên gọi là Phát quang địa.
4. Diễm huệ địa: là lửa Trí huệ tăng sáng thêm lên, kỳ đốt cho hết sạch mọi phiền não, được ở yên trong tâm Bồ-đề hơn hết cho nên gọi là Diễm huệ địa.
5. Cực nan thắng địa: là rất khó hơn, khó thắng. Tu đến địa vị nầy mình đã thắng được mọi cái rất khó, thì cũng khó còn cái gì thắng được mình vì hai Trí huệ Chơn và Tục nó trái ngược nhau, nay mình khiến cho nó cũng ưng hợp với nhau là một việc rất khó thắng, thế mà mình đã thắng được rồi nên gọi là Cực nan thắng địa.
6. Hiện tiền địa: là hiện ra trước mắt. Ở địa vị nầy phải giữ vững cái Trí huệ hữu phân biệt để soi sáng mọi sự duyên, để dẫn khởi cái Trí huệ Bát-nhã Vô phân biệt khiến cho nó luôn luôn hiện rõ ra trước mắt..
7. Viễn hành địa: Viễn hành là đi xa, có nghĩa là địa vị tu hành cao xa. Quán ròng lẽ vô thường cùng tột đến bờ mé của Chơn-như cao xa hơn người trong hai thừa (Thinh văn và Duyên giác).
8. Bất động địa: là chẳng chuyển động. Ở địa vị nầy đã vận dụng được luôn luôn cái Trí huệ vô phân biệt. Những hình tướng, những công dụng đều chẳng chuyển động được mình thì bao nhiêu phiền não cũng đều chẳng thể nào chuyển động được nữa, nên gọi là Bất động địa.
9. Thiện huệ địa: Lên địa vị nầy là đã tu hành được bốn biện tài vô ngại rất vi diệu, có đủ tài năng Trí huệ thuyết pháp cho thập phương nghe nên gọi là Thiện huệ địa.
10. Pháp vân địa: Bồ-tát ở địa vị nầy Trí huệ dường như mây làm đổ mưa Cam lồ xuống khắp cả, làm sanh nảy Thiện căn của cả thảy chúng sanh nên gọi là Pháp vân địa. Tuy vậy trên bực nầy còn có bực Đẳng giác và Diệu giác (Xin xem bài GIÁC có nói về hai bực nầy).

I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1)    Từ quang: Hào quang lành tức lá ánh quang minh đại từ của chư Phật túa ra, mát mẻ vi diệu.
(2)    Thông giáo: Những giáo pháp được Phật thuyết gọi chung là Tu-đa-la. Đó là nghĩa chữ Thông.

II. PHẦN VẤN ĐÁP
1)       Hàng Nhị thừa muốn tu qua bực Phật phải tu cách nào?
          Phải tu qua các cấp Hiền và các cấp Thánh của thừa Bồ-tát mới qua quả vị Phật được.
2)        Bực Sơ trụ của Bồ-tát thừa là bực nào?
           Là bực Thập tín tức là mười đức tín tu hành mà Tín tâm là đức đứng đầu, nên gọi là Thập tín.
3)        Hiền vị có mấy ngôi?
           Hiền vị có 7 ngôi gồm có Tam hiền là Thập trụ, Thập hạnh và Thập hồi hướng, và Tứ gia hạnh gồm có Noãn đĩa, Đảnh địa, Nhẫn địa và Thế đệ nhứt địa.
4)        Các cấp Thánh của Bồ-tát thừa chỉ bực nào?
           Chỉ bực Thập địa gồm có: 1. Hoan hỷ địa, 2. Ly cấu địa, 3. Phát quang địa, 4. Diễm huệ địa, 5. Nan thắng địa, 6. Hiện tiền địa, 7. Viễn hành địa, 8. Bất động địa, 9. Thiện huệ địa, 10. Pháp vân địa.
5)        Xin kể các bực trong Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh và Thập hồi hướng?
           Xin xem trong bài.
6)        Thập địa Bồ-tát nghĩa là gì? Xin kể ra?
           Là 10 địa vị tu hành của Đại thừa Bồ-tát (Đại thánh) gồm có: (Xin xem trong bài).
7)        Cách thức của Đức Phật dạy Đạo cho các cõi Trời bực Hạ tu qua bực Trung Tiểu thánh (Thinh văn thừa), có giống như dạy bực Tiểu thánh tu qua bực Đại thánh Bồ-tát không?
           Rất giống, nghĩa là các cõi Trời phải tu 7 vị Hiền trước cũng gồm có: Tam Hiền là Ngũ đình Tâm quán, Biệt tướng niệm xứ, Tổng tướng niệm xứ rồi mới tu qua Tứ gia hạnh là Noãn vị, Đảnh vị, Nhẫn vị và Thế đệ nhứt vị. Xong mới tiến tu qua bốn quả Tiểu thánh Thinh văn là Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm và A-la-hán. Rồi bực A-la-hán muốn tu qua bực Đại Thánh Bồ-tát cũng phải trải qua y như chương trình kể trên, tức là phải tu qua 7 vị Hiền, gồm có: Tam Hiền là Thập trụ, Thập hạnh và Thập hồi hướng, rồi mới đến Tứ gia hạnh là Noãn địa, Đảnh địa, Nhẫn địa và Thế đệ nhứt địa v.v… Nên chú ý Tứ gia hạnh của bực Tiểu thánh thì gọi là vị chớ không phải địa, như Noãn vị, còn của bực Đại thánh thì gọi là Noãn địa.

III. PHẦN TOÁT YẾU
Hàng Nhị thừa muốn tu qua bực Phật, trước phải tu qua các cấp Hiền và các cấp Thánh của thừa Bồ-tát, sau mới tu đến quả vị Phật được. Hiền vị của bực Đại thừa cũng có 7 ngôi như của bực Tiểu thừa, chia ra làm Tam hiền gồm có: Thập trụ, Thập hạnh và Thập hồi hướng, ­Tứ gia hạnh là Noãn địa, Đảnh địa, Nhẫn địa và Thế đệ nhứt địa. Kế tu tiếp thêm qua bực Đại thánh tức là Thập địa Bồ-tát, từ Hoan hỷ địa đến Pháp vân địa mới qua bực Đẳng giác và ngôi Diệu giác.
                                                 Nam Mô Long Hoa Thượng Hội Di Lặc Tôn Phật.
                                                 Kính Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.

_____________________________________



BÀI 3

BÁT THỨC TÂM VƯƠNG,
CHUYỂN THỨC THÀNH TRÍ

I. BÁT THỨC TÂM VƯƠNG
Tám món Tâm vương rất thù thắng, tự tại và tự chủ, cũng như vị Quốc vương nên gọi là Tâm vương.
1. Tiền Ngũ thức: là năm thức trước gồm có:
      a. Nhãn thức, là cái biết do mắt thấy.
      b. Nhĩ thức, là cái biết do tai nghe.
      c. Tỷ thức, là cái biết do mũi ngửi.
      d. Thiệt thức, là cái biết do lưỡi nếm.
      e. Thân thức, là cái biết do thân cảm xúc.
2. Ý thức: Là sự hiểu biết phân biệt của ý.
      a. Về thứ hạng, thức nầy là thức thứ sáu.
      b. Về công năng tác dụng, thức nầy nương nơi Ý căn (Mạt-na thức) khởi tác dụng phân biệt pháp trần nên gọi là Ý thức. Thức nầy rất lanh lẹ, nói về công thì thức nầy hơn hết, còn luận về tội thì thức nầy cũng đứng đầu (Công vi thủ, tội vi khôi).
      c. Thức nầy có công năng chấp ngã và pháp.
— Làm sao biết có Ý thức?
— Khi đối với sự vật, Tâm mình khởi lên hiểu biết phân biệt sự vật, sự phân biệt đó là Ý thức. Nếu hết phân biệt thì Ý thức liền mất nên nói nó là hư vọng (không thiệt có).
3. Mạt-na thức:
      a. Về thứ hạng thức nầy là thức thứ bảy, cũng gọi là Ý căn, tức là cội gốc của Ý thức nương theo. Sợ lầm lộn với Ý thức nên gọi là Ý, không có chữ thức.
      b. Thức nầy có công năng truyền tống chủng tử của các pháp vào thức A-lại-da, nên gọi là Truyền tống thức.
      c. Thức nầy duyên với Kiến phần(1) của Thức A-lại-da chấp làm thật ngã, thật pháp nên gọi là Mạt-na-thức.
— Làm sao biết có Mạt-na thức?
— Khi người khen mình thì trong tâm mình vui, lúc người chê mình thì trong tâm phát buồn. Do đó nên mình mới thấy có cái NGÃ của mình. Tu hành đến chừng người ta khen, chê hay gặp cảnh thuận, nghịch mà không còn lòng vui buồn, thương ghét v.v… tức là phá được Ngã chấp.
Trong Tam tế, lục thô, Mạt-na thức gồm có: Nghiệp tướng vô minh, Chuyển tướng vô minh, Hiện tướng vô minh và Tương tục tướng vô minh. Vô minh nơi đây chỉ cho một dòng sanh diệt, tương tục không gián đoạn.
4. A-lại-da thức:
Thức nầy có mười lăm tên khác nhau:
1. Tâm: Vì nó hay chứa nhóm hột giống (chủng tử) của các pháp và lại sanh khởi ra các pháp.
2. A-đà-na: (Chấp trì) hay giữ cầm hột giống và các Sắc căn không cho rã ra.
3. Sở tri y: Vì nó làm chỗ nương đậu cho các pháp nhiễm tịnh Sở tri.
4. Chủng tử thức: Vì nó hay giữ cầm khắp cả hột giống Thế gian và Xuất thế gian.
5. Dị thục thức: Vì nó hay dắt dẫn vào nghiệp quả sanh tử
6. Vô cấu thức: Là các pháp vô lậu rất trong sạch nương nơi nó.
7. Căn bản thức: Vì nó làm cội gốc sanh ra các thứ thức khác, như Nhãn thức, Nhĩ thức, v.v…
8. Hữu phận thức: Vì nó là cái nhơn hằng khắp ba cõi.
9. Cùng sanh tử uẩn: Vì chỉ có nó là cùng tột tới chỗ Biến tế của sanh tử.
10. Ái lạc hân hỉ A-lại-da: Vì chúng hữu tình chấp nó làm ta mà sanh lòng vui mừng, tham đắm.
11. Ý: Vì nó hay thác sanh đầu thai nối luôn không dứt.
12. Liễu: Vì nó liễu biệt hột giống căn thân và thế giới.
13. Sở năng biến: Là năng biến đầu tiên trong ba thứ năng biến.
14. Đệ bát thức: Thức thứ tám trong tám thức.
15. Như Lai tạng thức: Vì nó là vọng mà bản thể nó là chơn.
Thức A-lại-da cũng gọi là Tàng thức, có công năng chứa đựng và giữ gìn chủng tử (hạt giống) của các pháp nên có ba nghĩa:
    a. Năng tàng: Có công năng chứa đựng và giữ gìn chủng tử (hạt giống) của các pháp.
    b. Sở tàng: Là cái kho (chỗ) để chứa đựng chủng tử của các pháp.
    c. Ngã ái chấp tàng: Thức thứ bảy chấp kiến phần của nó làm Ta và thường luyến ái.
— Làm sao biết có A-lại-da thức?
— Khi ta làm lành, làm dữ, ta học môn nào, món nào thì sự hiểu biết làn, dữ hay các môn học ta đều nhớ hết không quên. Các sự hiểu biết ấy (chủng tử) sở dĩ không mất là nhờ thức A-lại-da chứa đựng và thức A-đà-na cầm giữ.
Lúc tu hành từ địa vị phàm phu cho đến Thất địa (bực hữu học) thức nầy còn chứa hai hột giống chơn vọng nên gọi là Tàng thức.
Từ Bát-địa (vô học) đến bực Đẳng giác Bồ-tát thì xả tên Tàng thức mà chỉ gọi là Dị thục thức, vì hết vọng, chỉ còn chơn mà thôi.
Khi đến quả vị Diệu giác (Phật), các chủng tử hữu lậu cấu nhiễm (chơn vọng) đã hết nên thức nầy đổi tên là Vô cấu thức hay là Ym-ma-la thức. Lúc bấy giờ chỉ còn thuần chủng tử vô lậu thanh tịnh nên gọi là Bạch tịnh thức.

Nói riêng về A-ĐÀ-NA THỨC
Bài tụng trong kinh Thủ Lăng Nghiêm:
        A-đà-na vi tế thức
        Tập khí như bộc lưu
        Chơn, phi chơn khủng mê
        Ngã thường bất khai diễn.
Nghĩa là thức A-đà-na rất vi tế khó thấy, khó biết vì các tập khí(2) chủng tử của nó sanh diệt như dòng nước thác (nối tiếp liên tục không đứt khoảng). Vì sợ chúng phàm phu và Nhị thừa chấp thức nầy làm chơn hay phi chơn, nên Ta chẳng hề giảng nói thức nầy, nghĩa là Phật sợ phàm phu Nhơn Thiên chấp thức nầy là Chơn thì trụ nơi thức nầy khó tu tiến tới quả vị  Bồ-đề được, còn hàng Nhị thừa cho thức nầy không phải chơn thiệt, rồi bỏ thức nầy cũng không thể chứng được Đạo Vô thượng Giác.
A-đà-na dịch là trì, nghĩa là giữ gìn. Thức nầy có ba công năng: Chấp trì, Chấp thọ, và Chấp thủ.
1. Chấp trì: nghĩa là giữ gìn chủng tử của các pháp. Nên biết mỗi mỗi các pháp khi khởi hiện hành đều từ chủng tử của nó mà khởi hiện. Song vì chủng tử thì chỉ có công năng tiềm tàng (ẩn núp) mà không khởi hiện. Nếu không có một cái gì để chứa giữ thì chủng tử các pháp phải bị tản mất. Nếu chủng tử các pháp bị tản mất thì các pháp hiện hành ở thế gian và xuất thế gian cũng phải không còn. Bởi thế cho nên phải có thức A-đà-na để chứa giữ chủng tử của các pháp.
2. Chấp thọ: nghĩa là giữ gìn căn thân và thế giới. Căn thân là Chánh báo, thế giới là Y báo. Khi con người được tái sanh thì cái công năng giữ gìn căn thân được tương tục tồn tại trong một thời kỳ không tan hoại tức là thức A-đà-na.
3. Chấp thủ: nghĩa là giữ lấy việc kết nối đời sau. Từ đời nầy chết rồi sanh đến một đời khác, nghĩa là từ thân Bổn hữu (thân hiện đang sống) đến thân Tử hữu (thân đang chết). Từ thân Trung hữu đến thân Hậu hữu (thân đời sau sanh ra) sở dĩ được tương tục không gián đoạn cố nhiên phải có một cái gì thường được lưu hành và giữ gìn (chấp thủ). Cái đó là thức A-đà-na. Nếu không có thức nầy để giữ sự kết nối đời sau thì người một khi chết phải mất luôn, không còn tái sanh lại được nữa.
Thể của thức A-đà-na
Thể của thức A-đà-na là các pháp.
Không thể rời các pháp mà riêng tìm có thức A-đà-na được, vì thức nầy có công năng giữ gìn chủng tử của các pháp. Phải biết Trời đất, vạn vật toàn là thức A-đà-na. Nhưng bực phàm phu chẳng thấy được thức nầy vị bị hai món chấp Ngã và Pháp che áng, chỉ có bực Đại thánh dùng cái Trí Tự trụ hậu đắc mới thấy được thức A-đà-na.

II. CHUYỂN THỨC THÀNH TRÍ
Chúng ta nên biết Tiền ngũ thức thuộc về thụ động, còn Ý thức là chủ động, nghĩa là năm thức kia nếu không có Ý thức dựa vào thì không thể phân biệt được. Thế thì pháp chuyển thức thành trí phải khởi sự nơi Ý thức trước. Khi chúng sanh còn đang mê thì Ý thức chỉ có công năng phân biệt và mê nhiễm các pháp, gây ra tất cả tội nghiệp. Đến khi biết tu hành thì tập nó suy nghĩ, quán xét điều nào thiện, sự nào ác để rõ sự tà chánh, chơn vọng hầu xa lìa điều quấy, làm các điều phải, để hiểu rõ lẽ nào vọng, lẽ nào chơn để trừ vọng hoàn chơn, mới được tự tại giải thoát. Khi Ý thức được hoàn toàn sáng suốt, ấy là chuyển thành Diệu Quan Sát Trí.
Bây giờ xoay nó trở ra ngoài kềm chế Tiền ngũ thức, lượt bỏ những sự hiểu biết mê muội, chọn lọc những điều tốt lành để tạo tác. Ấy là chuyển Tiền ngũ thức làm Thành Sở Tác Trí.
Nhiệm vụ hướng ngoại đã xong, bấy giờ xoay nó lại hướng nội tức là Hồi quang phản chiếu,(3) dùng tánh sáng suốt chiếu soi của nó để rọi vào Mạt-na thức quán xét, liền thấy thức thứ bảy chấp cái kiến phần của thức A-lại-da làm Ta. Nhưng kiến phần nầy đâu phải cái Ta chơn thiệt. Vạn vật sở dĩ sanh ra là do nơi một bản thể Như như bình đẳng vốn vô hình vô tướng. Thế thì vạn vật vốn bình đẳng như nhau, chớ không có sai biệt cao thấp. Ấy là phá được Ngã chấp chuyển Mạt-na thức làm Bình Đẳng Tánh Trí.
Lại dùng Diệu Quan Sát Trí soi sâu thêm nữa liền thấy trùng trùng điệp chủng tử của vạn pháp dẫy đầy trong thức A-lại-da làm nguồn gốc của sự sanh sanh tử tử, nên nó liền lượt bỏ hai hạt giống chơn vọng ấy để chuyển A-lại-da thức thành Đại Viên Cảnh Trí, tức là cái cảnh trí tròn lớn, trùm khắp vạn vật và nó lại biết thêm chủng tử chơn vọng (hữu lậu) sau khi bị loại khỏi thức thứ tám liền có một thứ chủng tử khác trong sạch hơn, ấy là chủng tử vô lậu nằm chứa trong Vô cấu thức hay Ym-ma-la-thức, hay Bạch tịnh thức nên nó chuyển thức nầy làm Pháp giới thể tánh trí. Toàn thể của thức đều tiêu tan nhưng còn trí, mà trí hết đối đãi thì lần lần cũng tan mất, trở thành cái Tạng Đại Quang Minh y như xưa. Than ôi! trải qua bao nhiêu cuộc tang thương biến đổi, để rồi cuối cùng chẳng thấy có chi thêm, có chi bớt hết.

PHẦN PHỤ BẢN
BẢN ĐỒ BÁT THỨC TÂM VƯƠNG


THẨM–HẰNG
Thẩm nghĩa là suy xét kỹ (sâu).
Hằng nghĩa là thường còn.
Tiền ngũ thức        không Thẩm cũng không Hằng.
Ý thức                   Thẩm mà không Hằng.
Mạt-na thức           Thẩm và Hằng.
A-lại-da thức         Hằng mà không Thẩm.

CHƠN VỌNG
1.      Khi thức A-lại-da “chưa” chứa đựng hai hột giống Thiện Ác, nó là chơn hay vọng?
         Chơn.
2.      Khi thức A-lại-da “chứa đựng” hai hột giống Thiện Ác, nó là chơn hay vọng?
         Vọng.
3.      Khi thức A-lại-da “chứa đựng” hột giống Ác, nó là chơn hay vọng?
         Vọng.
4.      Khi thức A-lại-da “chỉ chứa hột giống Thiện, nó là chơn hay vọng?
         Chơn đối với lúc nó chứa đựng hột giống Ác.
5.      Khi nó “chứa đựng hột giống Thiện” đối với lúc nó chưa có chứa đựng gì hết, nó là chơn hay vọng?
         Vọng.
6.      Xin nói rõ sự sanh tử luân hồi của chúng sanh ra làm sao?
         Do Ý thức hiệp với Tiền ngũ thức tạo ra các nghiệp Thiện Ác. Các hột giống nghiệp nầy mới được đưa vào Mạt-na thức. Thức Mạt-na mới truyền tống vào thức A-lại-da chứa đựng nơi đó, và nhờ thức A-đà-na gìn giữ không cho mất.
             Đến khi con người chết, xác thân tứ đại bị tan rã hết, nhưng thức A-đà-na và các hột giống nghiệp không bị tiêu mất. Nó liền thoát khỏi thân người và dẫn đi đầu thai thành kiếp khác. Nếu nghiệp lành thì nó dẫn đi đầu thai trong các cõi lành như cõi Nhơn Thiên, còn nếu nghiệp Ác thì nó dẫn dắt đi đầu thai trong các cõi Ác như cõi Ngạ quỉ, Súc sanh hay Địa ngục.
             Vậy nên phải tu hành tạo hột giống lành để sau hưởng phước báo nơi cõi Nhơn Thiên và muốn được giải thoát thì đừng tạo hai hột giống Thiện Ác ấy.

I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1)    Kiến phần: là phần thấy, như đọc sách, con mắt có tánh thấy, tánh thấy ấy là Kiến phần, còn sách là tướng phần (phần bị thấy). Bổn tâm Chơn-như không có thấy cùng chẳng thấy, nhưng vì không giữ được tự tánh, khởi vọng niệm nên mới chuyển giác tánh thành nghiệp thức (A-lại-da thức), rồi mới chuyển tiếp cái Tạng đại quang minh (Trí huệ đại quang minh) thành Kiến phần (năng kiến). Để có phần thấy tức là phải có chỗ để thấy (sở kiến) nên mới chuyển kế tiếp cái lý cảnh chơn đế không đồng, không khác làm thành tướng phần (phần bị thấy). Từ đó mới có kiến, văn, giác, tri.
(2)    Tập khí: Biệt danh của chủng tử, công năng tiềm tàng, như người viết chữ, khi chưa viết thì công năng tập quen (tập khí) đó tiềm tàng núp ẩn trong tay không thấy được. Đến khi viết là do cái công năng tập luyện (khí phận) ngày trước đó nên nay mới viết được.
(3)    Hồi quang phản chiếu: nghĩa là xoay cái ánh sáng soi trở vào mình chớ không soi ra ngoài cảnh nữa.

II. PHẦN VẤN ĐÁP
1)       Bát thức Tâm vương nghĩa là gì, xin kể ra?
          Là tám Tâm thức rất thù thắng, tự tại, có đủ uy quyền như một vị quốc vương, gồm có: Tiền ngũ thức, Ý thức, Mạt-na thức, A-lại-da thức.
2)        A-đà-na thức nghĩa là gì?
           Là thức giữ gìn chủng tử của các pháp, giữ gìn căn thân và thế giới, giữ lấy việc kết nối đời sau.
3)        Thức và Trí khác nhau như thế nào?
           Thức là biết, Trí cũng là cái biết nhưng thức là cái biết còn trong vòng mê tối, ô nhiễm, còn Trí là cái biết sáng suốt giải thoát ra khỏi đường sanh tử luân hồi.
4)        Cách thức chuyển thức thành Trí ra sao?
           Trước hết phải chuyển Ý thức thành Diệu quan sát trí vì ý thức làm chủ Tiền ngũ thức. Kế đó dùng Diệu quan sát trí chuyển Tiền ngũ thức thành Thành sở tác trí. Xong rồi mới xoay diệu quan sát trí vào trong để chuyển Mạt-na thức thành Bình đẳng tánh trí và cuối cùng mới chuyển A-lại-da thức thành Đại viên cảnh trí.
5)        Xin giải rõ sự sanh tử luân hồi của chúng sanh?
           Sự sanh tử luân hồi của chúng sanh là do nơi ý thức hằng ngày hiệp với Tiền ngũ thức mê nhiễm cảnh sáu trần ngoại giới tạo ra các nghiệp Thiện Ác. Các hột giống nghiệp nầy được đưa vào Mạt-na thức để truyền tống vào thức A-lại-da chứa đựng nơi đó, và nhờ thức A-đà-na giữ gìn không cho mất. Đến khi con người chết, xác thân tứ đại tan rã, thức A-đà-na cùng các hột giống nghiệp thoát ra khỏi thân người để di đầu thai thành kiếp khác. Hễ nghiệp lành thì được sanh vào các cõi lành, còn nghiệp ác thì phải bị đi đầu thai trong các cõi dữ để trả quả ác.

III. PHẦN TOÁT YẾU

BÀI TẬP
Xin giải đáp câu hỏi sau nầy:
1) Muốn chuyển thức thành trí phải dùng pháp nào để chuyển và chuyển cách nào?
2) Trong bài nói “Bực Phàm phu chẳng thấy được thức A-đà-na, chỉ có bực Đại thánh dùng cái Trí Tự trụ hậu đắc mới thấy được.” Xin hỏi có mấy thứ Trí Hậu đắc và xin giải nhiệm vụ của mỗi thứ?
                                                 Nam Mô Long Hoa Thượng Hội Di Lặc Tôn Phật.
                                                 Kính Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.

_____________________________________



BÀI 4

CÁC CHƠN LÝ SẮC KHÔNG
CỦA ĐẠO PHẬT

 1.     Tiểu thừa có mấy cõi? Đại thừa có mấy cõi?
         Tiểu thừa có bốn cõi là Nhơn, Thiên, Thinh văn, Duyên giác. Đại thừa có hai cõi là Bồ-tát và Phật.
 2.     Đức Phật dạy cho bực Tiểu thừa cái chơn lý gì?
         Đức Phật dạy cho bực Tiểu thừa cái chơn lý Sắc Không tương đối.
 3.     Sắc không nghĩa là gì? Tương đối nghĩa là gì?
         Sắc chỉ vạn vật có hình có tướng, có màu sắc tức là cái có. Không là cái trống không, không có gì hết, đối đãi với cái có. Tương đối là hai pháp đối đãi với nhau, cái nghĩa của chúng nó trái nghịch với nhau, như đen đối với trắng, thấp đối với cao v.v…
 4.     Cái lý tương đối là thiệt hai giả? Xin chứng minh?
         Cái lý tương đối là giả, như có hai người đối đãi với nhau nên chúng ta nói người nầy là thấp còn người kia là cao. Nếu không có người thấp thì tướng cao liền mất, trái lại cũng như vậy. Vậy ta nên biết nếu không có hai người đối đãi với nhau, thì hai cái tướng cao và thấp không có. Do đó nên gọi là giả.
 5.   Cõi Nhơn Thiên chấp gì? Còn hàng Nhị thừa chấp gì?
         Cõi Nhơn Thiên chấp có, nghĩa là cho cái có là thiệt, còn hàng Nhị thừa chấp không, nghĩa là cho cái không là thiệt.
 6.     Như vậy cái có và cái không là thiệt hay giả?
         Cái có đối với cái không, chiếu theo sự chứng minh ở trên thì cái có và cái không đều là giả.
 7.     Khi biết cái có là như huyễn (giả), cái không là như huyễn, hàng Nhị thừa tiến lên được bực nào và ngộ được chơn lý gì?
         Khi biết sắc không là giả, hàng Nhị thừa liền tiến lên được bực Sai biệt trí Bồ-tát và ngộ được Chơn lý huyễn sắc, huyễn không.
 8.     Khi biết Sắc Không như huyễn rồi, Đức Phật mới dạy thêm cho hàng Sai biệt trí Bồ-tát cách nào?
         Khi biết Sắc Không đều là như huyễn, Đức Phật liền dạy thêm đừng trụ Sắc, đừng trụ Không. Đó là cái chơn lý Sắc Không Vô Trụ của bực Bồ-tát.
 9.     Không trụ Sắc, không trụ Không có lợi gì?
         Không trụ sắc thì thoát khỏi sự sanh tử phần đoạn, còn không trụ không thì thoát khỏi sự sanh tử biến dịch, mới được hoàn toàn giải thoát.
10.    Nhận thấy Sắc Không đều là giả? Vậy cái gì sanh ra cái giả ấy?
         Cái thiệt sanh ra.
11.    Nếu cái thiệt sanh ra thì trong cái Sắc có cái thiệt, trong cái Không cũng có cái thiệt, sao lại gọi nó là giả? Có thể gọi nó là thiệt được không?
         Cái giả là cái tướng bên ngoài của sắc và không, còn cái thiệt là cái bản thể của sắc và không.
             Các hàng đại Bồ-tát biết rõ cái tướng bên ngoài của sự vật là đối đãi với nhau mà có, là giả nên không khi nào chấp các tướng ấy, lại rõ biết cái bản thể sanh ra sắc và không là chơn thiệt nên nói sắc không như nhau, sắc tức không, không tức sắc, không sai khác nhau chút nào hết. Vì lẽ đó nên gọi là thiệt. Thiệt là cái bản thể của sắc và không, còn giả là cái tướng bên ngoài đối đãi của sắc và không.
12.    Nếu gọi là thiệt, cái chơn lý Sắc Không nầy gọi là gì? Của bực   nào? Và cái thiệt đó là cái gì?
         Cái chơn lý Sắc Không nầy gọi là chơn lý Sắc Không Viên dung bình đẳng của bực đại Bồ-tát (Bồ-tát Đẳng giác), và cái bản thể chơn thiệt đó là cái không phải sắc, không phải không. Vì sắc không là giả rồi nên cái thiệt, lẽ cố nhiên không phải là cái giả tức là sắc và không.
13.    Cái không phải sắc, không phải không là cái gì? Và chơn lý nầy gọi là chơn lý gì? Của bực nào?
         Cái không phải sắc, không phải không, đó là cái Tâm Chơn không diệu hữu và chơn lý nầy gọi là cái chơn lý Phi sắc, phi không (rốt ráo) nhưng bất ly sắc ly không (bình đẳng) của bực Phật Thế Tôn.
GHI CHÚ: Bài nầy chỉ viết câu hỏi lên bảng để thảo luận và học.

BÀI TẬP
Có hai cục vàng, cục thứ nhứt hình tròn nặng 1 kýlôgam và cục thứ hai hình vuông cũng nặng đồng nhau.
Xin đáp những câu hỏi sau đây:
1. Trong 2 cục vàng nầy, cái gì là tướng bên ngoài và cái gì là bản thể của chúng nó?
2. Cũng nơi 2 cục vàng nầy, chỉ cho thấy cái nào thuộc về cái lý đối đãi, cái nào thuộc về cái lý bình đẳng.
3. Cũng nơi 2 cục vàng nầy làm sao cho thấy rõ?
— Cái lý tuyệt đối (bản thể thật có)?
— Cái lý tuyệt đối (bản thể thật không)?
                                                 Nam Mô Long Hoa Thượng Hội Di Lặc Tôn Phật.
                                                 Kính Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.

_____________________________________



BÀI 5

THUYẾT DUYÊN KHỞI

Duyên khởi là một học thuyết thiên giải vạn hữu trong vũ trụ tại sao mà sanh khởi, và người ta chỉ để tâm khảo sát về mọi hiện tượng sai biệt.
1) Theo phái Hữu thần luận thì chủ trương ngoài vạn hữu của vũ trụ lại có một nhơn vật Thần Thánh làm chủ tể vạn vật.
2) Trái lại theo Phiếm thần luận của Phật giáo thì không công nhận như thế và chủ trương rằng vạn hữu sanh khởi là hoàn toàn do định luật nhân quả của chúng. Kết quả ở hiện tại phát sinh là do nguyên nhân ở quá khứ, nguyên nhân quá khứ cũng hoàn toàn là kết quả của nguyên nhân trước nữa.
Bàn về hệ thống của thuyết duyên khởi, chúng ta nhận thấy có:

A. NGHIỆP CẢM DUYÊN KHỞI
Nghiệp cảm duyên khởi là một lý thuyết chủ trương sự sanh khởi của vạn vật trong vũ trụ đều do nghiệp lực (karma) của chúng ta mà có.
— Thân tâm của chúng ta và thế giới khách quan do đâu mà có?
— Không ngoài sự tạo nghiệp của thân, khẩu và ý mà phát hiện, nghĩa là chúng ta tự tạo nhân rồi tự hưởng quả.
Nói cách khác, nghiệp lực của chúng ta có thể sanh ra vạn hữu sai biệt trong vũ trụ, lớp trước tàn tạ thì lớp sau thay thế, chuyển nối mãi trên dòng sinh hoạt của chúng ta. Hình hài của chúng ta một ngày kia sẽ tan rã, nhưng cái nghiệp lực ta đã tạo ra đời nầy không vì thế mà mất đi, chúng có thể dẫn ta đến một sanh mạng khác. Vì có mê hoặc nên mới tạo nghiệp. Có tạo nghiệp tất nhiên phải sanh ra quả khổ, thế thì do hoặc nghiệp của chúng ta mà có nhân sinh và thế giới nầy. Tất cả thế giới và nhân sinh đều là cảnh giới mê vọng chứa đầy những quả khổ đau thương.
Chúng ta muốn thoát khỏi khổ quả ấy phải trừ nguyên nhân hoặc-nghiệp. Hoặc-nghiệp hết thì chúng ta không còn cảm quả thọ sinh và chứng được quả vị bất sanh tức là Niết bàn (chân lý). Nghiệp cảm duyên khởi là một thứ giáo lý căn bản của Phật giáo phổ thông cả Tiểu thừa và Đại thừa.

B. A-LẠI-DA DUYÊN KHỞI
1. Chỉ trích thuyết nghiệp cảm của Tiểu thừa:
Nghiệp cảm duyên khởi là có sanh diệt, gián đoạn vì lẽ Tiểu thừa chỉ thành lập có sáu thức: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý, là những tâm lý sanh diệt vô thường. Như năm thức đầu (Tiền ngũ thức) chỉ do sự kích thích của ngoại giới mà tả tượng vào nội tâm, chúng nó không có những tác dụng tinh thần phức tạp như đối tỷ, suy luận và truy niệm cảnh quá khứ. Có đủ thứ tác dụng, ấy chỉ có ý thức mà thôi, nhưng ý thức cũng là thứ tâm lý có gián đoạn, ý niệm luôn luôn sanh diệt không ngừng và khi ta chết rồi thì ý thức cũng tiêu tan.
Thế thì cái gì duy trì nghiệp lực ấy làm cho nó sau khi chúng ta chết, vẫn liên tục không gián đoạn. Đó là thức A-lại-da, một thứ tâm lý luôn luôn sanh khởi và trường tồn, làm cội gốc cho vạn hữu trong vũ trụ. Thức nầy có thể chứa đựng tất cả chủng tử của vạn hữu, do đó mà mở mang thành hiện tượng giới có đủ muôn tượng bao la.
2. Bài bác thuyết Chơn-như duyên khởi:
Chơn-như là lý thể của vạn hữu, bình đẳng và đồng nhứt. Nó vốn trường tồn không sanh diệt, cũng không biến chuyển. Nếu cho rằng lý thể Chơn-như bình đẳng đồng nhứt có thể duyên khởi sanh ra vạn hữu thì có nghĩa là trước kia không, mà bây giờ mới có. Như thế quyết định không hợp chánh lý, bởi vì các hiện tượng muôn vàn sai khác ấy tất nhiên phải do muôn vàn chủng tử sai biệt mà sanh ra. Vì lẽ đó mà phái nầy mới thành lập thức A-lại-da là thứ Tâm thức có thể chứa đựng chủng tử của tất cả các pháp, nó nương vào lý thể Chơn-như làm cho chủng tử biến chuyển thành hiện tượng giới. Thức nầy cũng gọi là Tàng thức, cái kho chứa đựng chủng tử của vạn pháp. Do từ chủng tử đó mà phát sanh thân thể của chúng ta.
— Tại sao vạn vật lại có nhiều hiện tượng như dài, ngắn, vuông, tròn, đỏ, trắng v.v…?
— Do nơi bảy thức trước khởi tâm có tri giác, phân biệt, nhận thức sự vật nên mới biến thành nhiều hiện tượng.
* Nguồn gốc phát sanh ra vạn vật vũ trụ (mê giới):
Bảy thức trước duyên tưởng các hiện tượng khách quan của chúng biến hiện, khởi lên bao nhiêu tâm niệm phân biệt và chúng huân tập thành chủng tử, mới chứa đựng trong thức A-lại-da. Rồi do sức huân tập các nghiệp lành, dữ của thức thứ sáu, làm cho chủng tử ấy sanh ra hiện hành. Chủng tử và hiện hành cứ xoay vần kế tiếp mãi nên mới phát sanh ra vũ trụ mê giới. Đó là chủng tử hữu lậu và thức A-lại-da của chúng ta làm chủ tể cho sự sanh tử luân hồi.
* Nguồn gốc phát sanh ra ngộ giới:
Những chủng tử về ngộ giới của chúng ta cũng chứa đựng trong thức A-lại-da. Nếu chúng ta biết rõ ngoại giới là giả tạm, hư vọng thì lập tức sanh ra chủng tử giác ngộ. Đối với các cảnh tượng của ngoại giới, chúng ta không sanh tâm mê vọng, lần lần huân tập thành chủng tử vô lậu, chúng ta làm chủ tể trong việc siêu phàm nhập thánh.

C. CHƠN NHƯ DUYÊN KHỞI
Chơn-như duyên khởi là một lý thuyết chủ trương bản thể siêu việt ngoài các hiện tượng là nguyên nhân thứ nhứt của vạn hữu trong vũ trụ. Bản thể nầy cũng gọi là tâm tánh, là một thứ thực tại cùng khắp. Tất cả vạn hữu đều do tâm ấy mà biến hiện. Tâm ấy gọi là Nhứt tâm.
Sanh diệt môn:
Muốn hiểu nội dung của Nhứt tâm, chúng ta phải quan sát về hai phương diện Động và Tịnh của nó. Toàn thể của thế giới, nếu đứng về mặt sanh diệt, nổi chìm của nó thì ta thấy có muôn vàn sự biến hoá, bao nhiêu hiện tượng bên trong, bên ngoài chen lẫn với nhau cùng tác động, cơ hồ chúng ta không thể khảo cứu được. Nhưng về phương diện Động ấy không ngoài Nhứt tâm và gọi là Sanh diệt môn.
Chơn-như môn:
Nếu đứng về mặt bản thể của thế giới thì chúng ta thấy nó thường còn bất diệt, mặc nhiên bất động. Cái tự tánh thanh tịnh tâm về phương diện Tịnh ấy gọi là Chơn-như môn.
— Tại sao Bản thể thanh tịnh, không sanh diệt, không khứ lai lại có thể duyên khởi sanh ra vạn hữu?
— Tâm tánh thanh tịnh của chúng ta vốn không sanh diệt, không khứ lai, chỉ do trợ duyên vô minh, bỗng nhiên mà xao động và nổi lên muôn vàn sóng mòi sai khác, mở mang thành các hiện tượng bên trong và bên ngoài. Vô minh là nguyên lý thứ nhứt làm cho Tịnh thành Động, làm cho trên bình đẳng sanh ra sai biệt.
— Vô minh là gì?
— Vô minh là một thứ lực dụng từ trên Tâm thể của chúng ta mà phát hiện. Như thế vô minh không phải thực có. Nó là một thứ vọng tâm nương nơi Tâm thể của chúng ta mà sanh khởi.
Vô minh căn bản (cội gốc): Một ý niệm không giác ngộ, tâm khởi động làm mê mờ Chơn-như, cái ý niệm mê chơn ấy gọi là vô minh cội gốc.
Vô minh chi mạt (ngọn ngành): Do mê chơn rồi theo vọng, nhận lầm cảnh giả cho là thiệt. Thứ vọng chấp ấy gọi là vô minh ngọn ngành. Do đó, chúng sanh khởi hoặc, tạo nghiệp mới bị trói buộc trong sự sanh tử luân hồi.
Các hiện tượng sanh diệt của mặt động là do vô minh huân tập Tâm thể Chơn-như chuyển động không ngừng mà có, gọi là vô minh nhiễm huân. Nhưng Chơn-như vẫn bất động trong sanh diệt, năng lực của mặt Tịnh cũng kềm chế được Động, làm cho Tâm thể không lay động gọi là Chơn-như tịnh huân (tuỳ duyên mà bất biến).

D. PHÁP GIỚI DUYÊN KHỞI
Thuyết Chơn-như duyên khởi là một thuyết phân biệt thực thể và hiện tượng, nghĩa là từ nơi thực thể của Chơn-như mà mở mang thành vạn hữu trong vũ trụ. Cho nên thuyết nầy phải lập vô minh làm nguyên lý căn bản sanh khởi ra hiện tượng giới. Còn lập luận của thuyết Pháp giới duyên khởi lại tiến lên một bước nữa là thực thể của vũ trụ không thể tìm ngoài các hiện tượng. Nếu Chơn-như là năng duyên khởi, vạn hữu là sở duyên khởi, thì toàn thể Chơn-như năng duyên ấy một phen biến động tức thành vạn hữu sở duyên khởi. Như vậy thực thể tức là hiện tượng, hiện tượng tức là thực thể. Hai thứ ấy chỉ là một vật và đó là ý nghĩa Nhứt tâm pháp giới (tất cả mọi sự vật không ngoài một Tâm thể).
Vạn hữu tuy có muôn vàn sai khác, nhưng sự sai khác của chúng chẳng qua là những làn sóng trên sự hoạt động, trong đó chỉ là một sự hoạt động mà thôi. Nhưng làn sóng và bản thể hoạt động không phải là những vật khác nhau mà làn sóng là bản thể hoạt động. Tiến thêm một bước nữa, quan sát về mối liên hệ giữa hiện tượng với hiện tượng, sự tương đối của các pháp Tâm và Vật, chúng ta thấy rằng cái kia và cái nầy là bình đẳng và đồng nhứt. Thực thể của một hiện tượng là thực thể của muôn tượng. Thực thể của muôn tượng là thực thể của một hiện tượng. Cho nên một là tất cả, tất cả là một. Chúng ta nêu ra một pháp tức là toàn thâu tất cả các pháp. Nếu một vi trần làm chủ thì các pháp là bạn. Như vậy các pháp đều tức nhau và dung nhau, nương nhau và thành nhau và trong đó mối quan hệ liên lạc của chúng bao hàm một ý nghĩa mầu nhiệm trùng trùng vô tận.
Vũ trụ là một hệ thống vĩ đại của duyên khởi mà trong đó mọi sự đều linh động, mọi vật đều tương quan không có một cái gì là cô lập cả. Sự sanh diệt chuyển biến trong vạn hữu là do phản ảnh của thực tại đã hoạt động. Vì hoạt động mà có sanh diệt chuyển biến. Nếu không hoạt động tất nhiên không có chuyển biến, không có muôn tượng, cũng không có vũ trụ. Nếu hiểu lý hoạt động ấy rồi tu tập pháp giới quán để thể hội Chơn-như, thì chúng sanh sẽ thành thánh nhơn. Trái lại, nếu mê mờ chơn lý ấy rồi dõi theo sanh diệt chuyển biến, nhận lầm sự vô thường là thường tồn thì chúng sanh sẽ thành phàm nhơn.
Tóm lại, trong pháp giới gồm có năng duyên khởi, sở duyên khởi và trùng trùng vô tận duyên khởi nên gọi là Pháp giới duyên khởi, cũng gọi là vô tận duyên khởi.

E. THẤT ĐẠI DUYÊN KHỞI
Thất đại là đất, nước, lửa, gió, hư không, kiến và thức. Thuyết “Pháp giới duyên khởi” của giáo phái Hoa Nghiêm tuy đã đạt được lý tưởng siêu việt là hiện tượng tức là bản thể, nhưng vẫn chưa chỉ ngay cái thực tại cùng khắp tức là một nhân cách Phật đà (là một nhân vật giác ngộ hoàn toàn). Nên giáo phái Chân ngôn mới cụ thể hoá cái bản thể cùng khắp ấy tức là nhân cách Phật đà và gọi là Ma-ha Tỳ-lô-giá-na Như Lai. Như Lai ấy là bản nguyên của vũ trụ, thực thể của vạn hữu.
Tỳ-lô-giá-na nghĩa là Biến chiếu (soi khắp) cho nên xưa dịch là Đại Nhật Như Lai. Thân thể của đức Phật nầy là bảy đại: địa, thuỷ, hoả, phong, không, kiến và thức. Cho nên thân của Phật là bảy đại. Không những thế, Phật và chúng sanh đều do bảy đại mà tạo thành, vạn hữu cũng do bản thể ấy mà hiển hiện.
Bản thể của vũ trụ vạn hữu là bảy đại và bảy đại cũng không chướng ngại lẫn nhau, luôn luôn vẫn tương ưng vô ngại nên gọi là Thất đại thường-du-gia, nghĩa là tương ưng (hoà hợp với nhau).
Trong vũ trụ, dù nhỏ bằng hột bụi hay vi tế như một mảy lông, chúng ta đừng vội tưởng chúng không đầy đủ bảy đại. Xác thân của ta đây do cha mẹ sanh ra cũng là bản thể của Đại Nhật, nhưng vì bị vọng tình làm khuất lấp nên các đức dụng của bản thể Đại Nhật ấy không thể hiển hiện. Theo giáo phái Chơn ngôn, thì tu tập pháp môn Tam mật tương ưng (ba thứ bí mật thích hợp với nhau, tức là thân mật, khẩu mật, và ý mật) chúng ta sẽ chứng được bản thể sẵn có ấy. Tuy là bảy món, nhưng không ngoài Tâm và Vật, nhưng chỉ là một, là tuyệt đối. Vật là tất cả hình tướng, tâm là năng lực hoạt động. Năng lực ấy không nương vào hình tướng thì không thể tồn tại. Còn hình tướng không nhờ năng lực thì không thể phát hiện.
Tuy nhiên, hoạt động và hình thể vẫn không rời nhau. Vì lẽ ấy nếu chúng ta đứng ngoài sự vật hiện tại mà cầu chơn lý, hay đứng ngoài hiện tượng mà cầu bản thể thì đều sai cả, bởi vì ngoài sự không có lý, ngoài hiện tượng không có bản thể. Cho nên có chỗ nói: tức nơi sự tướng là chơn lý.

I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1)    Hoặc nghiệp: hoặc là mê lầm, mờ tối. Nghiệp là sự tạo tác lành hay dữ. Hoặc nghiệp là do Tâm mờ tối, mê lầm nên mới tạo nghiệp sanh tử luân hồi.
(2)    Khách quan: căn cứ vào sự thực ngoài mình mà quan sát, chớ không do cảm tưởng, xu hướng riêng của mình.
(3)    Huân tập: nung nấu, xông ướp cho quen, cho điều hoà.

II. PHẦN VẤN ĐÁP
1)       Thuyết Duyên khởi nghĩa là gì?
          Là một học thuyết thiên giải vạn hữu trong vũ trụ tại sao mà sanh khởi.
2)        Có mấy thuyết duyên khởi?
           Có năm thuyết duyên khởi là: 1. Nghiệp cảm duyên khởi, 2. A-lại-da duyên khởi, 3. Chơn-như duyên khởi, 4. Pháp giới duyên khởi, 5. Thất đại duyên khởi.
3)        Nghiệp cảm duyên khởi nghĩa là gì?
           Nghiệp cảm duyên khởi là một lý thuyết cho rằng sự sanh khởi của vạn hữu trong vũ trụ đều do nghiệp lực của chúng ta mà có. Vì có mê hoặc nên mới tạo nghiệp, có tạo nghiệp tất nhiên phải sanh ra quả khổ, nên do hoặc-nghiệp của chúng ta mới có nhân sinh và thế giới nầy.
4)        A-lại-da duyên khởi nghĩa là gì?
           Là một lý thuyết cho rằng sự sanh khởi của vạn hữu trong vũ trụ đều do thức A-lại-da mà có, vì thức nầy là một thứ Tâm lý luôn luôn sanh khởi và trường tồn làm cội gốc cho vạn hữu trong vũ trụ. Thức nầy chứa đựng tất cả chủng tử của vạn hữu, do từ chủng tử đó mà phát sanh thân thể của chúng ta và vạn vật, mới mở mang thành hiện tượng giới có đủ muôn tượng bao la.
5)        Chơn-như duyên khởi nghĩa là gì?
           Là một lý thuyết chủ trương bản thể siêu việt ngoài hiện tượng là nguyên nhân thứ nhứt của vạn hữu trong vũ trụ. Thuyết nầy cho rằng do sự trợ duyên của vô minh làm cho Tịnh thành Động, trên bình đẳng thành ra sai biệt, mới có nổi lên muôn vàn sóng mòi sai khác, mở mang thành các hiện tượng bên trong và bên ngoài. Bản thể nầy gọi là Tâm tánh, là một thứ thực tại cùng khắp.
6)        Pháp giới duyên khởi nghĩa là gì?
           Thuyết pháp giới duyên khởi là một học thuyết cho rằng bản thể tức là hiện tượng, hiện tượng tức là thực thể. Hai thứ ấy chỉ là một vật, và đó là ý nghĩa Nhứt tâm pháp giới (tất cả mọi sự vật không ngoài một Tâm thể). Thuyết nầy cho rằng thuyết Chơn-như duyên khởi còn phân biệt bản thể và hiện tượng, nghĩa là cho bản thể khác với hiện tượng và do bản thể mới sanh ra hiện tượng.
7)        Thất đại duyên khởi nghĩa là gì?
           Thuyết pháp giới duyên khởi cho rằng bản thể tức là hiện tượng, hiện tượng tức là bản thể, nhưng không chỉ rõ cái bản thể đó là cái gì, nên giáo phái Chơn ngôn mới cụ thể hoá cái bản thể ấy là một nhân cách Phật đà, gọi là Tỳ-lô-giá-na Như Lai, tức là cái bản nguyên của vũ trụ, thực thể của vạn hữu. Thực thể đó là bảy đại gồm có: Đất, nước, lửa, gió, hư không, kiến, thức. Trong vũ trụ dù nhỏ bằng hột bụi hay vi tế như mảy lông, chúng ta đừng vội tưởng chúng nó không đủ bảy đại, như con sâu, con kiến, con muỗi, con vi trùng v.v…

III. PHẦN TOÁT YẾU
Thuyết Duyên khởi là một học thuyết thiên giải vạn hữu trong vũ trụ tại sao mà có sanh ra. Có năm thuyết duyên khởi là: 1. Nghiệp cảm duyên khởi, 2. A-lại-da duyên khởi, 3. Chơn-như duyên khởi, 4. Pháp giới duyên khởi, 5. Thất đại duyên khởi.
1. Nghiệp cảm duyên khởi cho rằng sự sanh khởi của vạn hữu trong vũ trụ đều do nghiệp lực mê hoặc của chúng ta mà có.
2. A-lại-da duyên khởi cho rằng vạn hữu trong vũ trụ đều do thức A-lại-da sanh khởi mà có, vì thức nầy chứa đựng tất cả chủng tử của vạn hữu nên mới sanh khởi ra vạn hữu được.
3. Thuyết Chơn-như duyên khởi lại cho rằng do cái bản thể bất sanh, bất diệt của Tâm Chơn-như tuỳ duyên mới sanh khởi ra vạn hữu trong vũ trụ, vì có sự trợ duyên của vô minh làm cho Tịnh thành Động, Bình đẳng thành ra Sai biệt, mới có sự sanh khởi.
4. Thuyết Pháp giới duyên khởi tiến sâu hơn chút, cho rằng bản thể tức là hiện tượng, hiện tượng tức là bản thể. Bản thể và hiện tương không sai khác nhau như nước với sóng vậy.
5. Thuyết Thất đại duyên khởi bèn cụ thể hoá cái bản thể ấy là Thất đại Chơn-như (đất, nước, gió, lửa, hư không, kiến, thức). Bảy đại nầy tạo thành Phật và chúng sanh, cho tới vạn hữu cũng do bản thể ấy mà hiển hiện.

BÀI TẬP
Xin khảo sát và bình luận kỹ những thuyết duyên khởi đã học ở trên.
1. Thuyết A-lại-da duyên khởi chỉ trích thuyết Nghiệp cảm duyên khởi, cho rằng thuyết nầy chỉ lập có sáu thức trong khi tu hành, mà ý thức là một thứ Tâm lý gián đoạn, không thường tồn, đến khi ta chết nó không còn nữa, thì lấy cái gì duy trì nghiệp lực sau khi ta chết để sanh khởi lại thân sau?
2. Thuyết A-lại-da duyên khởi cũng bài bác thuyết Chơn-như duyên khởi, nói rằng bản thể của Chơn-như là Không, bất sanh bất diệt không có chứa đựng các hột giống nghiệp thì làm sao sanh khởi được?
3. Thuyết Pháp giới duyên khởi và Thất đại Chơn-như duyên khởi cho rằng thuyết Chơn-như duyên khởi phân biệt bản thể với hiện tượng, nghĩa là hiện tượng và bản thể là hai vật khác nhau, do bản thể mới sanh ra hiện tượng, hiện tượng là hư vọng, bản thể là chơn thật. Bản thể đó là Thất đại Chơn-như. Vạn vật trong vũ trụ từ lớn chí nhỏ đều do Thất đại Chơn-như sanh ra cả. Thất đại nầy là cái bản thể của muôn loài vạn vật vậy.
Xin khảo sát và bình luận:
1. Nếu thuyết A-lại-da nói đúng thì thuyết Nghiệp cảm duyên khởi và Chơn-như duyên khởi là nói sai hay sao? Trái lại hai thuyết sau nói đúng thì thuyết A-lại-da nói trật hay sao?
2. Còn thuyết Pháp giới và Thất đại Chơn-như nói đúng, nghĩa là do cái Bản thể có (Thất đại) mới duyên khởi sanh ra vạn vật, còn cái Bản thể của Tâm Chơn-như là không, thì làm sao sanh ra cái có được? Lại nữa, thuyết Chơn-như duyên khởi tách rời Bản thể với hiện tượng, còn hai thuyết kia thì chủ trương rằng Bản thể và hiện tượng là một. Thế thì thuyết nào đúng?
                                                 Nam Mô Long Hoa Thượng Hội Di Lặc Tôn Phật.
                                                 Kính Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.


_____________________________________



BÀI 6

G I Á C

Tiếng Phạn gọi là Bồ-đề, Phật đà, chữ Hán gọi là Đạo, có nghĩa là sáng suốt, ngộ đặng chơn lý, chỉ cho bản thể Chơn tâm lìa các vọng niệm, tròn khắp, rộng lớn như hư không, cũng gọi là Pháp thân bình đẳng Như Lai (Phật tánh(1) sẵn có).
Bực đắc đạo trong hai thừa Thinh văn, Duyên giác gọi là Tự giác. Bực đắc đạo trong thừa Bồ-tát gọi là Tự giác, giác tha. Bực đắc đạo thành Phật gọi là Tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn (rốt ráo).
Giác có năm tên:
1. Bản giác (Phật tánh sẵn có): Thể tánh Chơn không, không có mê cũng không có ngộ, tự hữu, hằng hữu, cũng là Chơn giác.
2. Bất giác (mê, không giác ngộ): Chỉ địa vị của phàm phu chưa ngộ được như thật pháp Chơn-như, nên khởi tâm mê nhiễm.
3. Thỉ giác (mới giác ngộ sau): Chúng sanh bị vô minh phiền não che lấp Chơn tánh, nhưng nhờ tu hành phá hết vọng tưởng phiền não, mới bắt đầu khởi lên Tri giác khế hiệp với Bản giác, nên gọi là Thỉ giác.
4. Phần giác (giác ngộ từng phần): Hành giả nhờ tu hành trải qua từ bực nên được giác ngộ từ phần, như tu chứng bực Hạ thì giác ngộ được bực Hạ, tu chứng bực Trung thì giác ngộ được bực Trung, tu chứng bực Thượng thì giác ngộ được bực Thượng.
5. Cứu cánh giác (giác ngộ rốt ráo): Giác ngộ đến cực quả là quả vị cùng tột của Phật, cũng tức là hoàn về được Bản giác.

A. BẤT GIÁC
Giác nghĩa là biết, bất giác là không biết, nghĩa là không tỏ ngộ được Phật tánh (Bản giác) nên gọi là mê, mới khởi tâm vọng niệm, hư vọng tức là vô minh. Song cái mê nầy (vô minh) không có thật thể nên chỉ lấy Phật tánh làm thể, không rời Phật tánh (Bản giác) được.
Vì do bất giác nên sinh ra ba tướng tế và sáu tướng thô như sau đây:
1. Tam tế gồm có:
a) Nghiệp tướng vô minh: Do vô minh bất giác sanh tâm vọng động.
b) Chuyển tướng vô minh: Do tâm vọng động nên chuyển Tạng không Như Lai làm Thức tánh (Tạng thức) cũng gọi là tâm năng kiến (phần năng phân biệt).
c) Hiện tướng vô minh: Vì có tâm năng phân biệt nên cảnh bị phân biệt hiện ra tức là Sở kiến (tướng phần).
2. Lục thô gồm có:
a) Trí tướng (phân biệt) vô minh: Do có cảnh giới hiện ra nên sanh tâm phân biệt (trí) thương ghét.
b) Tương tục tướng vô minh: Do tâm phân biệt thương ghét nên tiếp tục sanh ra các niệm khổ vui, mừng lo v.v… không dứt.
c) Chấp thủ tướng vô minh: Là chấp và giữ vững. Do các niệm thương ghét, mừng giận, khổ vui nên sanh tâm chấp lấy, cái gì vui thích thì tham luyến, còn buồn khổ thì sân hận nên mới vướng mắc, chấp lấy sự vật.
d) Kể danh tự tướng vô minh: Do phân biệt vọng chấp nơi sự vật nên giả đặt ra những danh tự để kêu gọi.
e) Khởi nghiệp tướng vô minh: Do chấp theo danh tự tốt xấu đó rồi tạo ra các nghiệp lành hay dữ.
f) Nghiệp hệ khổ tướng vô minh: Do tạo ra các nghiệp nên bị các nghiệp dẫn kéo đi thọ quả khổ không đặng tự tại.

B. THỈ GIÁC
Có bốn lớp từ thô đến tế là: Sanh, Trụ, Dị, Diệt. Bắt đầu giảng bốn lớp từ thấp lên cao.
1. Giác ngộ niệm Diệt: Tiểu thừa hữu học (Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm) và Thập Tín đều gọi là phàm phu mới giác ngộ niệm trước đã khởi ác, nên ngăn dứt niệm sau không cho sanh khởi ác nữa. Đó là diệt cái niệm ác nên gọi là giác ngộ được niệm Diệt, tức là phá trừ diệt tướng vô minh, là vô minh thô sơ bên ngoài, tương dung với sự trừ được khởi nghiệp tướng vô minh và nghiệp hệ khổ tướng vô minh. Vì in như là giác ngộ nhưng kỳ thật là chưa phải giác ngộ, nên gọi chúng phàm phu bất giác.
2. Giác ngộ niệm Dị: (Dị là khác, nghĩa là thấy có Ngã và Pháp). Hàng Sơ tâm Bồ-tát (Tam Hiền, chỉ Thập Trụ, Thập Hạnh và Thập Hồi Hướng) và Nhị thừa vô học (chỉ bực A-la-hán và Bích chi Phật hay Độc giác Phật) giác ngộ được niệm Dị (Dị tướng vô minh) tương đương với sự trừ được Chấp thủ tướng vô minh và Kể danh tự tướng vô minh, nghĩa là hàng Nhị thừa và sơ tâm Bồ-tát dùng Trí huệ quan sát Ngã (thân tâm) và Pháp (vũ trụ) đều do nhơn duyên sanh ra nên đoạn trừ hai món vọng chấp thật Ngã và thật Pháp về phần thô, nên gọi là Giác ngộ niệm Dị, nghĩa là không có tướng niệm dị, tức là không có tướng Ngã và tướng Pháp. Các bực Bồ-tát nầy tương tợ như giác ngộ được Chơn tâm nhưng chưa phải thật ngộ, thật chứng, nên gọi là Tương Tợ Giác.
3. Giác ngộ niệm Trụ: Bồ-tát phá một phần vô minh thì chứng được một phần Pháp thân, gọi là lên Sơ địa, phá hai phần vô minh thì chứng hai phần Pháp thân, gọi là lên Nhị địa, cho đến phá mười phần vô minh thì chứng được mười phần Pháp thân, gọi là Thập địa. Vì Bồ-tát phá vô minh từng phần nên gọi là Tuỳ phần giác.
Các vị Bồ-tát nầy ban sơ còn trụ ở năng sở đối đãi nên gọi là Trụ tướng vô minh, so với Lục thô thì phá được hai món thô đầu là Trí tướng vô minh và Tương tục tướng vô minh.
Đến khi nhập Chơn-như quán, chỉ nhứt tâm chánh niệm Chơn-như, chứng đặng Pháp thân thanh tịnh không còn năng sở đối đãi nữa, không còn tướng niệm trụ nên gọi là Giác ngộ niệm Trụ, tức là trừ được Chuyển tướng vô minh và Hiện tướng vô minh.
4. Giác ngộ niệm Sanh: Bồ-tát bực Đẳng giác ngộ được niệm sanh tức là phá được Sanh tướng vô minh, nghĩa là đang lúc tu hành đến lúc Chơn cùng hoặc tận, tột bực Thập địa chứng đặng Đẳng giác, liền dùng Trí Kim Cang đoạn trừ sạch Sanh tướng vô minh, nghĩa là Giác ngộ niệm Sanh, xa lìa được các vọng-hoặc vi tế và nhứt niệm hiệp với Tâm thể Chơn-như chứng được quả Diệu Giác (Phật) gọi là Cứu Cánh Giác.
Tóm chung lại, chúng phàm phu đối cảnh chấp có và thấy vọng niệm diệt rồi đè nén không cho sanh (Giác ngộ niệm Diệt). Hàng Nhị thừa và Tam Hiền Bồ-tát thì quán Ngã Pháp đều không, nhưng còn cái niệm không (Giác ngộ niệm Dị). Thập địa Bồ-tát cái tâm niệm chấp không cũng không còn, nghĩa là không còn chấp năng sở nữa. Bực Đẳng giác dùng Trí Kim Cang đoạn trừ sanh tướng vô minh rất vi tế nên nhứt niệm hiệp với Chơn-như chứng quả Diệu Giác (Phật).

BẢN ĐỒ SANH, TRỤ, DỊ, DIỆT PHỐI HỢP VỚI TAM TẾ LỤC THÔ
Niệm Sanh
1- Nghiệp tướng vô minh
TAM TẾ
Niệm Trụ
2- Chuyển tướng vô minh
3- Hiện tướng vô minh
1- Trí tướng vô minh
LỤC THÔ
2- Tương tục tướng vô minh
Niệm Dị
3- Chấp thủ tướng vô minh
4- Kể danh tự tướng vô minh
Niệm Diệt
5- Khởi nghiệp tướng vô minh
6- Nghiệp hệ khổ tướng vô minh

BẢN ĐỒ TAM TẾ TƯƠNG ĐƯƠNG BÊN DUY THỨC TÔN
a. Nghiệp tướng vô minh           bên Duy Thức gọi là Tự chứng phần(2)
b. Chuyển tướng vô minh           bên Duy Thức gọi là Kiến phần
c. Hiện tướng vô minh               bên Duy Thức gọi là Tướng phần.

BẢN ĐỒ CHỈ CÁC CÕI KẸT TRONG TAM TẾ LỤC THÔ


I. PHÀM PHU:
Có đủ chín món
Tam tế
1- Nghiệp tướng vô minh
2- Chuyển tướng vô minh
3- Hiện tướng vô minh
Lục thô
1- Trí tướng vô minh
2- Tương tục tướng vô minh
3- Chấp thủ tướng vô minh
4- Kể danh tự tướng vô minh
5- Khởi nghiệp tướng vô minh
6- Nghiệp hệ khổ tướng vô minh
II. TIỂU THỪA:
Ba quả Hữu học
còn bảy món, trừ được
5 và 6
Tam tế
1- Nghiệp tướng vô minh
2- Chuyển tướng vô minh
3- Hiện tướng vô minh
Lục thô
1- Trí tướng vô minh
2- Tương tục tướng vô minh
3- Chấp thủ tướng vô minh
4- Kể danh tự tướng vô minh
5- Khởi nghiệp tướng vô minh
6- Nghiệp hệ khổ tướng vô minh
III. A LA HÁN:
Có sáu món, trừ được
4, 5 và 6
Tam tế
1- Nghiệp tướng vô minh
2- Chuyển tướng vô minh
3- Hiện tướng vô minh
Lục thô
1- Trí tướng vô minh
2- Tương tục tướng vô minh
3- Chấp thủ tướng vô minh
4- Kể danh tự tướng vô minh
5- Khởi nghiệp tướng vô minh
6- Nghiệp hệ khổ tướng vô minh
IV. PHÁP THÂN:
Bồ-tát chỉ có ba tế
Tam tế
1- Nghiệp tướng vô minh
2- Chuyển tướng vô minh
3- Hiện tướng vô minh

I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1)    Phật tánh: Tánh Phật sẵn có, có ba nghĩa:
         – Chánh nhơn Chơn-như: Là cái nhơn chánh để thành Phật.
         – Duyên nhơn: Phật, Bồ-tát, kinh sách là trợ duyên.
         – Liễu nhơn Phật tánh: Chánh nhơn và Duyên nhơn đầy đủ làm cho hành giả liễu ngộ được Phật tánh của mình.
(2)    Tự chứng phần: Một thứ lực dụng tạo nên sự thấy biết (Kiến phần).

II. PHẦN VẤN ĐÁP
1)       Giác nghĩa là gì? có mấy tên?
          Là Phật tánh sẵn có, tiếng Phạn gọi là  Bồ-đề, Phật đà, chữ Hán gọi là Đạo, nghĩa là sáng suốt ngộ đặng chơn lý, có năm tên: 1. Bản giác, 2. Bất giác, 3. Thỉ giác, 4. Phần giác, 5. Cứu cánh giác.
2)        Thỉ giác có mấy lớp?
           Có 4 lớp từ tế đến thô là Sanh, Trụ, Dị, Diệt.
3)        Bất giác có mấy tướng tế và thô?
           Có 3 tướng tế là: 1. Nghiệp tướng vô minh, 2. Chuyển tướng vô minh, 3. Hiện tướng vô minh.
               Và 6 tướng thô là: 1. Trí tướng vô minh, 2. Tương tục tướng vô minh, 3. Chấp thủ tướng vô minh, 4. Kể danh tự tướng vô minh, 5. Khởi nghiệp tướng vô minh và 6. Nghiệp hệ khổ tướng vô minh.
4)        Xin nói về phần các cõi còn bị kẹt trong Tam tế, lục thô?
           a. Phàm phu bị kẹt đủ 9 món.
               b. Tiểu thừa hữu học kẹt 7 món, trừ được 2 món thô chót.
               c. A-la-hán kẹt 6 món, trừ được 3 món chót.
               d. Pháp thân Bồ-tát chỉ kẹt 3 món tế mà thôi.

III. PHẦN TOÁT YẾU
Giác có năm tên là Bản giác, Bất giác, Thỉ giác, Phần giác, Cứu cánh giác.
Bất giác có Tam tế, lục thô. Tam tế gồm có: Nghiệp tướng vô minh, Chuyển tướng vô minh, và Hiện tướng vô minh.
Lục thô gồm có: Trí tướng vô minh, Tương tục tướng vô minh, Chấp thủ tướng vô minh, Kể danh tự tướng vô minh, Khởi nghiệp tướng vô minh và Nghiệp hệ khổ tướng vô minh.
Cõi phàm phu thì bị kẹt đủ trong 9 món, Tiểu thừa hữu học phá trừ được 2 món chót nên còn bị kẹt 7 món. Bực A-la-hán trừ được 3 món chót nên còn bị kẹt 6 món, và Pháp thân Bồ-tát chỉ còn kẹt 3 món Tế tướng.
BÀI TẬP
Dùng hai chữ Giác và Đại Giác điền vào chỗ trống trong bài cho đúng cái nghĩa của mỗi câu:
Mê là chúng sanh, . .  . . . . . .là Phật. Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni chứng quả . . . . . . . . . . . . . dưới cội Bồ-đề, nhờ đời trước được sự thọ ký của Đức Phật Nhiên Đăng, khi tỏ ngộ . . . . . . . . . . là Tâm không có pháp chi khá đặng. Mới biết . . . . . . . . . . đối với mê, vì mê nên nói có . . . . . . . . . . . ., đến khi đại ngộ rồi bèn xưng là . . . . . . . . . . . . . . ., đâu phải là biết cùng không biết.
Đức Mã Minh khi chưa đắc Đạo, gặp Sư tổ mới hỏi: Cái gì là Phật? Tổ đáp: Không biết là Phật. Ngài chưa ngộ được nên hỏi tiếp: Tại sao không biết mà là Phật được. Tổ đáp: Tại sao ngươi biết không biết không phải là Phật? Ngài Mã Minh liền đại ngộ. Mới biết, . . . . . . . . . . không phải biết cùng không biết, vì lìa hai pháp đối đãi, bặt đường ngôn ngữ, hết chỗ nghĩ bàn.
                                                 Nam Mô Long Hoa Thượng Hội Di Lặc Tôn Phật.
                                                 Kính Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.

_____________________________________



BÀI 7

VÔ MINH

Vô minh là không sáng suốt, tức là cái tâm mê lầm tối tăm (Xem bài Chơn-như duyên khởi có nói căn bản vô minh và chi mạt vô minh).

NGUỒN GỐC VÔ MINH
Ông Phú-lâu-na bạch hỏi Phật: Trước kia tôi hỏi Đức Thế Tôn, Tánh thể diệu viên minh thanh tịnh bổn nhiên, mà sao thoạt sanh ra các tướng: núi, sông, đất liền và các tướng hữu vi, thì Thế Tôn đáp rằng, các tướng nhơn nơi vô minh vọng tưởng khởi ra, nay tôi xin hỏi:
Vô minh vọng tưởng đó lại nhơn đâu mà khởi?
1. Chấp thấy có Vô minh: (có nguồn gốc)
a) Luận về đối pháp thì vô minh đối với minh (vô minh ¹ minh), nghĩa là vô minh là tiếng phản nghĩa của minh, vậy vô minh không phải là minh, nhưng nhờ có minh đối đãi nên mới phát hiện ra vô minh.
b) Luận về Bình đẳng danh dị thể đồng, thì minhvô minh là hai tên khác nhau (danh dị) nhưng đồng nhau một bản thể (Chơn-như). Nên chú ý Chơn-như không phải minh hay vô minh, nhưng trong dụng tướng mới phát sanh ra minh (tuỳ duyên sạch), vô minh (tuỳ duyên nhơ). Thế thì nguồn gốc của minh hay vô minh, đều là tâm Chơn-như. Trong các bài trước nói Vô minh là một thứ lực dụng từ trên tâm thể của chúng sanh mà phát hiện. Như thế vô minh không phải thực có, nó là một thứ vọng tâm nương nơi tâm thể của chúng ta mà sanh khởi, thì minh cũng là một thứ lực dụng từ trên tâm thể của chúng sanh mà phát hiện. Thế thì minh cũng không phải là thực có, nó là một thứ lực dụng nương nơi tâm thể của chúng ta mà sanh khởi. Cần nên biết minh và vô minh đều là hai dụng tướng của Bổn tâm, về mặt đối đãi thì vô minh là vọng, còn minh là chơn, nhưng đối với Chơn-như thì tất cả đều là vọng hết.
2. Vô minh không có nguồn gốc
Để đáp câu hỏi của ông Phú-lâu-na:
“Vô minh vọng tưởng đó lại nhơn đâu mà khởi?” Đức Phật nói dụ: Có một người tên Diễn-nhã-đạt-đa ở trong thành Thất La, một buổi sớm mai lấy gương ra soi, thương cái đầu trong gương có mặt mày thấy đặng, rồi giận cái đầu của mình sao không thấy mặt mày chi hết, bèn cho là yêu quái, đương khi không nổi điên vùng chạy. Vậy Phú-lâu-na, người ấy nhơn đâu vô cớ phát khùng chạy bậy vậy?
— Bạch Thế Tôn, tại người ấy tâm cuồng chớ không phải nhơn nơi đâu cả.
Phật nói:
— Thể của giác tánh có đủ ba nghĩa: Diệu, Minh, Viên,(1) nhưng bổn lai(2) nó tự viên, tự minh, tự diệu, nguyên không khi nào có vọng mà nay đã xưng là vọng thì làm sao có nhơn. Vậy nên biết từ lúc tối sơ, một niệm bất giác đương khi không sanh ra vô minh vọng tưởng, rồi lần hồi vọng tưởng với vọng tưởng lại nhơn nhau sanh ra từ kiếp mê nầy chứa đến kiếp mê kia, trải không biết bao nhiêu số kiếp, nhiều như hột bụi nhỏ, tuy có biện tài như Phật, nhưng không thể vì suy ngược lại mà phát minh cái nguyên nhơn của nó được? Cái nguyên nhơn của nó gốc không có, nên lấy gì mà suy? Mê vọng không có nguyên nhơn. Cũng như ban đầu có một người đương khi không thuyết ra một chuyện nói láo, rồi lần lần truyền bá nhau cho là thiệt. Nay muốn suy cứu cho kỳ cùng cái nguyên nhơn của chuyện ấy thì toàn là nói láo, chớ không có gốc rễ chi.
Nhơn của mê vọng là nhơn mê mà sanh mê, tại ngươi không biết cái mê là vô nhơn nên thành ra tự có, chớ nếu ngươi biết cái vọng giả là không, thì lúc tối sơ không khi nào có sanh nó. Thế thì vọng tưởng vô nhơn in như cái tánh điên của Diễn-nhã-đạt-đa, không phải nhơn si dại mà điên, cũng không phải nhơn cái đầu gốc có điên. Tại y nhận lầm cái bóng của gương có đầu có mặt thấy đặng, rồi cho mình là mất đầu mà hãi hùng chạy bậy. Phú-lâu-na, cái tánh vọng tưởng cũng như vậy, nguyên nhơn của nó ở chỗ nào mà ngươi hỏi?
3. Vô minh không có thực thể làm sao có nguồn gốc?
Vô minh đâu phải thật có, chỉ do chúng sanh nhận thấy mê lầm cho nên trong kinh Viên Giác, đức Phật nói:
— Ví như người đau mắt, thấy hoa trong hư không. Thiện nam tử! Hư không thực không có hoa, người đau mắt nhận lầm. Do nhận lầm cho nên chẳng những lầm cả tự tánh của hư không mà lại còn lầm cả hoa kia thực có chỗ sinh. Bởi thế mà vòng quanh trong đường sanh tử nên gọi là vô minh. Thiện nam tử! Vô minh kia không có thực thể. Như người trong mộng, khi mộng chẳng phải là không có, tới khi tỉnh dậy, nào đâu có thấy.
Trong kinh Kim Cang chư gia, Tổ giải: Vô minh đâu phải có thật, tại chúng sanh nhận thấy mê lầm mà ra, cũng như người đi thuyền thấy bờ chạy, kẻ ngắm trăng thấy trăng dời. Chính mắt họ rõ ràng thấy như vậy, nhưng nào bờ có chạy bao giờ, chẳng qua thuyền đi mà họ lại trông thấy bờ chạy, trăng dời. Cái thấy hư vọng ấy gọi là vô minh. Thế thì vô minh đâu phải thật có, làm sao lại có nguồn gốc mà tầm.
Tất cả chúng sanh, tự tánh vốn vô sinh, nhưng vọng thấy sinh diệt cho đến nỗi luân chuyển trong đường sanh tử. Nếu biết tự tánh vô sinh như hư không, không hoa, thì không có luân chuyển, cũng không có thân tâm phải chịu sanh tử luân chuyển nữa, vì hết sự nhận thấy mê lầm.

I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1)    Diệu, minh, viên: Diệu là mầu nhiệm khó nghĩ, khó lường tức là cái lý thiệt tướng. Trái với thô, trược. Minh là sáng. Viên là tròn, đầy đủ, hoàn toàn chỉ đức tánh của Phật, của pháp Phật, của Niết bàn.
(2)    Bổn lai: nghĩa là vốn thuở nay, tức là vốn từ thuở bắt đầu tới nay. Ý nói Thể của Giác tánh từ thuở vô thuỷ tới nay và sắp tới trong vị lai, tánh của nó vẫn luôn luôn tự diệu, tự viên, tự minh không có giả dối, không có hư vọng.

II. PHẦN VẤN ĐÁP
1)       Vô minh nghĩa là gì?
          Vô minh có nhiều nghĩa, nhưng đại khái là không sáng, tâm tánh ám độn không hiểu rõ những pháp về sự và lý, sự nhận lầm do cái tâm ngu tối như bờ chạy, trăng dời. Bờ đâu có chạy mà mình ngồi dưới thuyền đang chèo lại trông lên bờ thấy bờ chạy, trăng đâu có dời mà vì mây bay mình lại thấy trăng dời v.v…
2)        Vô minh có hay không?
           Vô minh không phải thật có, cũng không phải thật không, ví như trong mộng thì thấy thật có, nhưng tỉnh dậy thì nào có gì.
3)        Tại sao có vô minh?
           Vì đối với minh nên mới có vô minh, không có minh đối đãi lẽ cố nhiên không có vô minh.
4)        Minh và Vô minh có thực thể không?
           Minh và Vô minh không có tự thể, hai thứ nầy là một thứ lực dụng nương nơi Tâm thể của chúng ta mà phát hiện, mà sanh khởi.
5)        Đức Phật giảng Vô minh không có nguồn gốc ra sao?
           Đức Phật nói dụ tên Diễn-nhã-đạt-đa một buổi sớm mai lấy gương ra soi, thương cái đầu trong gương có mặt mày thấy đặng, rồi giận cái đầu của minh sao không thấy mặt mày chi hết, bèn cho là yêu quái, đương khi không nổi điên phát chạy.
               Vậy Diễn-nhã-đạt-đa nhơn nơi đâu vô cớ phát khùng chạy bậy? Ông Phú-lâu-na đáp: Tại người ấy tâm cuồng chớ không phải nhơn đâu cả. Thế thì vọng tưởng vô nhơn in như cái tánh điên của Diễn-nhã-đạt-đa, không phải ai dạy mà điên, cũng không phải nhơn cái đầu gốc có điên, mà tại y nhận lầm cái đầu của y không có mặt mày nên hãi kinh chạy bậy.

III. PHẦN TOÁT YẾU
Vô minh là Tâm không sáng. Vô minh không có thực thể, chỉ lấy Tâm Chơn-như làm thể, thế thì vô minh không phải thực có. Có hai thứ vô minh:
1) là vô minh căn bản, tức là vô minh cội gốc.
2) là vô minh chi mạt tức là vô minh ngọn ngành.
Đức Phật nói tích Diễn-nhã-đạt-đa để chỉ vô minh vọng tưởng vốn không có nhơn, in như cái tánh điên của Diễn-nhã-đạt-đa vậy.

THẢO LUẬN
Tâm Chơn-như không có minh hay vô minh, nhưng tuỳ duyên sạch sanh ra minh (Phật), tuỳ duyên nhơ sanh ra vô minh (chúng sanh). Xin hỏi Minh có trước hay vô minh có trước?
Nếu vô minh có trước tức là chúng sanh có trước Phật, vậy ai dạy chúng sanh tu thành Phật?
Còn Phật có trước thì ai mê mà làm chúng sanh dẫy đầy trong Tam Thiên, Đại Thiên thế giới?
                                                 Nam Mô Long Hoa Thượng Hội Di Lặc Tôn Phật.
                                                 Kính Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.


_____________________________________



BÀI 8

DIỆU DỤNG VÔ NGẠI
(CHƠN NHƯ DỤNG)

Diệu dụng là sự công dụng mầu diệu khó nghĩ lường của Bổn tâm Chơn-như, không còn bị phiền não vô minh chướng ngại, che lấp Thánh Đạo, làm hại thiện tâm, nên gọi là vô ngại.
Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, đức Phật dạy: “Vả như chúng sanh trái tánh mà Chơn-như còn tuỳ theo duyên nhiễm uế, thành ra các tướng thế gian thay, huống chi thuận tánh diệu tu lại lẽ nào Chơn-như chẳng tuỳ mà phát ra những điều diệu dụng.”
Sao gọi là diệu dụng?
Pháp giới có ba phẩm:
1. Pháp giới lý vô ngại
2. Pháp giới lý sự vô ngại
3. Pháp giới sự sự vô ngại.
Pháp giới là cảnh giới hiện bày của muôn pháp, tức là vạn vật trong vũ trụ ở trước mắt ta. Pháp giới có nhiều nghĩa nhưng không ngoài sự và lý. Phẩm là hạng, bực.
1. Pháp giới lý vô ngại:
Lý là lẽ phải không biến đổi, không sai chạy, tức là chơn lý, lý tánh Chơn-như, đối nghĩa là sự, có lý mới có sự.
Pháp giới lý vô ngại nghĩa là cảnh giới của muôn pháp đều do thể tánh Chơn-như (lý) tuỳ duyên sanh ra không có chi ngăn ngại, nên trong kinh Thủ Lăng Nghiêm nói: “Phật từ nơi thể Chơn-như, khởi ra dụng Chơn-như, thì pháp giới lý đã khởi cái duyên vô ngại rồi.”
2. Pháp giới lý sự vô ngại:
Đức Phật dạy: Còn như pháp giới lý sự vô ngại, như ước lại mà nói thì lý không phân đặng, nên lý thuộc về một, còn sự thì không cùng, nên sự thuộc về vô lượng. Lý không phân hạn, nên lý thuộc về lớn, còn sự có phân hạn, nên sự thuộc về nhỏ. Vì lẽ như vậy một làm vô lượng, vô lượng làm một, trong nhỏ hiện lớn trong lớn hiện nhỏ mà thành cái pháp giới lý sự vô ngại vậy.
3. Pháp giới sự sự vô ngại:
Nếu nói ước lại một bụi, một lông, một thân, một cõi, giai (đều là) là một; nhiều bụi, nhiều lông, nhiều thân, nhiều cõi, giai là nhiều. Hột bụi tí, đầu sợi lông giai là nhỏ, cõi vô biên thân, vô biên giai là lớn. Vì lẽ như vậy nên một làm vô lượng, vô lượng làm một, trong nhỏ hiện lớn, trong lớn hiện nhỏ mà thành pháp giới sự sự vô ngại vậy.
Cái pháp giới vô ngại đó nguyên thiệt, không phải hư, như chẳng động đạo tràng(1)thân(2) khắp cả mười phương thế giới, đó là một làm vô lượng. Còn một thân mà hàm cả hư không vô tận mười phương, đó là vô lượng làm một.
Nơi đầu sợi lông là Chánh báo,(3) mà hiện các cõi Phật là Y báo,(4) ngồi trong hột bụi tí là Y báo, mà chuyển bánh xe pháp rất lớn là Chánh báo, vậy không phải trong nhỏ mà hiện lớn hay sao? Đó đều là trong cái Trí Như lý(5) mà hiện ra cái Cảnh Như lượng(6) vậy.
Bởi các Phật chuyển cái Tâm “bội giác hiệp trần” mà diệt trần hiệp giác, nên mới chuyển cái tướng trần lao mà phát cái tánh “Chơn Diệu Giác Minh.”
Tại sao chư Phật được vô ngại, chúng sanh lại hữu ngại?
Chúng sanh vì trái tánh Chơn-như tuỳ theo duyên nhiễm uế mà thành ra các tướng thế gian nên hữu ngại, còn chư Phật thuận tánh, Diệu tu, nên Chơn-như tuỳ duyên phát ra những diệu dụng vô ngại.
Chư Phật sở dĩ vô ngại là do chỉ dùng cái Tánh Diệu Minh bất sanh bất diệt trong lục căn dung hiệp với Tạng Như Lai, Sắc-Không sanh diệt, duy có một Tánh Diệu Giác Minh tròn soi pháp giới mà thôi. Đó là lấy cái Trí Như như(7) hiệp với Lý Như như(8) mà trụ trì cái Tạng Đại Quang Minh là vậy.
Chúng sanh thì bội giác hiệp trần nên hữu ngại, còn chư Phật thì Diệt trần hiệp giác nên vô ngại. Chư Phật vô ngại là tại toàn tướng thành tánh, chớ tánh tướng có khác nhau đâu.
Vả chăng cái Diệu tánh ở nơi chúng sanh, tuy là Diệu thể, đã hàm đủ diệu dụng rồi, nhưng cũng phải lấy cái diệu trí (Trí Diệu Minh)(9) phát ra mới đặng. Ví như đờn cầm, đờn sắc, đờn tỳ bà, ống tiêu ống sáo, tuy có cái tiếng điệu mà nếu không nhờ có ngón tay điệu, thì tiếng điệu do đâu mà phát ra đặng?
Nay tất cả chúng sanh không có cái Trí Diệu Minh cũng như thế. Tuy là cái hữu diệu Chơn tâm ai cũng sẵn đủ, ai cũng viên mãn, nhưng chư Phật đắc chỉ ư tâm, ứng chi ư thủ, nên chư Phật án ngón tay thì cái quang minh của hải ấn tức là cái Tâm thường trụ chánh định rực rỡ chiếu khắp vô lượng thế giới, giai thành ra diệu dụng cả.
Chúng sanh không có Diệu trí là bởi không cần cầu cái Đạo Vô thượng giác, mà cứ ưa nghĩ theo Tiểu thừa muốn những điều công khoẻ lợi gần, đặng ít cho là đủ, nên Trí mới thành ra như vậy.
Chúng sanh nhất thiết hữu ngại là tại nghiệp thức chưa không, vọng kiến chưa phá, cứ tuần theo nghiệp sắc không, thay nhau khuynh đoạt nơi tánh Như Lai tạng, như phàm phu ngoại đạo thì bội không xu có, đó là tuần theo nghiệp sắc mà khuynh đoạt nghiệp không. Còn bực Quyền Tiểu Nhị thừa thì bội có xu không, đó là tuần theo nghiệp không mà khuynh đoạt(10) nghiệp sắc.
Vì tương khuynh, tương đoạt như vậy mà Tạng Như Lai tuỳ theo hiện sắc, hiện không làm cho sắc không đầy khắp thế giới, nên trong khi mở mắt ra thì thấy những vật tượng rất nhiều như gió thì động, hư không thì tịnh, động tịnh thường giao ngại nhau, mặt trời thì sáng, mây mù thì tối, sáng tối xô lộn nhau, cho đến đất với hư không chẳng dung nhau, nước với lửa lấn hại nhau. Ngờ đâu các tướng gốc là hư vọng, chỉ nhơn chúng sanh bị màn vô minh che lấp, nghiệp lực nó sai sử nên thành ra mê muộn.
thuộc về chúng sanh có tư tưởng như chúng sanh ở cõi hạ giới và tam đồ v.v… Muộn thuộc về chúng sanh không tư tưởng, như chúng sanh ở cõi Thượng giới (Tứ không Thiền thiên và bực Nhị thừa v.v…).
(Muộn [] nghĩa là bị giam hãm, che kín trong một không gian và thời gian nào đó, không biết hoặc không quan tâm đến mọi thứ xung quanh.)

I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1)    Đạo tràng: Khoảnh đất nơi ấy Phật ngồi Đại định mà thành Đạo, nghĩa thứ hai là chỉ Tâm thể Như như bất động của Phật đã tu chứng đặng.
(2)    Thân: (Thân khắp mười phương) nơi dây chỉ Pháp thân.
(3)    Chánh báo: 1. của chúng sanh là cái thân thể ngũ uẩn hoặc tốt, xấu, yểu hoặc thọ, thông hoặc ngu muội. 2. của Phật là thân 32 tướng chánh, 80 tướng phụ.
(4)    Y báo: của chúng sanh là cảnh vật, như nhà cửa làng xóm, đất nước, xã hội nơi mình sanh ra, của Phật là cõi thế, như Y báo của Phật Thích Ca là cõi ta bà, của Phật A Di Đà là cõi Cực lạc.
(5)    Trí như lý: Trí vô phân biệt.
(6)    Cảnh như lượng: Cảnh giới của muôn pháp.
(7)    Trí như như: Cũng như trí như lý, thuộc về Tánh.
(8)    Lý như như: Thể thanh tịnh.
(9)    Trí Diệu Minh: Tánh Phật sáng suốt, mầu diệu khó lường của Phật.
(10)  Khuynh đoạt: Đánh đổ để cướp đoạt.

II. PHẦN VẤN ĐÁP
1)       Diệu dụng vô ngại nghĩa là gì?
          Là công dụng diệu mầu của bổn tâm Chơn-như không còn bị phiền não, vô minh chướng ngại.
2)        Diệu dụng có mấy phẩm?
           Có ba phẩm là: Pháp giới lý vô ngại, Pháp giới lý sự vô ngại, và Pháp giới sự sự vô ngại.
3)        Pháp giới lý vô ngại nghĩa là gì?
           Là cảnh giới của muôn pháp đều do thể tánh Chơn-như tuỳ duyên sanh ra không có chi ngăn ngại.
4)        Pháp giới lý sự vô ngại nghĩa là gì?
           Là lý thuộc về một, lớn, còn sự thuộc về vô lượng, nhỏ. Vì lẽ như vậy nên một làm vô lượng, vô lượng làm một, trong nhỏ hiện lớn, trong lớn hiện nhỏ làm thành cảnh giới của muôn pháp.
5)        Pháp giới sự sự vô ngại nghĩa là gì?
           Nói về sự thì một bụi, một lông, một thân giai là một, nhiều bụi, nhiều lông, nhiều thân thì là nhiều. Một bụi, một lông, một thân là nhỏ, nhiều bụi, nhiều lông, nhiều thân giai là lớn. Vì lẽ như vậy nên một làm vô lượng, vô lượng làm một, trong nhỏ hiện lớn, trong lớn hiện nhỏ mà thành pháp giới sự sự vô ngại.
6)        Tại sao chúng sanh lại hữu ngại, còn chư Phật được vô ngại?
           Chúng sanh bị hữu ngại, vì hành động trái với tánh Chơn-như, bội giác hiệp trần.
               Nghiệp thức chưa không, vọng kiến chưa phá, cứ tuần theo nghiệp sắc không mà khuynh đoạt.
               Không có Diệu trí (Trí Diệu Minh) bởi không cần cầu cái Đạo Vô thượng giác, mà cứ ưa theo Tiểu thừa, muốn những điều công khoẻ lợi gần, đặng ít cho là đủ nên trí mới thành ra như vậy, còn Phật thì thuận tánh diệu tu, Diệt trần hiệp giác, tu chứng đặng cái Diệu trí (Trí Diệu Minh) nên mới được cái Diệu dụng vô ngại.

III. PHẦN TOÁT YẾU
Diệu dụng vô ngại là công dụng diệu mầu của bổn tâm Chơn-như không còn bị phiền não, vô minh chướng ngại. Diệu dụng có ba phẩm là: Pháp giới lý vô ngại, Pháp giới lý sự vô ngại, và Pháp giới sự sự vô ngại.
Cảnh giới của muôn pháp đều do Thể tánh Chơn-như tuỳ duyên sanh ra, nên gọi là Pháp giới Lý vô ngại. Lý thuộc về một, lớn, còn sự thuộc về vô lượng, nhỏ. Vì lẽ như vậy nên một làm vô lượng, vô lượng làm một, trong lớn hiện nhỏ, trong nhỏ hoá lớn nên gọi là Pháp giới lý sự vô ngại. Còn Pháp giới sự sự vô ngại là một bụi, một lông, một thân là một, thì nhiều bụi, nhiều lông, nhiều thân là nhiều. Một bụi, một lông, một thân là nhỏ, nhiều bụi, nhiều lông, nhiều thân là lớn. Vì lẽ đó một làm vô lượng, vô lượng làm một, trong nhỏ hiện lớn, trong lớn hiện nhỏ mà thành ra Pháp giới sự sự vô ngại.
Chúng sanh trong dụng tướng thì hữu ngại, vì không có Trí Diệu Minh, còn Phật được vô ngại vì tu chứng được cái Diệu Trí, rõ biết được toàn tướng thành tánh chớ tướng tánh có khác nhau đâu.

BÀI TẬP
Trong kinh nói: Tất cả chúng sanh đều có cái Bửu giác Chơn tâm, ai cũng sẵn đủ, nhưng tại chúng sanh không cần cầu cái Đạo Vô thượng giác, nên không có cái Trí Diệu Minh để phát sanh ra Diệu dụng vô ngại được.
Vậy xin hỏi:
1. Cái gì là cái Trí Diệu Minh? Phải cần tu mới có hay sẵn có?
2. Cầu cái Đạo Vô thượng giác là cầu cách nào? Phải tu cách nào?
                                                 Nam Mô Long Hoa Thượng Hội Di Lặc Tôn Phật.
                                                 Kính Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.
_____________________
GHI CHÚ VỀ THUẬT NGỮ “DIỆU DỤNG VÔ NGẠI”: Diệu trí chứng được lý của thật tướng gọi là viên thông; tánh thể cùng khắpviên, diệu dụng không ngăn ngạithông; biến mãn cùng khắp tất cả, dung thông vô ngại. Vì ngộ được chơn như nhờ trí tuệ, mà bản chất chơn như là thực tại tròn đầy cùng khắp, tác dụng của nó tự tại, nên được gọi là viên thông. Hoặc lấy trí tuệ để thông đạt đạo lý cũng như thực tại của chơn như, cũng được gọi là viên thông. (Ghi chú của BCHĐĐTW).


_____________________________________



BÀI 9

NGUYÊN NHÂN SÂU XA
SANH RA VẠN PHÁP

Ông Phú-lâu-na hỏi Phật: Tánh Như Lai Tạng là thanh tịnh bản nhiên mà sao lại thoạt nổi lên núi, sông, đất liền và các tướng hữu vi? Để giải đáp điểm thắc mắc nầy, nghĩa là tánh Như Lai Tạng là thanh tịnh bản nhiên, nhưng do nơi nguyên nhân nào mà lại sanh ra vạn pháp? Muốn tìm cái nguyên nhân ấy, Đức Phật mới hỏi lại ông Phú-lâu-na: Vậy lâu nay ngươi không nghe Ta thường nói câu: Tánh giác(1) Diệu Minh, Bản giác(2) Minh Diệu hay sao?
— Bạch, tôi có nghe nói cái nghĩa ấy.
— Phú-lâu-na, vậy hai chữ giác minh trong câu đó, ý của ngươi hiểu ra làm sao? Ngươi nói cái Tánh vẫn tự sáng mà gọi là giác hay là nói cái giác có chỗ chẳng sáng, nên phải sáng cái giác ấy ra mới gọi là giác minh?
— Bạch Thế Tôn! Nếu cái chẳng sáng ấy mà vội kêu là giác thì cái giác ấy tất không có cái chỗ sáng.
Phật gạn hỏi lại ông Phú-lâu-na:
— Ngươi nói nếu không có chỗ sáng thì không thể nào gọi là Minh giác. Đó là ngươi lầm! Tánh của Bản giác nguyên không nói đặng cái sự có chỗ sáng và không chỗ sáng. Hễ có chỗ sáng thì thuộc về vọng kiến phân biệt chớ không phải là giác, còn không chỗ sáng thì thành ra mờ ám, mà mất cái chiếu thể thì không phải là minh, mà đã không phải minh thì tức là vô minh, chớ đâu phải là cái tánh trong sạch sáng suốt của Bản giác.

NGUYÊN NHÂN SANH RA TẾ TƯỚNG TRƯỚC TIÊN
Nguyên lai cái giác của bổn tánh tất đã sẵn đủ cái sáng bản hữu rồi, không đợi cái sáng nào nữa, mà cớ gì đương khi không ngươi lại gia thêm cái sáng lên trên cái giác làm chi? (chấp minh hay vọng minh) Có phải lỗi tại ngươi không?
Vả chăng, cái thể của Bản giác, gốc là thanh tịnh bản nhiên, nguyên chẳng thuộc về sở (chỗ) vì nó không định chỗ, mà đâu cũng là chỗ của nó, lại nguyên chẳng thuộc về minh (sáng) vì nó không phải sáng mà đâu cũng là sáng của nó.
Tánh thể của giác như vậy, tại ngươi nhận lầm nó không sáng mà thêm cái chỗ sáng (sở minh). Do cái thêm đó nên mới đem cái tánh giác không phương sở (nơi chỗ) mà chuyển thành nghiệp thức. Đã thành ra nghiệp thức tức là lạc vào phương sở rồi, thì thành ra chuyển cái Trí huệ Quang minh mà làm cái năng kiến (hay thấy). Nếu đã có cái năng kiến thì phải có cái sở kiến, tức là đem cái lý cảnh chơn đế không đồng, không khác mà làm thành cái chỗ bị thấy tức là tướng phần.
Tướng phần thì có nhiều món riêng khác nhau nhưng cái khác của tướng phần lại khác với cái khác của nghiệp thức, vì cái khác của nghiệp thức là chỉ ước trong một niệm, còn cái khác của tướng phần thì suy quảng ra nhiều lắm. Vậy cái khác nầy với cái khác kia là hai cái khác. Nhơn hai cái khác ấy mà lập ra cái đồng. Rồi cái khác với cái đồng đối đãi nhau mà lập ra cái không đồng, không khác.

SAO GỌI LÀ KHÔNG ĐỒNG, KHÔNG KHÁC?
Nên biết cái khác là cái tướng có sắc, còn cái đồng là cái tướng không sắc. Cái tướng không đồng, không khác thì mường tượng như có hình, nên nó không phải đồng của tướng không khác (nghĩa là nó mường tượng có hình nên đồng với cái tướng có sắc tức là khác), lại nó mường tượng có tri giác nên nó cũng không phải cái khác của tướng vô tình (nghĩa là nó mường tượng như có tri giác [hữu tình] nên nó không phải cái tướng có sắc vô tình không có tri giác).
Nói tóm lại, mấy tướng trên đó đều là cái tướng hoảng hốt chưa định của thế giới, hư không và chúng sanh khi còn ở trong bản thức mà nó ảnh hiện ra như vậy, nghĩa là cái Tâm mới khởi vọng động (nghiệp tướng vô minh) làm cho trong cái biển Tạng thức gió cảnh xao luôn, như cái nhoáng bỗng loạn múa giữa trời, thiệt ra bối rối biết mấy. Nếu đã bối rối như thế thì chi khỏi làm duyên đối đãi nhau mà chuyển sanh lao lự (lo nghĩ mệt nhọc). Hễ lao lự lâu thì chuyển sanh ra trần cấu (bụi dơ) phải nhơ trược nhau mà dẫn khởi ra mọi điều trần lao phiền não.

NGUYÊN NHÂN SANH RA CÁC TƯỚNG THÔ TIẾP THEO SAU
Nhơn có các tướng tế mới sanh ra các tướng thô. Nghiệp lực của vô minh bổn thức, hễ nó khởi mà làm chỗ có tướng thì thành ra Núi, Sông, Đất liền, các sắc của thế giới, còn nó tịnh mà làm chỗ không tướng thì thành ra rỗng không, trống trải một màu của hư không. Cái hư không ấy, tức là cái tướng “đồng” trước kia đến đây mới chắc có, còn cái thế giới ấy (sắc) tức là cái tướng khác trước kia đến đây mới thành tựu. Cái nguyên nhân núi, sông, đất liền nổi lên là tại như vậy. Còn như cái tướng không đồng, không khác ở trong cảnh vi tế trước kia đến đây mới thành ra chúng sanh và nghiệp quả, rõ ràng là pháp hữu vi. Cái nguyên nhân của các pháp hữu vi nổi lên là tại như vậy.
Tổng lại tướng thế giới, tướng hư không và các tướng hữu vi tuy là nhiều, nhưng cứu xét lại cho tới căn nguyên thì đều là ở trong một hiện tượng Vọng Minh quấy sáng sanh ra cả.
Hễ trong một niệm vọng khởi thì thành ra thế giới, trong một niệm tối tăm thì thành ra hư không. Hư không là trong một niệm vọng minh sở hiện ra cái tướng khác. Còn chúng sanh nghiệp quả, các pháp hữu vi tức là trong một niệm vọng minh sở hiện ra cái tướng không đồng, không khác. Vậy nên phải biết: Một niệm Vọng Minh là ông tổ của tất cả tướng hữu tình và vô tình vậy.

I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1) Tánh giác: cái nguyên lý chẳng dời đổi, chẳng tiêu mất, tức là Phật tánh.
(2) Bản giác: là Pháp thân của Như Lai, tức là Thể của Bổn Tâm.

II. PHẦN VẤN ĐÁP
1)       Ông Phú-lâu-na hỏi Phật ra sao?
          Ông Phú-lâu-na hỏi Phật: Tánh Như Lai tạng là thanh tịnh bản nhiên, sao lại nổi lên Núi, Sông, Đất liền và các tướng hữu vi.
2)        Đức Phật đáp lại như thế nào?
           Đức Phật hỏi lại ông Phú-lâu-na cái nghĩa của hai chữ Giác Minh trong câu “Tánh giác Diệu minh, Bản giác Minh diệu” ngươi nói cái Tánh vẫn tự sáng mà gọi là Giác hay là nói cái Giác có chỗ chẳng sáng, cần phải sáng cái Giác ấy ra mới gọi là Giác Minh?
3)        Ông Phú-lâu-na trả lời lại như thế nào?
           Bạch Thế Tôn, nếu cái chẳng sáng ấy mà vội kêu là Giác thì cái Giác ấy tất không có cái chỗ sáng.
4)        Đức Phật bắt sai câu đáp sai của ông Phú-lâu-na ra sao?
           Ngươi nói nếu không có chỗ sáng thì không thể nào gọi là Minh Giác được. Đó là ngươi lầm vì Tánh của Bổn giác nguyên không nói đặng cái có chỗ sángkhông chỗ sáng. Hễ có chỗ sáng thì thuộc về vọng kiến phân biệt chớ không phải là Giác, còn không chỗ sáng thì thành ra mờ ám mà mất cái chiếu thể thì không phải là Minh, mà đã không phải là Minh tức là vô minh chớ đâu phải là cái Tánh trong sạch sáng suốt của Bổn giác.
5)        Cái niệm mê lầm đầu tiên chấp cho rằng Giác là sáng gọi là gì?
           Gọi là một niệm Vọng Minh, Ông Tổ của tất cả các tướng hữu tình và vô tình vậy.
6)        Nguyên nhân sanh tiếp ba tướng tế ra sao?
           Thể tánh của Giác không phải là sáng hay không sáng. Vì lẽ lúc tối sơ khởi ra một niệm chấp minh nên mới sanh ra tiếp theo ba tướng tế như sau đây:
               Do thêm cái sáng (chấp minh) lên trên cái giác, nên mới chuyển cái Tánh giác không phương sở thành ra nghiệp thức (nghiệp tướng vô minh). Đã thành ra nghiệp thức tức là lạc vào phương sở rồi nên chuyển cái Trí huệ quang minh làm ra cái năng kiến (kiến phần). Đã có năng kiến thì phải có cái sở kiến (tướng phần), nên đem cái lý cảnh Chơn đế không đồng, không khác mà làm thành sở kiến tức là tướng phần vậy.
               Đó là ba tướng tế đầu tiên của Bổn Tâm trước khi sanh hoá muôn loài, vạn vật.
7)        Nguyên nhân sanh ra các tướng thô như thế nào?
           Nhơn có tướng tế mới sanh ra các tướng thô. Nghiệp lực của vô minh bổn thức hễ nó khởi mà làm chỗ có tướng thì thành ra Núi, Sông, Đất liền, các Sắc của thế giới, còn nó tịnh mà làm chỗ không tướng thì thành ra rỗng không, trống trải một màu của hư không. Cái hư không ấy tức là cái tướng đồng trước kia đến đây mới chắc có, còn cái thế giới ấy (sắc) tức là cái tướng khác trước kia đến đây mới thành tựu. Còn như cái tướng không đồng, không khác ở trong cảnh vi tế trước kia đến đây mới thành ra chúng sanh và nghiệp quả, rõ ràng là pháp hữu vi.

III. PHẦN TOÁT YẾU
Nguyên nhân sâu xa sanh ra vạn pháp.
Ông Phú-lâu-na hỏi Phật: Tánh Như Lai tạng bản nhiên thanh tịnh, sao lại thoạt nổi lên núi, sông, đất liền và các tướng hữu vi?
Đức Phật lấy câu Tánh giác Diệu minh, Bản giác Minh diệu để hỏi lại ông Phú-lâu-na như sau đây:
Cái Tánh vẫn tự sáng mà gọi là Giác hay là Giác có chỗ chẳng sáng, cần phải sáng cái Giác mới gọi là Giác minh? Ông Phú-lâu-na đáp: “Nếu cái chỗ không sáng mà vội gọi là giác thì cái giác ấy tất không có cái chỗ sáng,” nghĩa là ông Phú-lâu-na chấp giác là sáng.
Đức Phật bèn hỏi tiếp: Ngươi nói nếu không có chỗ sáng thì không thể nào gọi là Minh giác. Đó là ngươi lầm vì giác tánh nguyên không nói đặng cái sự có chỗ sáng và không chỗ sáng. Nếu có chỗ sáng thì thuộc về cái vọng kiến phân biệt chớ không phải là Giác, còn không chỗ sáng thì thành ra mờ ám má mất cái chiếu thể thì không phải là Minh. Đã không phải là Minh tức là Vô minh chớ nào phải là Giác.
Đó là nguyên nhân sâu xa sanh ra vạn pháp cũng là cái vọng niệm đầu tiên làm cho Tịnh thành Động (Nhứt niệm bất giác Tâm khởi động).
Nguyên nhân sanh ra ba tướng tế là do Tâm chấp Minh (sáng ấy) nên chuyển cái giác (không phải sáng, không phải tối) thành ra nghiệp thức (nghiệp tướng vô minh). Đã thành ra nghiệp thức tức là lạc vào phương sở rồi nên chuyển cái Trí huệ quang minh thành ra cái năng kiến (kiến phần), tức là (chuyển tướng vô minh) và chuyển cái lý cảnh Chơn đế không đồng, không khác thành ra sở kiến (tướng phần, tức là hiện tướng vô minh).
Nhơn có tướng tế mới sanh ra các tướng thô. Nghiệp lực của vô minh bổn thức hễ nó khởi mà làm chỗ có tướng thì thành ra núi, sông, đất liền và  các Sắc của thế giới, còn nó tịnh mà làm chỗ không tướng thì thành ra rỗng không, trống trải một màu của hư không. Cái hư không ấy tức là cái tướng đồng trước kia đến đây mới chắc có, còn cái thế giới ấy (sắc) tức là cái tướng khác trước kia đến đây mới thành tựu. Còn như cái tướng không đồng, không khác ở trong cảnh vi tế trước kia đến đây mới thành ra chúng sanh và nghiệp quả, rõ ràng là pháp hữu vi.

BÀI TẬP
1) Trong bài nầy Đức Phật cho biết cái Niệm đầu tiên tức là nguyên nhân sâu xa sanh ra vạn pháp là Một Niệm Vọng Minh.
Xin hỏi: Sao lúc tối sơ không khởi lên một niệm vọng vô minh (chấp tối) mà lại một niệm vọng minh chấp sáng? Nếu trong lúc tối sơ mà khởi lên một niệm chấp sáng được thì lẽ cố nhiên khởi lên một niệm chấp tối cũng được?
2) Lúc Bổn Tâm Chơn-như khởi lên một niệm Vọng minh thì gọi nó là gì?
                                                 Nam Mô Long Hoa Thượng Hội Di Lặc Tôn Phật.
                                                 Kính Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.

_______________________
GHI CHÚ CỦA BCHĐĐ.TW VỀ “ĐỒNG VÀ KHÁC”:
Về thuật ngữ, có thể dùng “Đồng và Dị” thay cho “Đồng và Khác” để khi thuyết minh ít bị nhầm lẫn.
Thể tánh của Giác là chơn không, nguyên chẳng có Đồng và Dị (Phi Đồng Phi Dị), đó mới thật là pháp vô vi.
1. Do khởi lên một niệm vọng minh, nên giác tánh bị chuyển từ “Phi Đồng Phi Dị” thành ra Nghiệp tướng vô minh hay Nghiệp thức. Do thành Nghiệp thức nên giác tánh bị chuyển thành hai cái Dị (Kiến phần và Tướng phần). Sở dĩ gọi là Dị vì nó khác với cái Phi Đồng Phi Dị. Cái Dị này là cái tướng có sắc.
2. Cái Dị của Kiến phần và Tướng phần tự thân nó hàm chứa cái rỗng rang của Kiến Văn Giác Tri và cái rỗng rang của hư không, nên bèn sanh ra cái Đồng, là cái tướng không sắc.
3. ĐồngDị xoay vần sanh khởi lẫn nhau (tâm sanh chủng chủng pháp sanh) nên sanh ra cái không Đồng không Dị (vô Đồng vô Dị), nó mường tượng như có sắc và mường tượng như không sắc. Cái không Đồng không Dị là cái bị sanh (cái nầy sanh nên cái kia sanh), nên nó chính là pháp hữu vi./-


_____________________________________




BÀI 10

NGUYÊN NHÂN SANH RA
THẾ GIỚI, CHÚNG SANH, NGHIỆP QUẢ

I. TỨ ĐẠI
Chỗ phát thỉ của thế giới là do ở trên cái giác thể mà khởi ra vọng minh. Nếu vọng minh đã sanh thì thấy cái thể của ngoan không toàn là mờ tối, rồi cái tối của ngoan không và cái sáng của vọng minh, hai cái đối đãi nhau mà tâm phát diêu động. Vì có diêu động ấy mới cảm sanh ra Gió, cho nên phong luân cầm giữ thế giới.
Nhơn cái ngoan không mờ tối tâm phát diêu động đó, rồi cái vọng giác nhận theo cái sở minh (chỗ sáng) mà kiến chấp(1) luôn. Do cái kiến chấp ấy mới cảm thành ra chất cứng như: Đất, Đá, Vàng, Thiếc, v.v… cho nên trên phong luân lại có kim luân bảo trì quốc độ. Bởi cái vọng giác kiến chấp cảm thành chất vàng, còn cái vọng minh động niệm cảm thành tướng gió. Như vậy nên một bên vàng cứng, một bên gió động, hai bên chà sát nhau mới sanh ra tướng lửa sáng, lửa tuy không có cái lực dụng bao hàm cầm giữ như phong luân và kim luân, nhưng lại có cái công năng biến hoá.
Đã có vàng và có lửa thì ắt phải có nước vì cái thứ vàng báu trong thế gian đã sẵn có tánh sanh nhuận rồi (thấm ướt) mà hoả quang lại xông lên nữa thì nước tất phải lưu dật ra nhiều. Vì lý như vậy nên mới có thuỷ luân hàm cả mười phương thế giới.

II. BỐN CHỖ Ở: BIỂN, BỐN CHÂU ĐỊA CẦU, NÚI, RỪNG
Vô minh nghiệp thức xuất sanh ra bốn món (Đất, Nước, Lửa, Gió) mỗi món đều có công dụng biến hoá cả, nhưng suy theo bốn chỗ ở núi, biển, rừng, đất thì công tích của nước, lửa và đất càng rõ hơn. Bởi lửa xông lên, nước giáng xuống, hai món giao hiệp phát sanh mà tạo thành thế giới, rồi chỗ ướt mà thấp xuống thì làm biển lớn, đó là chỗ ở của chúng sanh dưới nước. Còn chỗ khô mà cao lên thì làm doi cồn tức là bốn châu địa cầu, đó là chỗ ở của chúng sanh trên mặt đất.
Vì cái nghĩa Nước–Lửa cộng lại mà sanh ra hai chỗ khô, ướt như vậy nên giữa biển thường có ánh sáng của hoả quang xông lên, còn trong doi cồn thì thường có nước sông rịn chảy.
Thế lực của nước thua lửa, tức là phần thượng thăng, nhiều thì kết lại thành ra núi cao, đó là chỗ ở của chúng sanh trên núi. Bởi núi do lửa và nước tạo ra nên đá núi đánh ra lửa, mà tiêu thì ra nước.
Còn thế lực của đất thua nước tức là phần tươi nhuận, nhiều thì rút lại thành ra cỏ cây, đó là chỗ ở của chúng sanh trong rừng. Bởi rừng là do nước và đất tạo ra nên cây rừng ép thì ra nước mà đốt thì thành ra đất.
Tóm lại mấy thứ nói trên, giai gốc nơi vọng tâm giao cảm mà phát sanh, lần lần thay đổi nhau mà làm nòi giống. Vì nhơn duyên ấy nên thế giới hết kiếp thành, kiếp trụ, rồi đến kiếp hoại, kiếp không, bốn kiếp xoay vần cứ nối nhau hoài không dứt.

III. CHÚNG SANH
Chỗ phát thỉ của chúng sanh là do nơi vọng minh khởi lên làm cho tánh minh mê mất mà thành ra vô minh, rồi lại do vô minh biến thành ra ngoan không. Cái sở biến của ngoan không vọng sắc và cái năng biến của vọng minh vọng tưởng, hai cái hoà hiệp lại mà biến khởi ra Tứ đại (đất, nước, lửa, gió). Đến lúc ấy mới có những khí giới (núi, biển, cỏ, cây, vàng, đá) các sắc Y báo ở ngoài. Rồi các sắc Tứ đại và cái tâm vọng tưởng xen lộn nhau biến khởi ra căn thân (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) khi ấy mới có các sắc chánh báo ở trong. Ấy gọi là sắc với tâm hoà hiệp nhau mà ngũ ấm (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) đều đủ trong thân mạng của chúng sanh cả.
Từ sáu trần vọng hiện ở ngoài, sáu căn vọng lập ở trong, căn trần đối nhau nên cái Tạng thức mới phân khai ra kiến, văn, giác, tri mà khiến cho nghiệp càng ngày càng thêm. Đó là cái chỉ nhơn của bốn loài Noãn, Thai, Thấp, Hoá.
Căn, trần, thức là ba nghiệp tánh, hễ nghiệp tánh ấy khởi ra thì hoặc cảm mà làm đồng nghiệp, hoặc cảm mà làm hiệp ly.
Đồng nghiệp là nhơn theo nghiệp của cha mẹ và nghiệp của mình, ba nghiệp đồng nhau, vấn vít nhau mà có sự sanh sản như loài có con và loài đẻ trứng vậy.
Hiệp ly là nói chỉ do nội nghiệp của mình chớ chẳng nhơn theo nghiệp của cha mẹ, tức như loài thấp sanh thì hiệp với khí ướt mà thành hình như các loài máy cựa ở dưới đất.
Còn loài hoá sanh thì ly cái nguyên chất ra mà thoát hoá như các thứ bông hoá sâu, lúa hoá mọt, cỏ mục hoá đom đóm.
Thai sanh là loài thọ khí phần của cha mẹ mà sanh ra. Khí phần có bốn thứ:
1. Vận động thuộc về gió,
2. Xương thịt thuộc về đất,
3. Hơi nóng thuộc về lửa,
4. Tinh huyết thuộc về nước.
Bốn thứ ấy đều có âm dương, hễ âm dương giao cấu nhau thì thành ra thai bào. Song tuy giao cấu mà không nhơn theo Sát, Đạo, Dâm, tham ái thì cũng chẳng thành thai đặng. Bởi vì có sự sát, đạo, làm nợ nần, sự tham dâm làm nhơn duyên và tình ái làm mai mối, rồi cái thần thức của trung ấm thấy cha mẹ đồng nghiệp với mình đó giao cấu nhau mới đi tới mà đầu thai.
Nói tóm lại, Noãn, Thai, Thấp, Hoá bốn loài chúng sanh đó, giai lấy cái định nghiệp mà tương cảm nhau, cho nên cái định báo của chúng sanh cũng tuỳ theo chỗ mà cảm ứng. Như loài sanh trứng thì ứng theo cái loạn tưởng mà sanh. Loài sanh thai thì ứng theo tình ái mà sanh. Loài thấp sanh thì ứng theo hiệp mà sanh, tức là nương phụ với thấp khí. Loài hoá sanh thì ứng theo ly mà sanh, tức là phụ đây mà tới kia vậy.
Song tình, tưởng, hiệp, ly trong bốn giới ấy vốn không nhứt định, hoặc tình biến làm tưởng, hoặc hiệp biến làm ly, hoặc trứng đổi làm thai, hoặc thấp đổi làm hoá. Vậy nên sự tuỳ nghiệp thọ báo, cũng có thứ bay trở lại làm thứ lặn, như chim se sẻ hoá thành con vọp, cũng có thứ lặn mà trở thành thứ bay như cá hoá long. Đại để những chuyện kỳ kỳ quái quái như vậy rất nhiều, thay hình đổi xác, quay lộn luôn luôn. Vì thế nên chúng sanh thường có hoài không khi nào dứt.

IV. NGHIỆP QUẢ
Nghiệp quả của nhơn loại có ba nguyên nhơn:
1. Tất cả nhơn loại đều bị tình ái ràng buộc, không ly nhau đặng, nên trong thế gian cha mẹ con cháu thường nối nhau mà sanh sản hoài. Đó là lấy sự tham dâm dục làm gốc.
2. Có tham dục tất phải có thân mạng, nếu có thân mạng thì phải nhờ sự bổ dưỡng nên mới nuôi loài súc vật. Rồi loài súc vật lại tham sự cưng nuôi của người, người lại tham huyết thịt của nó, tham qua tham lại chẳng cùng, vì vậy nên loài tứ sanh trong thế gian yếu chết mạnh ăn, thay đổi ăn lộn nhau, đó là lấy sự tham sát hại làm gốc.
3. Bởi cái nghiệp sát hại thạnh hành, nên người ăn thịt thú, thú chết trở lại làm người, người chết trở lại làm thú, từ một loài cho đến mười loài, tử tử, sanh sanh, vay trả xoay vần, cứ ăn lộn nhau mãi. Vì có ác nghiệp vậy nên đời kiếp nào cũng đồng sanh nhau một chỗ đặng gặp nhau mà trả nợ nhau, trả từ kiếp nầy qua đến kiếp khác, thẳng tới vị lai, vô số về sau, cũng không thể dứt đặng. Đó là lấy sự tham trộm cắp làm gốc.
Cái nghĩa tham trộm cắp trên đây là nói phàm vật gì chẳng cho mà lấy tức là trộm cắp. Như các loài thú nguyên nó không phải đem tánh mạng của nó đưa cho mình sát, vì mình tham ăn thịt mà sát nó nên gọi là trộm cắp. Vả lại người ăn thịt nó làm cho nó chết oan uổng, vì lẽ như vậy nên vật chết trở lại làm người, rồi người chết trở lại làm vật, sát hại lẫn nhau mà trả nợ oán cừu không khi nào dứt. Xem đó thì biết, cội gốc của nghiệp sát, đạo, dâm cấu kết thì cái nghiệp quả của chúng sanh biết đời kiếp nào cho dứt.
Bây giờ nói tổng lại, như thế gian chúng sanh, nghiệp quả, ba món điên đảo nối nhau đó, tuy là mỗi món khác nhau, nhưng cứu tới căn do thì đều gốc nơi bổn thể của tánh-giác-diệu-minh trong lúc tối sơ, bất giác động niệm mà thành ra nghiệp thức gọi là giác minh (biết sáng) rồi nhơn cái giác minh ấy mới chuyển ra làm cái tánh-minh-liễu-tri (sáng rõ biết) mà thành phần kiến (phần thấy). Lại nhơn có cái liễu tri phát ra cái cảnh tướng mà thành phần tướng. Vậy biết rằng phần tướng thiệt do nơi vọng kiến(2) sanh ra.
Thế thì cái nguyên nhơn của núi, sông, đất liền và chúng sanh nghiệp quả, hết thảy các tướng hữu vi đó nó lưu chuyển có lớp lang, sau nối lại trước, trước nối lại sau là nhơn nơi cái hư vọng của nghiệp thức điên đảo mà thành ra vậy.

I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1)    Kiến chấp: cầm giữ cái thấy biết đó luôn không rời.
(2)    Vọng kiến: cái thấy hư vọng, không chơn thiệt, không đúng với chơn lý.

II. PHẦN VẤN ĐÁP
1)       Chỗ sanh khởi của Tứ đại ra sao?
          GIÓ: trên giác thể khởi ra vọng minh liền thấy cái thể của ngoan không mờ tối. Rồi cái tối của ngoan không với cái sáng của vọng minh, hai cái đối đãi với nhau mà tâm phát diêu động và mới cảm sanh ra gió tức là phong luân.
               ĐẤT, Đá, Vàng, Vật cứng: nhơn cái ngoan không mờ tối, tâm phát ra diêu động đó, rồi cái vọng giác nhận theo cái sở minh (chỗ sáng) mà kiến chấp luôn mới cảm thành ra chất cứng Đất, đá, vàng, v.v… tức là kim luân.
               LỬA: Bởi cái vọng giác kiến chấp cảm thành chất vàng, còn cái vọng minh động niệm cảm thành tướng gió, hai bên chà xát nhau mới sanh ra lửa sáng, tức là hoả luân.
               NƯỚC: Đã có vàng và có lửa thì phải có nước vì hoả quang (lửa) xông lên đốt vàng nên cảm sanh ra nước, tức là thuỷ luân, hàm cả mười phương thế giới.
2)        Cách thức sanh ra bốn chỗ ở của chúng sanh (biển, bốn châu địa cầu, núi, rừng) ra sao?
           a. Sanh ra biển: Bởi lửa xông lên, nước giáng xuống, hai món giao hiệp phát sanh mà tạo thành thế giới. Cái chỗ ướt mà thấp xuống thì làm biển lớn. Đó là chỗ ở của chúng sanh dưới nước.
               b. Bốn châu địa cầu: Còn cái chỗ khô mà cao lên thì làm doi cồn tức là bốn quả (châu) địa cầu, đó là chỗ ở của chúng sanh trên mặt đất.
               c. Núi: Nếu thế lực của nước thua lửa tức là phần thượng thăng nhiều thì kết lại thành ra núi cao, đó là chỗ ở chúng sanh trên núi.
               d. Rừng: Nếu thế lực của đất thua nước tức là phần tươi nhuận nhiều thì rút lại thành ra cỏ cây, đó là chỗ ở của chúng sanh trong rừng.
3)        Chỗ phát thỉ của chúng sanh ra sao?
           Khi đã có Tứ đại (đất, nước, lửa, gió) và khí giới (núi, biển, cỏ, cây, vàng, đá) tức là các sắc Y báo ở ngoài, rồi các sắc Tứ đại và cái tâm vọng tưởng hai thứ xen lộn nhau biến khởi ra căn thân (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) khi ấy mới có các sắc chánh báo ở trong. Ấy gọi là sắc với tâm hoà hiệp nhau mà ngũ ấm (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) đều đủ trong thân mạng của chúng sanh cả.
               Từ sáu trần vọng hiện ở ngoài, sáu căn vọng lập ở trong, căn trần đối nhau nên cái Tạng thức mới phân khai ra kiến, văn, giác, tri mà khiến cho nghiệp càng ngày càng thêm. Đó là cái chỉ nhơn của bốn loài Noãn, Thai, Thấp, Hoá.
4)        Nghiệp quả của nhơn loại như thế nào?
           Có ba nguyên nhơn:
               a. Tất cả nhơn loại đều bị tình ái buộc ràng không ly nhau đặng, nên trong thế gian cha mẹ con cháu thường nối nhau mà sanh sản hoài. Đó là lấy sự tham dâm dục làm gốc.
               b. Có tham dục tất phải có thân mạng nên nuôi súc vật để bổ dưỡng. Vì vậy nên mới có sự sát hại nhau. Đó là lấy sự tham sát hại làm gốc.
               c. Bởi cái nghiệp sát hại thạnh hành nên người ăn thịt thú, thú chết trở lại làm người, người chết trở lại làm thú, từ một loài cho đến mười loài, tử tử, sanh sanh, vay trả xoay vần cứ ăn lộn nhau mãi. Đó là lấy sự tham trộm cắp làm gốc. Cái nghĩa tham trộm cắp trên đây là nói phàm vật gì chẳng cho mà lấy tức là trộm cắp, như các loài thú nguyên nó không phải đem tánh mạng của nó đưa cho mình sát, vì mình tham ăn thịt mà sát nó nên gọi là trộm cắp.

III. PHẦN TOÁT YẾU
Nguyên nhơn sanh ra thế giới, chúng sanh và nghiệp quả, trước hết phải có Tứ đại làm gốc. Trên giác thể khởi ra vọng minh liền thấy cái thể của ngoan không mờ tối. Rồi cái tối của ngoan không với cái sáng của vọng minh, hai cái đối đãi với nhau mà Tâm phát ra diêu động mới cảm sanh ra gió (phong luân).
Nhơn cái ngoan không mờ tối mà Tâm phát ra diêu động đó, rồi cái vọng giác nhận theo cái sở minh mà kiến chấp luôn mới cảm thành ra chất cứng (vàng, đất, đá) tức là kim luân.
Bởi cái vọng giác kiến chấp cảm thành chất vàng, còn cái vọng minh động niệm cảm thành tướng gió, hai bên chà xát nhau mới sanh ra lửa sáng.
Đã có vàng và có lửa thì phải có nước vì hoả quang xông lên đốt vàng nên cảm sanh ra nước (thuỷ luân) hoà cả mười phương thế giới.
Bốn chỗ ở của chúng sanh cũng đều do nơi đất nước lửa sanh ra cả. Bởi lửa xông lên nước giáng xuống, hai món giao hiệp phát sanh mà tạo thành thế giới. Cái chỗ ướt mà thấp xuống thì làm biển lớn. Đó là chỗ ở của chúng sanh dưới nước. Còn chỗ khô mà cao lên thì làm doi cồn tức là bốn quả (bốn châu) địa cầu. Đó là chỗ ở của chúng sanh trên mặt đất. Nếu thế lực của nước thua lửa tức là phần thượng thăng nhiều thì kết lại thành ra núi cao, đó là chỗ ở của chúng sanh trên núi. Nếu thế lực của đất thua nước tức là phần tươi nhuận nhiều thì rút lại thành ra rừng cây. Đó là chỗ ở của chúng sanh trong rừng.
Chỗ phát thỉ của chúng sanh là khi đã có Tứ đại và khí giới tức là các sắc Y báo ở ngoài, rồi các sắc Tứ đại và Tâm vọng tưởng hai thứ xen lộn nhau biến khởi ra căn thân. Khi ấy mới có các sắc Chánh báo ở trong. Ấy gọi là sắc với Tâm hoà hiệp nhau mà ngũ ấm (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) đều đủ trong thân mạng của chúng sanh cả.
Nghiệp quả của nhơn loại có ba nguyên nhơn dưới đây:
a. Tất cả nhơn loại đều bị tình ái ràng buộc không ly nhau đặng, nên trong thế gian cha mẹ, con cháu thường nối nhau mà sanh sản hoài. Đó là lấy sự tham Dâm dục làm gốc.
b. Có sự tham dục tất phải có thân mạng nên mới nuôi loài súc vật để bổ dưỡng. Vì vậy nên mới có sự sát hại nhau. Đó là lấy sự tham Sát hại làm gốc.
c. Bởi cái nghiệp sát hại thạnh hành nên người ăn thịt thú, thú chết trở lại làm người, người chết trở lại làm thú, từ một loài cho đến mười loài tử tử sanh sanh, vay trả xoay vần cứ ăn lộn nhau mãi. Đó là lấy sự tham trộm cắp làm gốc.
Cái nghĩa tham trộm cắp trên đây là nói phàm vật gì chẳng cho mà lấy tức là trộm cắp. Như các loài thú nguyên nó không phải đem tánh mạng của nó đưa cho mình sát, vì mình tham ăn thịt mà sát nó nên gọi là trộm cắp.
                                                 Nam Mô Long Hoa Thượng Hội Di Lặc Tôn Phật.
                                                 Kính Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.


_____________________________________




BÀI 11

TỨ CÚ KỆ KIM CANG

“Tứ Cú Kệ Kim Cang là nhãn mục của bộ kinh nầy. Tại sao Phật không chỉ ra Tứ Cú Kệ?”
“Đây cũng là một cái ý nghĩa mà cũng là một cái nghi án, chúng ta cần phải giải quyết vì đã hai ngàn rưỡi năm nay rồi, chưa được chính thức thừa nhận. (Trích trong Kim Cang chú giải).”
Theo Nhan Bính tiên sanh thì sở dĩ Phật không chỉ ra Tứ Cú Kệ là vì sợ e người chấp lấy ngón tay làm mặt trăng, luống nệ cố theo câu chết trong kinh mà không hồi quang phản chiếu.
Còn theo kinh Kim Cang chú giải thì sở dĩ Phật không chỉ ra Tứ Cú Kệ chẳng phải sợ người ta chấp về mặt văn tự, vì Phật pháp là bất định pháp. Các bực Thánh còn có vô số trình độ khác nhau, huống hồ là phàm phu, làm sao cùng nhau tỏ thấu một bài kệ? Lấy bài kệ làm cái mức nhứt định để cho vô số người tu hành y theo đó thì cần gì Phật phải bày ra vô lượng pháp môn cho nhọc lòng? Có phải ai ai cũng tỏ ngộ một thứ pháp với nhau đâu? Có phải ai ai cũng đồng tu một thứ lý nghĩa nhất định với nhau đâu mà chỉ quyết ra Tứ Cú Kệ?
Thưa chư quí vị,
Chư Tổ, vị thì chỉ câu nầy là Tứ Cú Kệ, vị lại chỉ câu kia là Tứ Cú Kệ, làm người xem kinh Kim Cang chưa tỏ ngộ phải ngẩn ngơ, ngơ ngẩn. Như vậy chúng ta muốn tầm Tứ Cú Kệ thì ít ra chúng ta phải hiểu rõ:
1. Thế nào là Tứ Cú Kệ Kim Cang hay Tứ Cú Kệ Kim Cang nghĩa là gì?
2. Chỗ giải Tứ Cú Kệ Kim Cang của chư Tổ có đồng nhau không?
3. Phật có chỉ Tứ Cú Kệ Kim Cang ra trong quyển kinh Kim Cang chăng?
Thì chúng ta thấy Tứ Cú Kệ hiện ra ra rõ ràng, trong sáng như ánh thái dương trước mắt ta.
Để giải đáp câu thứ nhứt, chúng tôi xin lần lượt trích y nguyên văn những lời giải Tứ Cú Kệ của chư Tổ và vạch rõ ra tới đích của những lời giải ấy.
Trong kinh Kim Cang chư gia, ông Nhan Bính có nói như vầy:
Bởi trì kinh mà ngộ tánh, Tứ Cú Kệ hiện ra ở trước, đồng như chốn Thái hư, lịch kiếp chẳng hề hoại. Kinh Tứ Cú Quyết Nghi Kim Cang là cốt tuỷ của Đại Tạng kinh, còn Tứ Cú Kệ là cốt tuỷ của kinh Kim Cang. Bằng người thọ trì kinh nầy mà không rõ thấu Tứ Cú Kệ ở chỗ nào thì đâu có thoát khỏi vòng sanh tử mà làm Phật, làm Tổ đặng.
Tứ Cú Kệ là nhãn mục của bộ kinh nầy, tuy chú giải đã mấy trăm tay, nhưng chưa có ai chỉ rõ chỗ căn cước đặng. Phần nhiều không chịu hiểu Tứ Cú Kệ của mình, chỉ bo bo tìm tòi trong kinh sách, dầu cho tìm đặng nữa, cũng là câu chết trong kinh, chớ đâu phải là câu sống. Còn sống là bây giờ mới phải. Tuy vậy cũng phải bổn thân thấy biết mới đặng. Kinh Phật nhãn có nói: Ngàn lời muôn tiếng, chẳng bằng tự mình gặp mặt. Dầu không nói cũng phân minh, cần phải tự mình xét lấy, quyết chẳng nên cỡi trâu mà tìm trâu.
Chiếu theo những lời giải của ông Nhan Bính trên đây thì Tứ Cú Kệ là Chơn Tánh đồng như chốn Thái hư, lịch kiếp chẳng hề hoại.
Trong Đồng Bài Ký có nói: Thiên Thân Bồ-tát lên cung Đâu Suất hỏi Đức Di Lặc thế nào là Tứ Cú Kệ? Đáp: Vô ngã, Vô nhơn, Vô chúng sanh, Vô thọ giả. Mà Đức Lục Tổ Huệ Năng giải, có bốn tướng là chúng sanh, không bốn tướng là Phật. Kinh Viên Giác có nói: Chưa trừ dứt bốn tướng chẳng đặng quả  Bồ-đề, thì cũng y như Đức Lục Tổ Huệ Năng đã giải. Phải biết chữ Phật hay  Bồ-đề đây là chỉ cái không tướng của Chơn không, tức là cái Tâm Chơn-như hay là Phật tánh sẵn có. Không bốn tướng tức là ám chỉ cái sự chơn thiệt của các pháp hữu vi tức là sự không hình tướng của Chơn Phật.
Đức Lục Tổ đại sư nói: Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật-đa là Tứ Cú Kệ. Như vậy Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật-đa là chỉ cái bản thể thanh tịnh rộng lớn, vô bờ vô bến, rốt ráo sáng suốt, tức là Phật tánh cũng tức là cái Bản thể của vạn hữu.
Ông Phó Đại Sĩ lại lộ cái tiêu tức rất nên thân thiết như vầy: Luận về Tứ Cú Kệ thì khăn khắn chẳng nên rời. Lấy đó mà suy thì Tứ Cú Kệ vốn chẳng phải là cầu ở ngoài, chỉ tại tâm địa tỏ sáng mới thiệt là Tứ Cú Kệ. Bằng chẳng phải vậy Lục Tổ lại giải Tứ Cú Kệ là: Ngã, Nhơn chóng dứt, vọng tưởng mau trừ, dứt lời liền thành Phật. Ví bằng kệ ấy mà truyền miệng đặng, chỉ dạy đặng, dùng thông minh mà suy nghĩ đặng, thì Phật ta là Thầy cõi Nhơn Thiên, ở thế 49 năm thuyết pháp cho cả chúng sanh đến 350 độ, còn trong kinh nầy đến 14 chỗ nói Tứ Cú Kệ, sao lại không chỉ bảo cho rõ ràng đoan đích. Có phải Phật ta tiếc chi mấy lời mà không chịu nói đâu. Cũng bởi e cho người chấp lấy ngón tay làm mặt trăng, luống nệ cố theo câu chết trong kinh mà không lo hồi quang phản chiếu câu sống của mình. Đã bảo nương theo ngón tay để nhận mặt trăng, mà lại không chịu lìa ngón tay để thấy mặt trăng, lại nhận ngón tay là mặt trăng, có phải là một sự sai lầm chăng? Cái lầm thứ nhứt là chẳng biết mặt trăng là gì, còn cái lầm thứ nhì nói ngón tay là mặt trăng, lại chẳng biết ngón tay là gì nữa.
Tối thượng thừa chẳng ở địa vị của Phật, chẳng trọng mình có linh tánh cao siêu khỏi thập địa (10 nhân địa của Bồ-tát), tỏ ngộ cái Đại pháp, ấy là người ở trên chót cây trụ trăm thước lại bước lên thêm một bước nữa, đó mới là hạng người đã lìa được ngón tay để nhận được mặt trăng. Vì vậy mà ông Trường Sa có bài tụng rằng:
Đầu cây trăm thước đứng trân trân
Tuy ngộ nhưng chưa đúng lý chân
Trên chót bước lên trên một chút
Mười phương thế giới hiện toàn thân.
Vả lại Phật ta còn không dám chấp trước mà chỉ dạy thay, huống chi là ai. Ta sở dĩ nói câu sống đây là: Sanh tử thoát ngoài vòng, Thánh phàm đứng dưới gió, nghĩa là: ngộ đặng cái lý rốt ráo, thấu đặng cái bản thể Chơn-như thì chẳng còn sợ sự sanh tử, hết hay chứng Niết bàn, Phàm Thánh là đối đãi, lìa cả Thánh Phàm mới chẳng chỗ chấp, chẳng chỗ trụ. Trong chỗ nhựt dụng thường hành, chữ chữ phóng quang, đầu đầu hiện rõ, vốn không một điểm bút mực nào mà ố đặng. Dầu kẻ có tài nghe rồi liền hiểu cũng phải ngẩn ngơ, huống chi những hạng kiến thức hẹp hòi mà phân biệt phải quấy cho đặng. Duy có độ lượng hơn người mới biết đặng cái lỗ mũi vốn là ở trước mắt.
Như vậy thì ông Phó Đại Sĩ cũng nhìn nhận Tứ Cú Kệ là cái Tâm Chơn-như sáng suốt đó.
Ông Trần Hùng giải:
Kinh Tam-muội có nói: Cả thảy Phật pháp đều thâu lại ở trong Tứ Cú Kệ. Cho nên ngộ đặng cũng không phải tại học chữ nghĩa cho nhiều, chỉ trong nhứt niệm mà tỏ ngộ thiệt đế (1) thì mới thông thấu thiên tánh đặng.
Bằng có người sốt sắng tu hành, để lòng thì khăn khắn(2) giữ lâu không nản, còn nói ra thì ai nấy cũng đều thông. Người như vậy chẳng phải là giác tánh riêng cho một mình mà thôi, mà cũng giác tánh cho cả muôn triệu người nữa.
Chiếu theo lời giải của ông Trần Hùng, Tứ Cú Kệ là Thiên tánh, thì Thiên tánh tức là Chơn tâm, Tâm với Tánh đâu khác nhau.
Vua Huyền Tông giải:
Tam thiên trân bảo tuy nhiều, hưởng hết phải mang sanh diệt. Tứ Cú kinh văn vẫn ít, tỏ rồi chứng quả Bồ-đề. Như thế há chẳng phải kiến tánh thành Phật sao?
Ông Xuyên Thiền sư giải:
Đi đứng nằm ngồi
Hơn thua phải quấy
Lúc giận khi mừng
Không rời cái ấy.
Thế thì ông Xuyên Thiền sư giải Tứ Cú Kệ cũng là chỉ cái ấy, cái mà không thể kêu ra được, tức là cái mà ông Duy Ma Cật nín thinh để đáp lại câu hỏi pháp môn không hai(3) của Đức Văn Thù Sư Lợi vậy.
Ông Vương Nhựt Hưu giải:
Trong kinh thường nói Tứ Cú Kệ, bốn câu trước thì nói về sự không hình tướng của Chơn Phật, bốn câu sau lại nói về sự chơn thiệt của các pháp hữu vi. Không luận phải kệ hay không phải kệ, trong hai lẽ ấy mà hiểu đặng một thì chẳng phải dở đâu.
Kinh Kim Cang chú giải nhìn nhận câu: “Không chấp tướng, như như chẳng động” là Tứ Cú Kệ Kim Cang. Kinh ấy nhận thức rằng:
Trong Kim Cang trước sau 14 lần nói Tứ Cú Kệ đều có câu “giữ theo kinh nầy cho đến bài kệ bốn câu mà ghi nhớ đọc tụng, rồi diễn giảng cho người khác nghe.” Mười ba lần bảo ghi nhớ đọc tụng, vì người mà giảng thuyết, nhưng không nói thế nào là ghi nhớ, thế nào là đọc tụng và thế nào là vì người mà diễn thuyết. Phần chót nầy là lần thứ 14 nói Tứ Cú Kệ, đột nhiên Phật lại thốt ra một câu hỏi, rồi Phật tự trả lời lấy, giải quyết lấy câu hỏi ấy, để cho người học Kim Cang biết cách thức thọ trì đọc tụng và vì người mà giảng thuyết. Thế là lần chót kết thúc quyển kinh, Phật mới chịu bày tỏ cái bí quyết thọ trì đọc tụng và vì người diễn thuyết. Cái bí quyết được Phật mở ra do Phật hỏi: “Thế nào gọi là vì người mà diễn thuyết?” Rồi tự Phật trả lời: “Không chấp tướng, như như chẳng động.”
Chúng tôi xin phân câu trả lời ấy ra làm hai đoạn để giải. Thứ nhứt: Không chấp tướng, thứ nhì: Như như chẳng động, mà chúng tôi xin sơ lược giải đại khái như sau đây:
Không chấp tướng: nội trong ba tiếng nầy cũng thấy trùm luôn bốn tướng mà đức Di Lặc cho là Tứ Cú Kệ rồi. Không chấp tướng tức là không tướng ta, tướng người, tướng chúng sanh, tướng thọ giả.
Như như chẳng động: là tỏ cái lý  Bồ-đề Diệu minh Chơn tâm bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Như như chẳng động dứt đường ngôn ngữ, bặt chỗ nghĩ lường, chẳng dùng thức mà biết đặng, chẳng dùng trí mà rõ được, chẳng qua chẳng lại, chẳng tới chẳng lui, chẳng trên chẳng dưới, chẳng có màu sắc tiếng tăm, rỗng rang, vắng lặng, thường tịch mà quang chiếu, quang chiếu mà thường tịch, có đủ đức tánh tịnh Niết-bàn của chư Phật, gồm ba đức Pháp thân, Bát-nhã, Giải thoát.
Thế thì Tứ Cú Kệ Kim Cang cũng là cái  Bồ-đề Diệu minh Chơn tâm bất sanh, bất diệt, chớ chẳng có chi khác.
Thưa quí vị, trên đây chúng tôi trình bày nhiều lời giải về Tứ Cú Kệ của chư Tổ. Chúng tôi xin tổng hợp những lời giải ấy dưới đây để đáp lại câu hỏi thứ nhứt.
Ông Nhan Bính giải Tứ Cú Kệ là Chơn tánh; Đức Di Lặc cho là không bốn tướng, tức là chỉ cái không tướng của Chơn không hay Chơn tâm; Đức Lục Tổ Huệ Năng giải là Phật tánh rộng lớn, sáng suốt; Ông Phó Đại Sĩ nói Tứ Cú Kệ là cái Tâm địa tỏ sáng; Ông Trần Hùng giải Tứ Cú Kệ là Chơn tánh; Vua Huyền Tông giải là Bồ-đề. Ông Xuyên Thiền sư giải Tứ Cú Kệ là cái ấy tức là chỗ không thể kêu gọi là gì được; ông Vương Nhựt Hưu giải là Chơn Phật hay thiệt tướng của các pháp hữu vi; kinh Kim Cang chú giải nhìn nhận câu: chẳng chấp tướng, như như bất động tức là cái Diệu minh Chơn tâm, v.v…
Chiếu theo những lời giải nầy thì câu hỏi: Thế nào là Tứ Cú Kệ Kim Cang hay Tứ Cú Kệ Kim Cang nghĩa là gì? thì chúng tôi xin giải đáp rằng Tứ Cú Kệ Kim Cang là những bài kệ bốn câu trong kinh Kim Cang để chỉ Chơn tánh, Chơn tâm hay là cái Tâm Chơn-như, Phật tánh v.v… Còn theo ông Vương Nhựt Hưu thì nói rằng: Không luận phải kệ hay không phải kệ, phàm diễn thuyết điều chi cũng đều là kệ cả, thì trong một tiếng, một câu, một lời nói mà thấu triệt được Chơn tánh, đều cũng gọi là kệ cả, vì kệ là một sự nói rốt yếu lý.
Vì vậy mà chúng ta thấy Đức Di Lặc nói Tứ Cú Kệ là vô nhơn, vô ngã, vô chúng sanh, vô thọ giả; Đức Lục Tổ Huệ Năng nói Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật-đa là Tứ Cú Kệ; Ông Phó Đại Sĩ nói Tứ Cú Kệ là khăn khắn chẳng nên rời v.v… Những lời giải đây, đâu phải là bài kệ bốn câu, nhưng cũng để chỉ cái Tâm Chơn-như, Phật tánh của mình, như mấy bài kệ bốn câu trong kinh Kim Cang. Thế thì chúng ta chẳng nên chấp bốn câu hay nhiều câu hay ít câu, miễn những lời nói đó chỉ rõ được cái Chơn tánh thì đều là Kệ cả.
Chiếu theo lời giải Tứ Cú Kệ Kim Cang thì câu hỏi thứ nhì “Chỗ giải Tứ Cú Kệ Kim Cang của chư Tổ có đồng nhau không?” Thì chúng tôi xin lễ phép đáp lại rằng: Chư Tổ giải Tứ Cú Kệ cũng đồng chỉ cái Tâm Chơn-như ấy. Thế thì sự ngộ và giải của chư Tổ đều đồng ý kiến với nhau. Nhưng nên chú ý là có vị thì dùng câu nầy ám chỉ bài kệ đầu:
          Nhược dĩ sắc kiến Ngã
          Dĩ âm thanh cầu Ngã
          Thị nhơn hành tà đạo
          Bất năng kiến Như Lai.
Có vị lại dùng câu khác để ám chỉ bài kệ sau:
          Nhứt thiết hữu vi pháp
          Như mộng huyễn bào ảnh
          Như lộ diệc như điện
          Ưng tác như thị quán.
Chỉ có Đức Thế Tôn dùng câu “Chẳng chấp tướng như như chẳng động” thì chỉ trùm cả hai bài kệ, vì như như chẳng động là chỉ bài kệ trước, còn chẳng chấp tướng thì chỉ bài kệ sau.
Để giải câu hỏi thứ ba: Phật có chỉ Tứ Cú Kệ Kim Cang trong quyển kinh Kim Cang chăng?
Chúng tôi xin thưa: Sở dĩ Phật thuyết kinh Kim Cang là để phá tướng đặng ngộ tánh, tức là để cho chúng ta tỏ ngộ cái Tâm Chơn-như gọi là Kiến tánh thành Phật, mà Tứ Cú Kệ cũng để chỉ cái Bổn Tâm ấy. Trong quyển Kim Cang biết bao là câu, là kệ để cho mình ngộ Chơn tánh thì sự ấy chứng minh rằng Phật đã mượn lời nói để chỉ Tứ Cú Kệ cho mình, nhưng tại mình căn trí còn kém thấp nên ngộ chẳng nổi.
Cũng như Phật dùng ngón tay để chỉ mặt trăng cho mình mà mình chẳng biết rời ngón tay để nhìn mặt trăng, lại cứ bo bo bám vào ngón tay của Phật hoài, hỏi sao thấy Tánh được.
Phật có chỉ Tứ Cú Kệ cũng như không có chỉ, bởi chí lý thì bặt đường ngôn ngữ, vì Chơn không không có tướng, thảy đều vắng lặng, Chơn tâm là vô hình, vô ảnh, làm sao mà chỉ?
Những danh từ Chơn tâm, Chơn tánh, Thiệt tướng, Chơn-như, Bất động, Pháp thân, Niết-bàn, Chơn thể, Thanh tịnh, Bổn lai diện mục, v.v… đều là cưỡng danh để gọi cái Tâm ấy thôi, cho tới cái Tâm cũng là cưỡng danh nữa. Thế thì không còn dùng văn tự ngôn ngữ được nữa. Ông Duy Ma Cật cũng phải đành nín thinh để ám chỉ cái Bổn tâm ấy, cho tới Đức Thế Tôn cũng phải cưỡng danh mượn lời nói để làm phương tiện chỉ dạy cho chúng sanh đó thôi. Vậy nên hễ ngộ thì như đi trong đêm tối mà có được ngọn đèn sáng chiếu trước mắt. Bằng không ngộ thì mờ mờ mịt mịt như bị một màn hắc ám bao phủ, trời đất đều tối tăm, mặc cho chúng sanh lăn lộn trong ba đường sáu nẻo.
Hỡi ơi! Khổ thay! Khổ thay! Thương thay! Thương thay! Sanh tử luân hồi hay giải thoát cũng đều do lẽ đó. Bởi thế nên Đức Giáo Chủ Minh Trí thường dạy câu: Vãng lai do vọng nghiệp, Diệu giác thị Bồ-đề. Phật tánh Chơn tâm ai ai cũng sẵn có, bằng vẹt được màn vô minh thì nó hiện ra ở trước mắt đồng như chốn Thái hư chẳng hề hư hoại, cũng như mây vẹt, trăng liền tỏ rạng. Sở dĩ chúng sanh tu học mà không được siêu thoát cũng do nơi chỉ chấp theo văn tự chữ nghĩa mà không cầu đại ngộ. Vậy nên không cần thuộc 12 bộ kinh như Thiện Tinh tỳ kheo, hay ông A-nan, mà chỉ cần Tâm địa tỏ sáng mới thiệt là Tứ Cú Kệ Kim Cang.
Cũng vì cái Chơn tánh nầy mà Đức Thế Tôn 49 năm hết sức nhọc nhằn thuyết pháp. Nối tiếp theo Ngài, chư Bồ-tát, chư Tổ sư không kém phần lao khổ chỉ vạch cho chúng sanh biết bao nhiêu phương tiện để tự tỏ ngộ, tu chứng cho tới cái lý rốt ráo, chỗ khó khăn là nơi đầu cây trăm thước, bước thêm lên một bước thì mười phương thế giới mới hiện toàn thân. Vì vậy mới nói Phật chỉ Tứ Cú Kệ mà cũng như không có chỉ chi hết.
Trước khi dứt lời, kẻ sơ sanh hậu học nầy có đôi lời trần tố cùng các bạn Đạo tâm để lạy cầu chư Phật ra tay chỉ dùm cái mặt mày nguyên lai sẵn có từ hồi vô thỉ, kẻo bấy lâu xa lìa mẹ cha như người cùng tử ăn xin nơi xứ lạ quê người, biết chừng nào mới về được quê hương yêu quí.

I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1)    Thiệt đế: Thiệt là chơn thiệt, không giả, không hư dối, đế là chơn lý. Thiệt đế nghĩa là Đạo lý chân thật, Chơn lý rốt ráo, chỉ Phật tánh hay linh giác của mình (bản giác).
(2)    Khăn khắn: Một mực, không chịu thay đổi.
(3)    Pháp môn không hai: là pháp môn bất nhị. Không hai là không còn hai tướng, hai pháp đối đãi nữa, như không còn có đối với không, tà đối với chánh, Phật đối với chúng sanh.

II. PHẦN VẤN ĐÁP
1)   Tứ Cú Kệ Kim Cang nghĩa là gì?
      Là bài kệ bốn câu trong kinh Kim Cang chỉ rõ Chơn tánh, hễ ai ngộ được thì thành Phật thành Tổ.
2)     Các chư Tổ và Phật giải Tứ Cú Kệ ra sao? Có đồng một ý kiến như nhau hay không?
        Ông Nhan Bính giải Tứ Cú Kệ là Chơn tánh,
            Đức Di Lặc cho là Không bốn tướng (vô ngã, vô nhơn, vô chúng sanh, vô thọ giả).
            Đức Lục Tổ Huệ Năng giải là Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật-đa (Phật tánh rộng lớn tròn sáng).
            Ông Phó Đại Sĩ nói Tứ Cú Kệ là cái tâm địa tỏ sáng.
            Ông Trần Hùng giải Tứ Cú Kệ là Chơn tánh.
            Vua Huyền Tông giải Tứ Cú Kệ là Bồ-đề.
            Ông Xuyên Thiền sư giải Tứ Cú Kệ là cái ấy là chỗ không thể kêu gọi được.
            Ông Vương Nhựt Hưu giải là Chơn Phật.
            Đức Phật nói câu Chẳng chấp tướng, như như bất động.
            Nhận thấy Chư Tổ và Đức Thế Tôn giải Tứ Cú Kệ đều như nhau, tức là chỉ Tâm như như bất động hay Chơn tánh hay Giác tánh hay Chơn tâm Phật tánh, v.v…
3)     Đức Phật và chư Tổ giải Tứ Cú Kệ như nhau, chỉ rõ Tứ Cú Kệ là Chơn tâm, Chơn tánh, là Phật tánh, là cái Tâm Bồ-đề sao mình hiểu rồi mà không làm Phật được?
        Ví như mình có hiểu được đi nữa thì mới thuộc về văn tự Bát-nhã chớ chưa phải thực chứng chỗ minh tâm kiến tánh, thì làm sao làm Phật được, tức là mình chưa được hoàn toàn giải thoát. Chừng nào mình được thấy tánh (Kiến tánh) thực sự, phiền não vọng tưởng tiêu trừ sạch thì cần gì phải tu tới vô lượng kiếp.

III. PHẦN TOÁT YẾU
Tứ Cú Kệ Kim Cang là bài kệ bốn câu trong kinh Kim Cang, chỉ rõ Chơn tâm, Chơn tánh Phật của mình. Nếu ai tỏ ngộ được thì minh tâm kiến tánh làm Phật làm Tổ.
Các vị Tổ sư tuy giải Tứ Cú Kệ Kim Cang bằng nhiều lối, nhiều cách, nhưng không ngoài sự chỉ Bổn tâm, Bổn tánh Phật của mình. Hễ ngộ được thì làm Phật, bằng không ngộ được thì làm chúng sanh. Siêu với Đoạ chỉ do lẽ đó mà thôi.

PHẦN THẢO LUẬN
1. Ông Phó Đại Sĩ giải Tứ Cú Kệ có câu nói: Duy có độ lượng hơn người mới biết đặng cái lỗ mũi vốn là ở trước mắt, nghĩa là sao?
2. Ông Vương Nhựt Hưu nói: Trong kinh thường nói Tứ Cú Kệ, bốn câu trước thì nói về sự không hình tướng của Chơn Phật, bốn câu sau lại nói về sự chơn thiệt của các pháp hữu vi. Không luận phải kệ hay không phải kệ, trong hai lẽ ấy mà hiểu đặng một thì chẳng phải dở đâu.
Xin thảo luận về đoạn kinh nầy:
“Bốn câu trước thì nói về sự không hình tướng của Chơn Phật.”
Vậy bốn câu trước nầy là bốn câu nào?
“Bốn câu sau lại nói về sự Chơn thiệt của các pháp hữu vi.”
Vậy bốn câu sau nầy là bốn câu nào?
3. Không luận phải kệ hay không phải kệ, trong hai lẽ ấy mà hiểu đặng một thì chẳng phải dở đâu.
Xin hỏi: Trong hai lẽ ấy là hai lẽ nào? Tại sao trong hai lẽ nầy mà hiểu đặng một thì chẳng phải dở?
4. Trong kinh Kim Cang Đức Phật nói Tứ Cú Kệ tức là bài kệ bốn câu, sao chư Tổ giải Tứ Cú Kệ, vị thì chỉ câu nầy, vị lại chỉ câu khác, chẳng có bài kệ nào bốn câu cả, dù là ý nghĩa giảng cũng đồng với nhau, còn ông Vương Nhựt Hưu lại nói tới hai bài Tứ Cú Kệ?
5. Ông Nhan Bính nói: Ngàn lời muôn tiếng chẳng bằng tự mình gặp mặt nghĩa là gì?
6. Ông Phó Đại Sĩ nói: Luận về Tứ Cú Kệ khăn khắn chẳng nên rời là gì?
                                                 Nam Mô Long Hoa Thượng Hội Di Lặc Tôn Phật.
                                                 Kính Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.

_____________________________________



BÀI 12

KIẾN TÁNH THÀNH PHẬT

Trong bài giảng Tứ Cú Kệ Kim Cang, ông Nhan Bính nói rằng: Bằng người thọ trì kinh nầy mà không rõ thấu Tứ Cú Kệ ở chỗ nào thì đâu có thoát khỏi vòng sanh tử mà làm Phật, làm Tổ được. Bởi trì kinh mà Ngộ tánh, Tứ Cú Kệ liền hiện ra ở trước mắt, đồng như chốn Thái hư, lịch kiếp chẳng hề hoại. Thế thì ngộ Tứ Cú Kệ tức là Kiến tánh thành Phật, nhưng chúng ta còn đang trong vòng tu học, chưa Minh tâm Kiến tánh, biết làm cách nào mà Ngộ tánh được, nên mới có bài số 12 nói tiếp theo luôn về đề tài Kiến Tánh thành Phật.
Trong Pháp Bảo Đàn Kinh có nói như vầy: “Bất tri Bổn tâm, bất thức Bổn tánh, học pháp vô ích; nhược tri tự Bổn tâm, kiến tự Bổn tánh tức là Thiên Nhơn sư, tức là Phật,” vì tu học pháp Phật mà không được giải thoát, vẫn trôi lăn trong đường sanh tử luân hồi như chúng sanh không tu thì có ích lợi gì đâu?
Trong Huyết Mạch Luận, cửa thứ sáu trong sáu cửa vào động Thiếu Thất của Tổ Bồ-đề Đạt-ma có dạy rằng:
Nếu muốn tìm Phật hãy cần thấy tánh. Tánh tức là Phật. Nếu chẳng thấy Tánh thì chay lạt, giữ giới đều vô ích cả.
  Niệm Phật thì đặng nhân tốt
  Tụng kinh thì được thông minh
  Giữ giới thì được lên cõi Trời
  Bố thí thì được phước báo.
Nhưng tìm Phật bằng những cách ấy quyết chẳng đặng vậy. Nếu chẳng được như vậy thì phỏng có giảng nói được 12 bộ kinh, vẫn không tránh khỏi vòng sanh tử, vẫn chịu khổ trong ba cõi không hẹn ngày ra.
Nếu không thấu rõ được tự Tâm thì tụng đọc kinh sách gì cũng chỉ là hư văn, không dùng vào đâu được hết. Xưa có tỳ khưu Thiện Tinh tụng làu làu 12 bộ kinh, nhưng vẫn không thoát khỏi sanh tử luân hồi, ấy chỉ vì không thấy Tánh. Nếu cốt tìm Phật, trực tiếp cần thấy Tánh. Tánh tức là Phật. Phật trước, Phật sau đều lấy Tâm truyền qua Tâm chẳng lập văn tự.
Hỏi: Nếu chẳng lập văn tự thì lấy gì làm Tâm?
Đáp: Ngươi hỏi Ta tức đó là Tâm ngươi. Ta đáp ngươi tức đó là Tâm ta. Nếu Ta không Tâm, nhân đâu mà giải đáp cho ngươi. Nếu ngươi không Tâm, nhân đâu mà thừa hỏi Ta? Hỏi Ta tức là Tâm ngươi đó.
Ca Diếp chính là người ngộ được Bổn tánh ấy. Bổn tánh tức là Tâm, Tâm tức là Tánh, tức chung đồng với chư Phật.
Phật trước, Phật sau chỉ truyền Tâm ấy. Trừ Tâm ấy ra không Phật nào có thể được.
Hỏi: Nếu trong bất cứ lúc nào, bất cứ hành động cử chỉ nào cũng đều là tự Tâm cả, sao trong khi mang sắc thân vô thường nầy, tôi không thấy được Bổn Tâm?
Đáp: Bổn Tâm luôn ở trước mắt, tại ngươi không chịu thấy, chớ không phải không có Bổn Tâm.
Hỏi: Tâm ở trước mắt sao tôi không thấy?
Tổ Sư hỏi lại: Ngươi có thường nằm mộng chứ?
Khách đáp: Thường nằm mộng.
Hỏi: Trong khi ngươi nằm mộng thì đó là bổn thân ngươi chứ?
Đáp: Đúng là bổn thân tôi.
Hỏi: Lời nói và việc làm của ngươi trong lúc ấy có khác hay chẳng khác với chính ngươi?
Đáp: Chẳng khác.
Tổ Sư nói: Nếu đã chẳng khác thì thân ấy tức là Pháp thân ngươi, Pháp thân ấy tức là Bổn Tâm ngươi đó. Tâm ấy vi diệu khó thấy. Tâm ấy chẳng giống sắc Tâm.
Chính từ trong ánh sáng của Tâm ấy ứng dụng lên tất cả hành động, tay đưa, chơn bước. Mới hay lẽ khó lường ấy chỉ mình Phật mới hiểu nổi, ngoài ra tất cả người, Trời và các loại chúng sanh đều không sáng tỏ được.

PHỤ GIẢI ĐOẠN KINH TRÊN
Muốn đáp câu hỏi: Tâm ở trước mắt sao tôi không thấy? Tổ sư lại bỏ thân ngũ ấm, tứ đại phiền não, mượn cảnh nằm mộng mà chỉ Pháp thân tức là Bổn Tâm của ta.
— Sao lại mượn giấc mộng để giải đáp?
— Vì trong lúc ngủ, ý thức (thức thứ 6) không còn tự hoạt động được nữa, thân tứ đại như thân đã chết rồi, nhưng đâu phải hết. Các chủng tử thiện ác của chúng ta gây tạo ra vẫn hoạt động như thường, nên mới thường có các cuộc nằm mộng. Chủng tử ấy tồn tại ở nơi đâu? Lẽ cố nhiên phải có chỗ chứa. Chỗ đó gọi là thức thứ tám, A-lại-da thức, Thức tinh.
Thức tinh nầy gốc đã sẵn có cái Thể nguyên minh, nhưng vì Thể nguyên minh chẳng giữ tự tánh, tuỳ theo duyên mà sanh ra các thứ vọng tưởng, rồi chúng sanh nhận lầm cái vọng tưởng ấy làm tự tánh mà trở đem cái thể nguyên minh thanh tịnh bỏ đi. Vì bởi đem cái Thể nguyên minh thanh tịnh bỏ đi nên tuy hằng ngày làm luôn (dùng luôn) mà chẳng tự biết đặng cái thể Bổn minh tự tánh, đến nỗi lăn lộn vào các thú mà thọ nghiệp sanh tử luân chuyển luôn.
Thể nguyên minh nầy là Bổn Tâm của ta, Bổn Tánh chơn thiệt của ta. Diệu dụng của tánh mầu nhiệm khó suy lường, khó hiểu biết, chúng sanh mê muội không thể tự sáng tỏ được, chỉ mình Phật mới hiểu nổi, ngoài ra tất cả Trời, người và các loại chúng sanh đều không tỏ ngộ được. Chính vì tánh ấy ứng dụng lên tất cả hành động như tay đưa, chơn bước, tánh là thọ dụng của Tâm ta, sao ta lại không chịu biết, mà cứ mãi tìm Phật ngoài lòng. Nên kinh nói: Tâm ấy vi diệu khó thấy, chẳng giống sắc tâm, vô số kiếp đến nay vẫn y như hiện giờ chẳng sai khác, chưa từng có sống chết, chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng thêm, chẳng bớt, chẳng sạch, chẳng dơ, không tướng nam nữ cũng không Thánh phàm, cũng không Phật không chúng sanh, cũng không tướng mạo, giống như hư không, nắm chẳng được, bỏ chẳng được, núi sông, tường đá không ngăn nổi, ẩn hiện, lại qua, thần thông tự tại v.v…
Sức chứa rộng lớn của Tâm ứng dụng không cùng, ứng vào mắt thì thấy màu, ứng vào tai thì nghe tiếng, ứng vào mũi thì ngửi mùi, ứng vào lưỡi thì biết vị, cho nên bất cứ cử động nào cũng là tự Tâm cả.
Phật là giác tánh, tức là tánh linh giác của mình. Tỏ ngộ được tánh linh giác của mình tức là Kiến tánh, tức là Phật.
    Tánh tức là Tâm
    Tâm tức là Phật
    Phật tức là Đạo
    Đạo tức là Thiền.
Chỉ một chữ Thiền, Thánh và phàm chẳng suy lường nổi. Thấy thẳng tánh mình thì gọi là Thiền. Nếu chẳng thấy Tánh mình, tức không phải Thiền vậy. Nếu thấy Tâm mình là Phật thì không cần cắt tóc, cạo râu, hàng áo trắng vẫn là Phật. Nếu không thấy Tánh, cắt tóc cạo râu vẫn là ngoại đạo.
Trời Tây 28 Tổ sư Thiền đều lần lượt truyền Tâm ấn cho nhau, Ta đến xứ nầy cũng chỉ truyền một Tâm ấy, không luận về giới-thí, tinh tiến, khổ hạnh, cả đến việc vào nước lửa, lên vòng gươm, chay lạt ngày một lần, ngồi hoài chẳng nằm, thảy thảy chỉ là pháp hữu vi của ngoại đạo.
Vì ý thức được tánh linh giác của chính mình trong mọi cử động hành vi tức ý thức được Tâm Phật.
Phật trước, Phật sau chỉ nói pháp truyền Tâm, ngoài ra không pháp nào khác. Nếu thấu rõ pháp ấy thì phàm phu ngu dốt không biết được một chữ cũng vẫn là Phật.
Nếu không rõ tánh linh giác của chính mình, thì dầu đem thân này nghiền nát ra thành vô số bụi bặm để cầu tìm Phật, rốt cuộc vẫn chẳng được vậy. Phật ấy cũng gọi là Pháp thân, cũng gọi là Bổn Tâm.
Tâm ấy không có hình tướng, tợ như hư không. Tâm ấy không lìa ngoài cái sắc thân tứ đại. Nếu lìa tâm ấy, tức không còn vận động gì được, vì đó là thân vô tri khác gì cây cỏ, ngói gạch.

KỆ ĐÊM NGỒI TỊNH
Canh một:   Đoan trang canh một tịnh ngồi tu
                    Tịch chiếu(1) tinh thần tợ Thái hư
                    Muôn kiếp vốn không sanh với diệt
                    Học đòi sanh diệt, diệt gì ư?
                    Gẫm xem các pháp trò ma ảo
                    Tánh vốn là không uổng sức trừ
                    Ví biết tâm mình không tướng mạo
                    Lặng im chẳng động tự Như như.

Canh hai:    Canh hai ngưng thần chuyển minh tịnh
                    Chẳng tưởng chẳng nhớ chơn-như tính
                    Um tùm muôn tượng trở về không
                    Chấp có chấp không lại vẫn bịnh
                    Các pháp như nhiên chẳng có không
                    Phàm phu tưởng quấy bàn tà chánh
                    Ví biết gìn lòng lẽ chẳng hai(2)
                    Ai nói tức phàm chẳng phải Thánh.

Canh ba:     Canh ba Tâm tịnh sánh hư không
                    Rộng khắp mười phương đâu chẳng thông
                    Tường vách núi sông không cản ngại
                    Bao la vũ trụ tự nơi trong
                    Tánh của càn khôn là Phật tánh
                    Cũng không bổn tánh tức hàm dung(3)
                    Nào phải riêng đâu chư Phật được
                    Hữu tình muôn loại vẫn chung đồng.

Canh tư:      Canh tư không diệt cũng không sanh
                    Rộng ví hư không pháp giới bình
                    Không qua không lại không còn mất
                    Chẳng có chẳng không chẳng ám minh
                    Không vọng thấy gì: Như Lai thấy
                    Không gọi được danh: chân Phật danh
                    Ai có ngộ qua rồi mới hiểu
                    Chúng sanh chưa rõ bởi thong manh.(4)

Canh năm:  Canh năm Bát-nhã chiếu vô biên
                    Chẳng khởi một niệm trải Tam thiên
                    Muốn thấy chơn như Tánh Bình đẳng
                    Khéo chớ sanh tâm: trước mắt liền
                    Lẽ ấy diệu huyền không lượng được
                    Dụng công đuổi bắt thêm nhọc sức
                    Nếu không một niệm tức Chơn cầu
                    Còn có tâm cầu chưa tỉnh thức.

I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1)    Tịch chiếu: lặng là tịch, chiếu là soi. Tịch chiếu là lặng mà soi cũng gọi là sự chiếu sáng của bổn tâm tịch tĩnh. Cái thể của Chơn lý kêu là Tịch, cái dụng của Chơn trí gọi là Chiếu.
(2)    Lẽ chẳng hai: nghĩa của pháp môn bất nhị. (Xin xem lại bài 11).
(3)    Hàm dung: Hàm là ngậm chứa, bao gồm, dung là hoà lẫn dung thông. Ý nói Phật tánh là tánh của Càn không bao trùm vũ trụ vạn vật, chẳng phải riêng chư Phật có mà hữu tình muôn loại vốn chung đồng một tánh nầy.
(4)    Thong manh: là chứng mắt mù, tuy đôi mắt còn y nguyên, vẫn mở như người thường nhưng lại không thấy. Ý nói chúng sanh chưa ngộ nên chưa thấy đặng chỗ không tướng của Phật tánh của mình, chẳng khác chi người mù tuy mắt có đó mà không thấy được.

II. PHẦN VẤN ĐÁP
1)       Thấy Tánh thành Phật nghĩa là gì?
          Là thấy được bổn tâm, bổn tánh Chơn-như của mình vốn là không, vốn là trong sạch, chẳng còn một tí phiền não, vô minh, nên được hoàn toàn sáng suốt liền thành Phật. Nên biết nó là cái Bản thể của Vũ trụ vạn vật chớ không phải cái Tâm riêng của chư Phật, mà vạn vật chúng sanh cũng đồng nhau một cái Tâm ấy. Nhưng vì chúng sanh mê không biết đặng nó, nên chỉ nhận cái Tâm phân biệt hiểu biết sanh diệt, vô thường ở trong thân mình, cho đó là Bổn Tâm, Bổn Tánh của mình mà luôn phải bị nó sai sử trong lục đạo luân hồi.
2)        Có thấy Tánh mới thành Phật, như vậy niệm Phật, tụng kinh, giữ giới, bố thí có được thành Phật không?
           Niệm Phật, tụng kinh, giữ giới, bố thí mà không thấy Tánh thì không giải thoát hoàn toàn thành Phật được.
               Niệm Phật tới chỗ vô sanh mới Kiến tánh thành Phật. Tụng kinh ngộ lý mới Kiến tánh thành Phật. Giữ giới cho tới chỗ hết mê và huỷ phạm dù là một lỗi nhỏ cũng không phạm tức là Kiến tánh thành Phật. Bố thí nhưng không trụ tướng, không còn chấp có chấp không vì ngộ chỗ không tướng của Tâm Chơn không tức là Kiến tánh thành Phật.
3)        Cái gì là cái Tâm?
           Tổ đáp: cái mà ngươi hỏi ta đó là cái Tâm của ngươi. Cái mà ta đáp ngươi đó là cái Tâm của ta.
4)        Cái gì là cái Tánh?
           Thấy là cái Tánh nên gọi là Tánh thấy. Nghe là cái Tánh nên gọi là Tánh nghe, ngửi là cái Tánh nên gọi là Tánh ngửi, nếm là cái Tánh nên gọi là Tánh nếm. Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, đức Phật nói Tánh quyền gởi nơi căn.
5)        Trong kinh nói Tánh có vọng, chơn. Vậy cái nào là vọng, cái nào là Chơn?
           Tánh thấy, tánh nghe v.v… là chơn vì nó còn hoài ở nơi căn, còn thấy nghe rồi tâm sanh buồn, giận, thương, ghét, tham, ác, độc, dữ, lành, đều là vọng vì các thứ tâm tánh nầy có rồi mất không còn hoài như tánh thấy, tánh nghe, nên Phật gọi nó là sanh diệt, nghĩa là sanh ra rồi mất.
6)        Trong kinh nói ai cũng có bổn Tâm, bổn tánh, sao mình lại chẳng thấy nó?
           Như trên đã nói Tánh thì mình dễ thấy, như tánh thấy, nghe, ngửi, nếm v.v… Còn Tâm thuộc về thức thứ 8 cũng gọi là A-lại-da thức hay Thức tinh. Nó có đó nhưng vô hình, vô tướng khó biết nó cho được, vì mình không thấy nó được, nhưng nhờ kinh nghiệm, nên mình mới biết có nó, như khi người ta hỏi mình, những lời hỏi đó chạm vào Tâm mình làm cho hiểu biết, nó bèn phản ứng là trả lời lại. Nếu chúng ta hỏi một người chết thì người ấy đâu có trả lời lại được, vì Tâm của người ấy (thức A-lại-da) đã thoát ra khỏi xác thân, xác thân không còn hiểu biết nữa.
               Ngộ đặng Bổn Tâm là biết được Thức tinh của mình tức là A-lại-da thức. Khi nó chưa nhiễm trần, nó rất trong sạch, thanh tịnh tròn sáng nên gọi nó là cái bổn thể nguyên minh hay là Vô cấu thức, Bạch tịnh thức… Vì nhiễm trần nên nó chứa đựng các hột giống nghiệp sanh tử làm cho nó dơ, tối, mới bị luân chuyển thành ra chúng sanh đó thôi.
               Vậy muốn thoát nẻo luân hồi phải cần tu tập theo 5 bài kệ của Tổ Đạt-ma chỉ dạy, thấy tánh mới được.

III. PHẦN TOÁT YẾU
(Xin học bài vấn đáp cho nhuần vì rất cần thiết để thay phần toát yếu.)
                                                 Nam Mô Long Hoa Thượng Hội Di Lặc Tôn Phật.
                                                 Kính Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.

_____________________________________




BÀI 13

CÔNG PHU GỠ NIÊM THOÁT TRẦN
tức là BỘI TRẦN HIỆP GIÁC
(PHÁP TRỪ LỤC CĂN, DIỆT LỤC TRẦN)

Trong bài Lục căn cấp 2, chúng ta thấy rằng do 12 tướng hữu vi (sáng tối, động tịnh, thông nghẹt, lại biến, hiệp ly, sanh diệt) niêm áng Tâm Diệu giác Viên minh làm cho mờ ám, trệ ngại. Nay muốn làm công phu thoát trần, thì phải lựa một căn nào tròn trong sáu căn, như Nhĩ căn viên thông chẳng hạn, lột niệm ở ngoài, nghĩa là phá trừ hai tướng động tịnh mà phục về trong cho tới cái địa vị nguyên minh Chơn giác, thì tánh nguyên minh phát sáng. Công phu phản văn (nghe vào trong), Đức Quan Thế Âm Bồ-tát làm cái công phu phản văn nầy mà vào được chỗ Chánh định chứng quả thành Phật.

GIAI ĐOẠN I
Ban đầu ở trong cái nghe, vào dòng mất chỗ, chỗ vào đã lặng, động tịnh hai tướng chẳng sanh, nghĩa là Đức Quan Thế Âm do trong cái nghe một niệm chẳng sanh, hồi văn mà chăm nghe cái tự tánh, chớ không thuận theo cái nghe thường tình là nghe thinh trần ở ngoài, nên gọi là vào dòng.
Đến lúc vào dòng rồi, thì tất cả thinh trần ở ngoài không còn chuyền níu nữa nên gọi là mất chỗ, tức là mất cái chỗ sở duyên, nghĩa là mới phá đặng cái tướng động ở ngoại cảnh, chớ cái tướng tịnh ở trong Tâm hãy còn.
Đến sau chỗ vào được lặng thì chẳng những cái tướng động không sanh mà cho đến cái tướng tịnh cũng chẳng sanh nữa, tức là căn trần đều tiêu vong.
Song tuy đã tới đặng cái cảnh giới như thế là mới hàng phục được căn và trần mà còn phải công phu tinh tấn lên nữa, vì sau khi căn, trần, thức tiêu trầm, thì có cái tưởng về một thể thanh trạm là một thứ trần rất nhỏ nhen khó trừ, mà thứ trần ấy cũng là thức tinh, kêu là pháp ái, là một như nhơ bẩn dính mắc trong tánh thể khó nạo cho tróc.

GIAI ĐOẠN II
Đến đây công phu thêm lần lên thì cái hay nghe và cái chỗ nghe đều hết. Hết và nghe chẳng trụ thì cái “hay giác” và cái “chỗ giác” đều không. Cái không giác rất tròn thì cái “hay không” và cái “chỗ không” đều diệt. Sanh diệt đã diệt thì tịch diệt hiện tiền. Nên biết Đức Quan Thế Âm làm cái công phu phản văn nầy trước hết Ngài lập hai cái nghe, một là “văn cơ,” cái hay nghe, hai là cái “văn tánh,” chỗ nghe. Nay căn trần đã diệt thì cái Văn cơ và Văn tánh cũng không còn, nên nói cái hay nghe và cái chỗ nghe đều hết.
Khi cái hay nghe và cái chỗ nghe đã hết thì hiện ra cái cảnh Trạm nhứt vô biên, gọi là chỗ giác, mà cái trí hay soi được cảnh trạm nhứt vô biên, tức là cái “hay giác.” Thế thì cũng còn cái “hay giác” đối đãi với cái “chỗ giác,” nên gia công tu thêm cho đến cái “hay giác” và cái “chỗ giác” đều trong lặng (không), nên kinh nói: Hết và nghe chẳng trụ thì cái “hay giác” và cái “chỗ giác” đều không.
Khi mới chứng đặng cái không nầy, nhưng cái không nầy chưa được tròn, vì cái “hay không” và cái “chỗ không” hình như còn đối đãi với nhau, chưa được dứt. Đến khi cái không giác được tròn thì cái “hay không” và cái “chỗ không” bị trừ diệt hoàn toàn, mà cái không giác được tròn ấy (Trí trung không) cũng bị trừ diệt nữa (không còn chấp không và không còn chấp trung).
Đến đây tướng không đã diệt tức là nguồn gốc sanh diệt bị tiêu diệt, thì cái Chơn tịch diệt(1) của Như Lai Tạng hiển nhiên thường trụ nên gọi là Tịch diệt hiện tiền. Đó là cái Niết bàn Diệu Tâm của Đức Phật truyền cho Tổ Đại Ca Diếp.
Tịch: nghĩa là lặng, nhưng không phơi cái tướng lặng đối với động, mà thiệt là cái lặng của Bổn lai tự tánh bất động vậy.
Diệt: nghĩa là dứt, nhưng không phải cái dứt đối với cái sanh, mà là cái dứt của Bổn lai tự tánh vô sanh vậy. Thế thì tịch diệt tức là lý thể của Bổn giác,(2) Tạng Như Lai thiệt tế của Chơn-như thanh tịnh bản nhiên khắp cả pháp giới cũng gọi là cái biển Đại tịch diệt hay cái tạng Đại Quang Minh, mà tất cả cái diệu dụng gì cũng đều đủ ở trong đó cả.

GIAI ĐOẠN III
Đương khi đoạn hoặc chứng chơn, bỗng nhiên vượt khỏi thế gian và xuất thế gian, chẳng còn bị cái pháp có trong Tam giới và cái pháp không ngoài Tam giới ràng buộc nữa, chỉ thấy mười phương tròn sáng, liền đặng hai món công đức thù thắng, một là trên hiệp với cái Tâm Bản diệu giác của các Phật mười phương và cùng với Như Lai đồng một từ lực.
Hai là dưới hiệp với chúng sanh trong sáu đường, cùng với cả thảy chúng sanh đồng một lòng bi ngưỡng.
Trong giai đoạn công phu nầy hai tướng “có” và “không” không còn ràng buộc nữa, nên vượt ra khỏi thế gian và xuất thế gian, toàn thể hiện, chỉ thấy mười phương tròn sáng liền đặng hai món công đức thù thắng.
Một là trên hiệp với cái Tâm Bản diệu giác của các Phật mười phương và cùng với Như Lai đồng một từ lực.
Hai là dưới hiệp với chúng sanh trong sáu đường, cùng với tất cả chúng sanh đồng một lòng bi ngưỡng.
Chữ Bi là lo buồn thương xót cầu Phật cứu khổ cho chúng sanh. Chữ Ngưỡng nghĩa là trông mong nhờ Phật thương xót ban vui cho chúng sanh.

I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1)    Chơn tịch diệt: Tịch là vắng lặng, diệt là dứt mất, chỉ cảnh giới Niết bàn. Niết bàn Tịch diệt của Tiểu thừa còn chấp không. Niết bàn Tịch diệt của Đại thừa không còn chấp không nên gọi là Chơn tịch diệt.
(2)    Lý thể của Bổn giác: Bổn giác tức là Bồ-đề hay Phật đà (Phật tánh sẵn có). Lý đối với Sự, Lý là tâm tánh, Sự là thể tướng, Lý thể tức là Tánh Tướng của Bổn Tâm Chơn-như,

II. PHẦN VẤN ĐÁP
1)       Công phu phản văn nghĩa là gì?
          Công phu phản văn là xoay cái tánh nghe lại để nghe vào trong (tánh nghe của mình) chớ không nghe thinh trần ở ngoài cảnh nữa.
2)        Vào dòng nghĩa là gì?
           Đức Quan Thế Âm do trong cái nghe một niệm chẳng sanh, hồi văn mà chăm nghe cái tự tánh, chớ không thuận theo cái nghe thường tình là nghe thinh trần ở ngoài nên gọi là vào dòng.
3)        Mất chỗ nghĩa là gì?
           Khi nghe vào tự tánh thì tất cả thinh trần ở ngoài không còn chuyền níu nữa nên gọi là mất chỗ, tức là mất chỗ sở duyên.
4)        Làm cái công phu nầy đến chừng nào căn trần mới tiêu vong?
           Khi thinh trần tiêu vong tức là mới trừ được cái tướng động ở ngoài, bèn trừ luôn cái tướng tịnh ở trong Tâm thì căn trần mới tiêu vong.
5)        Căn, Trần, Thức tiêu trầm rồi thì có cái tướng về một thể thanh trạm gọi là gì?
           Khi căn, trần, thức tiêu trầm rồi thì có cái tưởng về một thể thanh trạm gọi là pháp ái hay thức tinh, là một thứ dơ bẩn dính sát trong tánh thể khó nạo cho tróc.
6)        Làm sao trừ được cái cảnh trạm nhứt vô biên nầy?
           Cái cảnh trạm nhứt vô biên nầy gọi là chỗ giác, còn cái trí hay soi được cảnh trạm nhứt nầy gọi là cái hay giác. Vậy nên tu thêm cho đến cái hay giác và cái chỗ giác đều trống lặng, tức là hoàn về không.
7)        Khi hoàn về không thì cái không nầy còn đối đãi không?
           Lúc đầu còn đối đãi, vì còn cái chỗ không và cái hay biết cái chỗ không ấy, vậy ta phải tấn tu thêm cho đến khi cái hay không và cái chỗ không đều hoàn toàn bị trừ diệt, tức là nguồn gốc sanh diệt bị tiêu diệt thì cái Chơn tịch diệt của Như Lai Tạng hiển nhiên thường trụ. Đó là cái Niết bàn Diệu Tâm của đức Phật truyền cho Tổ Đại Ca Diếp.

III. PHẦN TOÁT YẾU
Công phu phản văn là không nghe thinh trần ở ngoại cảnh nữa mà nghe trở vào trong nên gọi là vào dòng, tức là mới trừ được cái tướng động ở ngoài. Bây giờ bèn trừ luôn cái tướng tịnh ở trong Tâm mình nữa, tức là không trụ chấp cái tướng tịnh ở trong thì căn trần mới tiêu vong.
Khi căn, trần, thức tiêu trầm rồi thì Tâm ta hiện ra một cảnh trạm nhứt vô biên gọi là Thức tinh hay là pháp ái, là một thứ dơ bẩn dính sát trong tánh thể khó nạo khó trừ. Cái cảnh Trạm nhứt vô biên nầy gọi là chỗ giác, mà mình biết được cái cảnh giác nầy gọi là trí hay giác. Thế thì chỗ giác và cái hay giác còn đối đãi nhau, vậy phải công phu thêm cho đến khi chỗ giác và hay giác đều hoàn về không. Khi hoàn về không rồi thì chúng ta phải tu thêm để diệt trừ cái không ấy nữa, tức là nguồn gốc sanh diệt bị tiêu diệt thì cái Chơn tịch diệt của Như Lai Tạng hiển nhiên thường trụ. Đó là cái Niết bàn Diệu Tâm Chánh Pháp Nhãn Tạng Như Lai của Đức Phật truyền cho Đức Đại Ca Diếp làm sơ Tổ bên xứ Ấn Độ.
                                                 Nam Mô Long Hoa Thượng Hội Di Lặc Tôn Phật.
                                                 Kính Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.

_____________________________________



BÀI 14

CỬA VÀO VIÊN GIÁC

Trong kinh Viên Giác,(1) Ngài Uy Đức Tự Tại Bồ-tát bạch hỏi Đức  Phật: “Ví như cái thành lớn, ngoài có bốn cửa tuỳ lại phương nào cũng được, không phải chỉ có một đường. Cúi xin Đức Thế Tôn rộng vì chúng con và chúng sanh đời sau, tuyên thuyết tất cả phương tiện tiệm thứ, khiến cho người cầu pháp Đại thừa chóng được ngộ và chứng Viên giác du hý ở bể Đại Tịch diệt của Như Lai.
Đức Phật đáp: Thiện nam tử! Vô thượng Diệu giác biến khắp mười phương, sinh ra các Đức Như Lai và tất cả pháp. Bởi tất cả chúng sanh cùng với chư Phật đồng một bản thể bình đẳng không khác, nên người tu hành khi đã trở về tánh Viên Giác, thì thực không có hai nơi. Phương tiện tuỳ thuận, số đó không lường, thâu nhiếp qui lại theo tánh sai biệt thì có 3 thứ: 1. Xa-ma-tha, 2. Tam-ma-bát-đề, 3. Thiền-na.
1. Xa-ma-tha: Tàu dịch là chỉ, nghĩa là ngừng đậu vào đế lý chẳng loạn động, đình chỉ các vọng niệm, tắt nghỉ các lòng sái quấy phiền não để cho Tâm yên lặng thanh tịnh.
Trong kinh Viên Giác, Đức Phật nói: “Vọng niệm đã lắng trong thì có thể biết được cái tướng phiền động của thức tâm. Ví như nước đã lắng trong liền thấy cặn bã, đồng thời tĩnh tuệ lại phát sinh, rõ biết thân tâm như khách trần,(2) từ đó diệt hết nên ở trong phát ra vắng lặng nhẹ nhàng. Bởi vắng lặng cho nên mười phương thế giới Tâm các Đức Như Lai ở trong hiện ra trong tâm của hành giả, rất rõ ràng như bóng trong gương. Phương tiện tu chứng nầy gọi là Xa-ma-tha.”
2. Tam-ma-bát-đề: tức là quán, nghĩa là soi chiếu thông suốt, lãnh hội lẽ chơn như tức là dùng Trí huệ trừ diệt tận gốc phiền não, vô minh, chứng đặng tánh Viên Giác. Nên biết chỉ thuộc về không môn, Chơn-như môn, noi theo Chơn-như vô vi mà xa lìa các tướng, còn quán thuộc về hữu môn, sanh diệt môn, noi theo sự tướng hữu vi mà phát đạt trí giải vậy.
Do thứ lớp nơi sự tu mà nói thì chỉ ở trước, trước phục phiền não, quán ở sau, chính là lúc dứt phiền não mà chứng Chơn-như. Còn nếu thiệt chỉ, thiệt quán ắt chẳng phân hai.
Pháp tánh tỏ ra tịch tĩnh ấy là chỉ, pháp tánh thường chiếu luôn ấy là quán (tịch chiếu). Thiệt quán ắt tịch tĩnh thì quán tức là chỉ. Thiệt chỉ ắt minh tịnh thì chỉ tức là quán. Pháp quán Tam-ma-bát-đề dạy cách quán để ly huyễn (dối) như trong kinh có đoạn nói:
Chúng sanh huyễn tâm lại y vào huyễn mà diệt, các huyễn diệt hết nhưng giác tâm không động. Y vào huyễn mà nói giác cũng gọi là huyễn. Nếu nói có giác thì vì chưa ly được huyễn, nói không có giác lại cũng như thế. Cho nên nếu huyễn diệt, gọi là bất động.
Thiện nam tử! Tất cả các Bồ-tát và chúng sanh đời mạt pháp phải nên xa lìa tất cả cảnh giới huyễn hoá hư vọng, do cái tâm xa lìa kia gìn giữ được kiên cố. Tâm như huyễn đó cũng phải xa lìa, cái xa lìa đó cũng là huyễn, cũng phải xa lìa. Trái lại lìa cái tâm xa lìa huyễn, cũng phải xa lìa tới chỗ không phải xa lìa, tức là trừ được mọi huyễn. Ví như nảy lửa, nhân hai mảnh gỗ, lửa bốc cháy hết gỗ, tro bay, khói hết, lấy huyễn mà tu huyễn cũng lại như thế. Các huyễn tuy hết nhưng không bị đoạn diệt.
3. Thiền na: Tàu dịch là tĩnh lự. Tĩnh tức là chỉ, lự tức là quán, tĩnh quán không hai tức là Thiền na, nghĩa là pháp thiền na dạy phải song tu chỉ quán, cũng gọi là Định Huệ đồng tu, chớ không như Xa-ma-tha chỉ tu về Định, còn Tam-ma-bát-đề chỉ tu về Huệ.
Trong kinh Viên Giác, Đức Phật dạy về thiền na:
Thiện nam tử! Nếu có các Bồ-tát ngộ tính Viên giác, lấy tâm tịnh giác không thủ huyễn hoá và các tĩnh tướng, hiểu biết thân tâm đều là quái ngại và vô ngại, vô tri giác minh, là tâm tĩnh giác không có vọng tưởng phân biệt và hiểu biết. Cái thể của giác minh tức là tâm linh tuyệt đãi không y vào các ngại là mọi tướng đối đãi cảnh ngạikhông ngại. Ngại vì huyễn quán giao tiếp lẫn với phiền não, không ngại là tĩnh tướng đồng với Niết-bàn.
Phiền não với Niết-bàn không có chấp trước, vì thế không thủ huyễn hoá thì siêu vượt qua khỏi cảnh ngại (phiền não). Không thủ tĩnh tướng thì siêu vượt qua cảnh vô ngại (Niết-bàn). Thụ dụng thế giới với thân tâm ở cõi trần, như âm thanh ở trong chuông, tiếng ra bên ngoài. Phiền não Niết-bàn không có lưu ngại, ở trong liền hay phát ra tịch diệt khinh an. Diệu giác tuỳ thuận, tịch diệt cảnh giới, thân tâm mình và người cũng không giá trị, chúng sanh thọ mệnh đều là phù tưởng. Như phương tiện nầy gọi là Thiền na.
Định là công phu tu Chỉ, Huệ là công phu tu Quán, tịch niệm là công phu Thiền-na. Nếu Bồ-tát chỉ diệt các huyễn (Quán) không thủ tác dụng, riêng đoạn phiền não, phiền não đoạn hết liền chứng thực tướng. Bồ-tát như thế gọi là đơn tu Thiền-na.
4. Hai mươi lăm thứ thanh tịnh luân:
Tất cả Như Lai, Viên giác thanh tịnh nguyên không có tu tập, nhưng chúng sanh khi chưa giác, huyễn lực tu tập có 25 thứ thanh tịnh định luân.
Ba pháp môn thông gọi là định (Xa-ma-tha, Tam-ma-bát-đề và Thiền-na) biến hoá ly hợp thay đổi tu tập gọi là Định luân. Định có nghĩa là quyết định, luân có nghĩa là phá nát, 25 thứ có thể quyết định phá nát hai chướng (phiền não chướng và sở tri chướng) chứng quả Bồ-đề Niết-bàn nên gọi là thanh tịnh Định luân.
Trên đã nói về ba môn, tiếp theo:
5. Nếu Bồ-tát trước giữ rất tĩnh, lấy tâm tĩnh tuệ mà chiếu soi các huyễn ở như trong đó khởi hạnh Bồ-tát. Vị Bồ-tát ấy trước tu Xa-ma-tha, sau tu Tam-ma-bát-đề.
6. Nếu các Bồ-tát lấy tĩnh tuệ chứng tính rất tĩnh, liền đoạn phiền não thoát khỏi sanh tử. Vị Bồ-tát đó trước tu Xa-ma-tha, sau tu Thiền-na.
7. Nếu các Bồ-tát lấy tuệ vắng lặng lại hiện ra huyễn lực biến hoá rất nhiều độ các chúng sanh, sau đoạn phiền não mà tịch diệt. Vị Bồ-tát đó trước tu Xa-ma-tha sau tu Tam-ma-bát-đề, sau nữa tu Thiền-na.
8. Nếu các Bồ-tát lấy lực chí tĩnh đoạn phiền não rồi, sau mới khởi Bồ-tát thanh tịnh diệu hạnh độ chúng sanh. Vị Bồ-tát đó trước tiên tu Xa-ma-tha, sau tu Thiền-na, sau nữa tu Tam-ma-bát-đề.
9. Nếu Bồ-tát lấy lực rất tĩnh, tâm đoạn phiền não, lại độ chúng sanh kiến lập thế giới. Vị Bồ-tát đó trước tu Xa-ma-tha, sau đồng thời tu Tam-ma-bát-đề và Thiền-na.
10. Nếu Bồ-tát lấy lực chí tĩnh, nhờ đó phát biến hoá, sau đoạn phiền não. Vị Bồ-tát đó trước đồng thời tu Xa-ma-tha, Tam-ma-bát-đề và sau tu Thiền-na.
11. Nếu các Bồ-tát lấy lực rất tĩnh để giúp cho tịch diệt, sau khởi tác dụng biến hoá thế giới. Vị Bồ-tát ấy trước đồng thời tu Xa-ma-tha, Thiền-na, sau tu Tam-ma-bát-đề, v.v…
(Xin xem thêm trong kinh Viên Giác có đủ 25 thứ thanh tịnh định luân.)

I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1)    Viên Giác (đừng lầm với Duyên giác): a. Chỉ bực tu hành đến chỗ giác ngộ hoàn toàn (rốt ráo) chứng quả Phật thừa rốt ráo.
         b. Chỉ sự giác ngộ tròn trịa, đầy đủ. Tất cả chúng sanh đều sẵn có cái Bổn giác Chơn tâm. Từ vô thỉ đến nay cái Bổn giác ấy nó vẫn thường ở nơi mình, nó vẫn thanh tịnh chiếu liễu, nhưng mình đang mê nên không tự biết. Đến khi tu thành Đạo thì cái Giác ấy nó trở lại với mình, tròn trịa, đầy đủ. Đối với bực ấy cái Thể gom về sự nhứt tâm, cái nhơn thâu vào Như Lai Tạng và cái quả tóm vào nền Viên Giác.
(2)    Khách trần: (thân tâm như khách trần) Khách trần là tiếng tỷ dụ phiền não.
         Khách đối với chủ nhà nghĩa là người ở xa đến tạm ngụ rồi đi chớ không ở hoài. Phiền não cũng như thế, người ta đối cảnh mà sanh phiền não tức là phiền não từ ngoài vào và ở tạm nơi tâm mình. Trần là trần cấu tức là bụi dơ. Phiền não bám vào ta làm dơ dáy thân tâm ta như bụi dơ dính vật.
         Trần cũng có nghĩa vật dao động cũng như bụi bặm thì dao động. Phiền não ví như bụi bặm hay dao động (vọng tâm) còn Chơn tâm Chơn tánh thì vắng lặng yên ổn tự nhiên.

II. PHẦN VẤN ĐÁP
1)       Đức Uy Đức Tự Tại Bồ-tát hỏi Đức Phật như thế nào?
          Đức Uy Đức Tự Tại Bồ-tát hỏi Phật tất cả phương tiện tiệm thứ khiến cho người cầu pháp Đại thừa chóng được ngộ và chứng Viên Giác, du hý ở bể Đại tịch diệt của Như Lai.
2)        Đức Phật đáp ra sao?
           Với sự tu hành chứng quả Vô thượng Diệu giác thực không có hai, phương tiện tuỳ thuận số đó không lường, thu nhiếp qui lại theo tánh sai biệt thì có ba thứ: 1. Xa-ma-tha, 2. Tam-ma-bát-đề, 3. Thiền-na.
3)        Tu theo ba pháp nầy ra làm sao?
           1. là Xa-ma-tha: Tàu dịch là Chỉ, nghĩa là ngừng đậu vào đế lý chẳng loạn động, đình chỉ các vọng niệm, tắt nghỉ cái lòng sái quấy phiền não để cho Tâm thanh tịnh.
               2. là Tam-ma-bát-đề: tức là Quán, nghĩa là soi chiếu thông suốt, lãnh hội lẽ Chơn-như tức là dùng Trí huệ trừ diệt tận gốc phiền não vô minh, chứng đặng tánh Viên Giác.
               3. là Thiền-na: Tàu dịch là Tĩnh Lự, Tĩnh tức là Chỉ, Lự là Quán. Chỉ Quán không hai tức là Thiền-na. Pháp Thiền-na dạy phải song tu vì song tu Chỉ Quán tức là Định Huệ đồng tu.
4)        Hai mươi lăm thứ Thanh tịnh định luân nghĩa là gì?
           Ba pháp thông là Xa-ma-tha, Tam-ma-bát-đề và Thiền-na gọi là định; ba pháp nầy biến hoá, ly hợp, thay đổi tu tập gọi là luân. Định có nghĩa là quyết định, luân có nghĩa là phá nát, 25 thứ có thể quyết định phá nát hai chướng (phiền não chướng và sở tri chướng) chứng quả Bồ-đề, Niết-bàn gọi là Thanh tịnh định luân.

III. PHẦN TOÁT YẾU
Đức Uy Đức Tự Tại Bồ-tát hỏi Đức Phật tất cả phương tiện tiệm thứ để tu chứng Viên Giác, Đức Phật phương tiện tuỳ thuận chỉ ra ba thứ là Xa-ma-tha, Tam-ma-bát-đề và Thiền-na.
Xa-ma-tha:Chỉ nghĩa là ngừng đậu vào Đế lý chẳng loạn động, đình chỉ các vọng niệm, tắt nghỉ các lòng sái quấy phiền não để cho Tâm thanh tịnh.
Tam-ma-bát-đề:Quán tức là soi chiếu thông suốt, lãnh hội lẽ Chơn-như tức là dùng Trí huệ diệt trừ tận gốc phiền não vô minh, chứng đặng tính Viên Giác.
Thiền-na: là Tĩnh Lự. Tĩnh tức là Chỉ (Xa-ma-tha), Lự tức là Quán (Tam-ma-bát-đề) Chỉ Quán không hai tức là Thiền-na.
Nhận thấy phép Thiền-na dạy song tu Chỉ Quán, vì song tu Chỉ Quán tức là Định Huệ đồng tu.
Có 25 thứ thanh tịnh định luân. Ba pháp thông là Xa-ma-tha, Tam-ma-bát-đề và Thiền-na là định. Ba pháp nầy biến hoá, ly hợp thay đổi tu tập gọi là luân. Định có nghĩa là quyết định, luân có nghĩa là phát nát; 25 thứ có thể quyết định, phá nát hai chướng (phiền não chướng và sở tri chướng), chứng quả Bồ-đề, Niết-bàn nên gọi là thanh tịnh định luân.

BÀI TẬP
Xin giải đáp những câu hỏi sau đây:
1. Trong bài nói: Chỉ thuộc về Không môn, Chơn-như môn, noi theo Chơn-như vô vi mà xa lìa các tướng, còn Quán thuộc về Hữu môn, Sanh diệt môn, noi theo sự tướng hữu vi mà phát đạt trí giải vậy.
Xin hỏi: Vịn theo đâu mà nói Chỉ thuộc về Không môn, Chơn-như môn, noi theo Chơn-như mà xa lìa các tướng, còn Quán thuộc về Hữu môn, Sanh diệt môn, noi theo sự tướng hữu vi mà phát đạt trí giải vậy?
2. Xin giải nghĩa câu Thụ dụng thế giới với thân tâm tướng ở cõi trần, như âm thanh ở trong chuông tiếng ra bên ngoài, phiền não, Niết-bàn không có lưu ngại, ở trong liền hay phát ra tịch diệt, khinh an.
                                                 Nam Mô Long Hoa Thượng Hội Di Lặc Tôn Phật.
                                                 Kính Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.

_____________________________________



BÀI 15

QUẢ VỊ BỒ ĐỀ

Bồ-đề hay Phật đà là tiếng Phạn, chữ Hán là Đạo, tức là Giác, có nghĩa là sáng suốt, ngộ đặng chơn lý, chỉ cho bản thể Chơn tâm lìa các vọng niệm, tròn khắp rộng lớn như hư không, cũng gọi là Pháp thân Bình đẳng Như Lai (Phật tánh sẵn có). Bực tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn, đắc Đạo thành Phật, tức là quả vị Bồ-đề.
TÂM THỨC:
Tâm thức là tâm hiểu biết do ý thức khởi phân biệt. Tâm ấy vốn là hư vọng, không phải chơn thiệt. Bực Tiểu thừa chỉ thành lập có sáu thức (Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân và Ý thức), trong khi tu hành, dùng ý thức để công phu tạo tác nên không chứng được quả vị Bồ-đề.
BẢY CHỖ HỎI LÒNG
Muốn tu chứng quả vị Bồ-đề thì phải ngộ Chơn tâm, lẽ cố nhiên phải biết rõ các thứ vọng tâm mê lầm. Vì vọng tâm mê lầm là tâm hư vọng, sanh diệt vô thường, như tâm phan duyên, tức là tâm nương theo duyên, theo cảnh vật ở ngoài do nơi mắt, tai, mũi, lưỡi, thân luôn luôn nương theo sắc, thinh, hương, vị, xúc mà có. Còn ý thức cũng chỉ là thứ tâm lý có gián đoạn, ý niệm luôn sanh diệt không ngừng và khi ta chết rồi thì ý thức cũng tiêu tan.
Xem như ông A-nan đã chứng sơ quả Tu-đà-hoàn, mà cũng còn nhận sự suy nghĩ hiểu biết làm tâm, nên mới bị nạn Ma-đăng-già như sự tích dưới đây trong kinh Thủ Lăng Nghiêm:
Khi ấy nhằm vào khoảng cư hạ của các Tỳ kheo đã giải chế, cũng là ngày giỗ kỵ phụ vương của vua Ba-tư-nặc. Vua sắm đủ các món chay báu rồi đích thân đi rước Phật và các vị Đại Bồ-tát đến trong cung mà dưng tiệc cúng dường. Trong lúc ấy có đại chúng đông đủ, chỉ thiếu một mình ông A-nan là vì bữa trước ông đã thọ thỉnh một người trai chủ ở xứ khác rồi, nên ông mắc đi xa chưa về kịp.
Ông chỉ đi có một mình, đến chừng trở về nửa đường lại nhằm bữa không có ai dưng cúng, nên ông bèn mang bình bát tới thành mà khất thực. Trong ý ông muốn trước cầu một người lâu nay chưa có lần nào trai tăng mà làm một vị thí chủ, bất kỳ giàu hay nghèo, quý hay tiện, nhơ hay sạch, nhà nào cũng đặng chớ ông không có lựa chọn, vì lòng ông muốn làm pháp bình đẳng để viên thành công đức vô lượng cho tất cả chúng sanh.
Vì ông đã từng nghe Phật quở ông Tu-bồ-đề và ông Đại Ca-diếp, làm bực A-la-hán đi khất thực mà một người bỏ nhà nghèo xin nhà giàu, còn một người bỏ nhà giàu xin nhà nghèo, tâm không đặng quân bình.
Ông bèn ra ngoài thành, rồi lần lần bước vào trong cửa thành nghiêm chỉnh, oai nghi, kính trọng một pháp trì trai vậy.
Trong khi khất thực, ông bị nàng Ma-đăng-già, một ả tứ thời dùng chú thuật của Kim đầu ngoại đạo mà bắt ông vào phòng rờ rẫm, vuốt ve làm gần hư cái giới thể thanh tịnh của ông.
Phật đang chứng trai ở cung vua Ba-tư-nặc, biết ông A-nan bị nạn, thọ thực rồi cáo về. Đến tịnh xá lên pháp toà ngồi, Phật phóng một ngọn vô uý quang minh, trong ấy có một vị hoá thân Phật tuyên thuyết một bài thần chú, rồi Phật dạy ông Văn Thù đem chú ấy qua cứu ông A-nan và bắt luôn nàng Ma-đăng-già đem về chỗ Phật.
Ông A-nan về tới tịnh xá thấy Phật, lòng ăn năn hỗ thẹn, bèn quỳ lạy dưới chơn Phật, khóc lóc mà bạch rằng:
— Bấy lâu nay con ỷ lại là em của Phật và đa văn quảng kiến, mạnh nhớ. Bao nhiêu pháp Tiểu thừa, Đại thừa Phật nói ra con đều thuộc hết không quên một chữ, cho tới 12 bộ kinh cũng đều nằm lòng. Con nghĩ rồi đây thế nào Phật cũng nghĩ tình anh em ruột thịt, vì sự mạnh nhớ học nhiều mà chứng quả cho con thành Phật, khỏi cần tu chứng chi hết. Hôm nay con mới vỡ lẽ rằng những sự ỷ lại ấy đều không nhằm chi cả, cho nên đứng trước nữ sắc Ma-đăng-già mà con kềm chế cái Tâm con không được, để đến nỗi nhọc lòng Phật sai ông Văn Thù Đại Bồ-tát qua cứu con. Vậy nay con xin hỏi Phật cái pháp chánh giác để tu theo cái pháp chánh định, chứng quả làm Phật mới mong đắc được quả Bồ-đề.
Sau khi ông A-nan bạch hỏi như thế, Đức Phật bèn hỏi lại ông A-nan:
— Nầy A-nan, ngươi nói đứng trước nữ sắc Ma-đăng-già mà ngươi kềm chế cái Tâm không đặng, vậy cái gì là Tâm của ngươi?
Ông A-nan đáp:
— Theo lời Phật hỏi cái gì là Tâm của tôi, thì tôi xin đáp với Phật rằng sự suy nghĩ, hiểu biết là Tâm của tôi, ngoài sự suy nghĩ hiểu biết thì không có cái gì nữa đáng gọi là Tâm được.
Khi ông A-nan bạch như vậy, Phật bèn quở rằng:
— Đó có phải là Tâm của ngươi đâu?
Ông A-nan nghe Phật quở, thất kinh, liền đứng dậy chắp tay bạch rằng:
— Như cái hay suy nghĩ hiểu biết đó chẳng phải là Tâm của tôi, thì kêu nó là cái gì? Và như vậy tôi không có Tâm hay sao?
Phật đáp:
— Cái Tâm đó là nhơn đối với cái tướng hư vọng của lục trần ở ngoài mà sanh ra, nên gọi nó là vọng tưởng hay làm hoặc-loạn Chơn tánh của người, vì vậy chẳng nên nhận nó làm Tâm.
Từ đời vô thỉ đến nay, ngươi nhận lầm nó làm Tâm, như nhận kẻ cướp làm con nên phải thọ những nghiệp sanh tử luân hồi mãi mãi không dứt.
A-nan, thế thì từ kiếp vô thỉ đến nay khiến ngươi bị trôi lăn trong biển sanh tử cũng bởi nguyên tại Tâm. Vậy nay Ta hỏi ngươi Tâm của ngươi bây giờ ở tại đâu?
— Bạch Đức Thế Tôn, tất cả trong thế gian mười loại chúng sanh ai cũng đều nhận cái tâm hay biết, hay suy nghĩ ở tại trong thân.
1. Phật phá cái Tâm ở trong thân
Phật hỏi ông A-nan:
— Hiện ông đang ở trong Tịnh xá Kỳ Hoàn, làm sao ông thấy được rừng Kỳ Đà ở ngoài?
— Do cửa mở rộng nên tôi mới thấy được rừng Kỳ Đà ở ngoài.
— Trước khi ngươi thấy rừng Kỳ Đà ở ngoài, ngươi có thấy Phật và các hàng Thánh chúng không?
— Bạch, tôi thấy Phật cùng các hàng Thánh chúng ở trong trước, rồi do nơi cửa mở mà tôi mới thấy rừng Kỳ Đà sau.
— A-nan, nếu có người nói: Tôi ở trong giảng đường chỉ thấy rừng Kỳ Đà ở ngoài, chớ không thấy Phật và các hàng Thánh chúng ở trong được không?
— Bạch Đức Thế Tôn, đâu có lý như vậy được.
— Cũng như thế, nếu Tâm của ngươi ở trong thân thì nó phải thấy biết ở trong trước, rồi mới thấy biết ở ngoài sau. Vậy Tâm ngươi có thấy biết gan, ruột, phèo, phổi của ngươi chăng?
— Bạch không.
— Nếu nó không thấy biết ở trong, mà lại thấy biết cảnh vật ở ngoài thì có khác chi người ở trong giảng đường chẳng trông thấy Phật, mà ngoài lại thấy rừng mà ngươi cho là vô lý đó. Thế thì ngươi nói Tâm ở trong thân là không phải rồi.
2. Phật phá cái Tâm ở ngoài
— Bạch Đức Thế Tôn, cái Tâm của tôi không phải ở trong nên không thấy ruột gan, phèo phổi mà nó lại thấy cảnh vật ở ngoài, tức là nó ở ngoài. Có lẽ lý nầy chắc đúng.
— Nầy A-nan, có hai người Tỳ kheo đi khất thực, nếu một người ăn thì người kia có no được không?
— Bạch Thế Tôn, hai người Tỳ kheo tuy đã chứng quả A-la-hán, nhưng mỗi người đều có thân mạng riêng, thì không thể có người nầy ăn mà người kia lại no được.
— A-nan ơi, nếu Tâm ngươi ở ngoài thân, thì thân và tâm là hai vật khác nhau, không can thiệp với nhau. Nếu không can thiệp nhau thì cái chỗ biết của Tâm thì thân không biết tới, cũng như hai ông Tỳ kheo một người ăn thì người kia làm sao no được.
Bây giờ Ta giơ cái tay lên, con mắt ngươi ngó mà Tâm ngươi có biết hay không?
— Bạch, biết.
— A-nan, con mắt thuộc về thân, còn cái biết thuộc về Tâm. Ngươi ngó cái tay của Ta mà thân và tâm đều thấy biết một lượt, thì thân và tâm đâu phải hai thể. Nếu đã không phải hai thể thì làm sao gọi tâm ở ngoài thân được.
3. Phật phá cái Tâm nép trong con mắt
— Bạch Đức Thế Tôn, tâm tôi nó chẳng phải ở trong vì nó không biết trong, nó cũng chẳng phải ở ngoài vì thân tâm đều biết một lượt, nhưng tuy nó không phải ở ngoài, mà nó hay thấy ở ngoài, đó là bởi nó nép trong căn con mắt cũng như con mắt nép sau chén lưu ly, mà chén lưu ly không chút gì làm ngại cho con mắt, nên hễ con mắt tuỳ thấy vật gì thì tâm cũng tuỳ theo phân biệt được liền.
— A-nan, ngươi nói tâm nép trong con mắt cũng như con mắt nép sau chén lưu ly, vậy khi con mắt thấy cảnh vật, có thấy chén lưu ly không?
— Bạch thấy.
— Nếu tâm của ngươi nép sau con mắt như con mắt nép sau chén lưu ly, thì tại sao đương khi tâm thấy cảnh vật lại chẳng thấy con mắt. Nếu tâm thấy con mắt thì con mắt đồng với cảnh vật bên ngoài rồi. Còn nếu như tâm chẳng thấy con mắt thì làm sao nói tâm nép sau con mắt được.
4. Phật phá cái Tâm ở cả trong và ngoài
— Hễ tôi mở mắt ra thì thấy sáng tức là thấy ngoài. Còn nhắm mắt lại thấy tối tức là thấy trong, nghĩa đó có phải như thế chăng?
— A-nan, đương khi ngươi nhắm mắt mà thấy tối, vậy cái tối đó đối với con mắt hay không đối? Như đối với con mắt thì cái tối ở trước con mắt chớ đâu phải ở trong. Nếu ngươi cho rằng cái tối đó ở trong thì đang khi ban đêm, mấy chỗ tối không có đèn lửa, đều là gan, ruột, phèo, phổi của ngươi hay sao? Còn như cái tối chẳng đối với con mắt thì làm sao ngươi gọi là thấy được. Lại nếu nói mở mắt thấy sáng là tâm ở ngoài, thì thân và tâm là hai vật khác nhau, như trường hợp thứ hai rồi. Vậy nên biết ngươi nói tâm ở cả trong và ngoài là không trúng.
5. Phật phá cái Tâm ở theo chỗ tuỳ hiệp
— Bạch Đức Thế Tôn, tôi nghe Phật thường nói: Bởi tâm sanh nên pháp mới sanh, bởi pháp sanh nên tâm mới sanh. Bây giờ tôi đem câu ấy mà suy nghĩ thì cái hay suy nghĩ đó là Tâm tánh của tôi. Vậy nên, hễ tâm tuỳ theo một pháp nào đó mà sanh ra, chớ bất tất định nó ở trong, ở ngoài chi cả.
— Ngươi đã hiểu chữ hiệp chưa? Hiệp nghĩa là có hai thể gặp nhau như vung giáp nồi, như nắp đậy hộp, vậy mới gọi là hiệp. Vả lại cái tâm suy nghĩ của ngươi nguyên là một thứ vọng tưởng giả nguỵ, không có thiệt thể thì lấy chi mà hiệp đặng.
6. Phật phá cái Tâm ở khoảng giữa
— Con mắt có thấy nên thuộc về nội căn, sắc trần không biết nên thuộc về ngoại cảnh. Trong căn, ngoài cảnh đối với nhau nên cái thức (tâm biết) mới sanh vào khoảng giữa. Vậy cái khoảng giữa đó có lẽ là chỗ của tâm vậy?
— Tâm của ngươi ở giữa căn trần, thì nó gồm cả căn và trần như cha mẹ hiệp nhau mà sanh ra, hay là chẳng gồm căn và trần như chẳng nhơn cha mẹ mà tự sanh con được?
Vả chăng trần tức là vật, căn tức là thể. Nếu gồm cả căn trần thì vật, thể tất phải lộn lạo vì vật là thứ không biết, còn thể là thứ có biết. Nửa biết, nửa không đối địch nhau thành ra hai bên thì đâu phải là giữa. Lại nữa, chẳng gồm đặng căn trần thì tâm ngươi đã chẳng phải căn, là có biết, lại cũng chẳng phải trần, là không biết. Vậy tức là không có thể tánh rồi thì lấy gì làm tướng giữa ấy đặng?
7. Phật phá cái Tâm ở chỗ vô trước(1)
— Bạch Đức Thế Tôn, lúc trước tôi thấy Phật cùng ông Mục-kiền-liên, ông Tu-bồ-đề, ông Phú-lâu-na và ông Xá-lợi-phất thường nói: Cái Tâm tri giác phân biệt ấy chẳng ở trong, chẳng ở ngoài và chẳng ở chặng giữa. Hễ nhứt thiết đều không trước cả thì gọi là Tâm. Vậy thì cái mà tôi không trước ấy có thể gọi là Tâm được không?
— A-nan, ngươi nói cái tâm tánh tri giác không ở vào đâu, rồi ngươi lấy cái mà không trước nơi tất cả pháp làm tâm. Vậy cái nghĩa ba chữ tất cả pháp ngươi đã hiểu chưa? A-nan, phàm trong cõi đời, cõi hư không, những loài ở dưới nước, loài ở dưới đất, loài bay, loài chạy, loài vô tình, loài hữu tình, tổng bao nhiêu vật tượng hết thảy gọi là tất cả pháp, mà nay ngươi nói không trước, thì cái không trước của ngươi đó là tại tâm của ngươi nguyên không xứ sở mà không trước tất cả pháp, hay là nguyên có xứ sở mà không trước tất cả pháp? Nếu nguyên không xứ sở mà tự nhiên không trước thì cái tâm ấy đồng với lông rùa, sừng thỏ, gốc vốn là không rồi, còn phải thêm hai chữ không trước làm chi? Còn nếu nguyên có xứ sở mà chẳng trước tất cả pháp, thì thành ra bỏ cái trước mà lấy cái không trước. Nếu đã có lấy, có bỏ thì đâu đặng gọi là không trước.
Bởi cái trước nó theo nơi tâm không tướng mà khởi ra. Nếu ngươi quả không có cái Tâm tướng thì thiệt là vô tâm. Nếu vô tâm thì quyết không có trước. Còn nếu ngươi không phải thiệt là vô tâm thì tất có cái Tâm tướng. Nếu đã có Tâm tướng thì tất có chỗ sở tại. Nếu đã có chỗ sở tại thì quyết định có trước, đâu đặng gọi là tất cả không trước.
Vậy nên phải biết rằng, ngươi nói tất cả không trước gọi là Tâm giác tri chắc là không phải.
. . . . . .
Kính thưa quí vị, nhận xét trong bảy chỗ hỏi lòng, ông A-nan dùng cái Tâm suy nghĩ phân biệt, khi chấp có ở trong, ở ngoài, ở giữa, nép sau con mắt, tuỳ hiệp, không trước, đều thuộc về Tâm thức hư vọng, có chỗ trụ, chỗ chấp, chớ đâu phải là Chơn tâm. Tâm nầy hoặc do năm căn tiếp xúc với năm trần mà tả tượng vào nội tâm, nên gọi nó là bóng tiền trần rọi nơi Chơn tánh, hoặc do ý thức phân biệt mà có. Những thứ tâm hiểu biết ấy như trăng dưới nước, như ảnh trong gương, hoa đốm giữa hư không.
Nên chú ý trong bảy chỗ hỏi lòng, Phật hỏi Chơn tâm mà ông A-nan lại dùng vọng tâm để đáp, khi nói tâm ở trong, ở ngoài, ở giữa đều có chỗ trụ, chỗ chấp, nên Phật mới phá được.
Bực Tiểu thừa, từ hàng Nhơn Thiên cho đến các bực tiên gia ngoại đạo, cùng bực Tiểu thánh hữu học, bởi không biết đặng Chơn tâm mầu diệu, nên cũng phải dùng ý thức mà tu hành. Thức đã không thiệt thì chỗ chứng quả làm sao chơn? Cũng như bên Tiên gia buộc cái Tâm thức về sự nhớ nghĩ không thôi, như buộc tâm vào dưới rún, rồi thấu xuống vĩ lư,(2) thẳng lên giáp tích,(2) nhẩn đến đạt tới nê hoàn(3) rồi xung lên đảnh mà xuất thần ra gọi là Dương Thần. Tan ra thì thành gió, hợp lại thì thành hình, ngao du thiên hạ, tiêu diêu tự tại. Công phu nhiều thì bay lên Thiên cung, công phu ít thì ẩn cư nơi bồng đảo.
“Nếu nương vào đây cho là phải, mà chẳng cần tu Tam muội, đến khi quả báo nơi cõi Tiên hết, trở lại đoạ làm quỉ cõi dưới” (Vạn pháp qui Tâm lục, Thiền sư Tổ Nguyên). Còn bực vô-sắc-giới tu pháp thiền định tới chỗ cao sâu, trong lúc thiền không còn thấy thân và cảnh, chứng đặng cái Tâm không, nhưng còn biết cái không không ấy, nghĩa là cũng còn trong vòng hoạt động của ý thức, nên không được giải thoát ra khỏi tam giới, cho đến các bực Tiểu thánh hữu học cũng đều như thế, chỉ trừ ra quả vị A-la-hán diệt đặng thức thứ sáu mới ra khỏi Tam giới, nhưng lại chứng quả hoàn diệt chớ đâu phải là Chơn tâm bao giờ. Về pháp môn niệm Phật cũng thế, dù cho trì danh niệm Phật, hay niệm Phật nương theo hơi thở mà luôn luôn trụ chấp cái niệm ấy cũng đều là sự hoạt động của ý thức, tức là pháp tu niệm Phật của Tiểu thừa, chớ đâu phải pháp môn Tịnh độ của Đại thừa. Trong kinh Pháp Bảo Đàn, tổ Huệ Năng có nói: “Có niệm là Tà, không niệm mới Chánh,” nghĩa là còn niệm là còn trong vòng sanh tử, không niệm mới giải thoát, bởi vì không niệm tà, chánh, Tâm ấy là tâm bất sanh, bất diệt, niệm Phật còn không có há lại có niệm chúng sanh hay sao?
Nhưng mới tu phải lo niệm cách nào cũng được, miễn là lo trừ niệm chúng sanh cho hết, nếu niệm không gián đoạn cũng được vãng sanh về cõi Cực lạc để tu thêm nữa cho tới chỗ thành công đắc quả. Thế thì quả vị Bồ-đề hẳn còn cách xa. Bởi vậy chư Tổ thường dùng môn Đốn pháp để đưa hàng Tiểu căn qua bực Đại ngộ như:
1. Đừng lấy bùn mà rửa bùn:
Bùn sình là một thứ nước dơ, nay ta lại lấy thứ nước dơ ấy để rửa vật đã dính bùn sình, thì biết chừng nào vật ấy mới được trong sạch. Ví như Tâm ta bị phiền não làm dơ ố mà nay ta lại dùng Tâm sanh diệt để công phu thì kết quả cũng là sanh diệt chớ đâu có khác.
2. Đừng lấy cát mà muốn nấu cho thành cơm:
Cát là loại đá mẳn, không phải là gạo, đem nấu lại đòi thành cơm, đâu có lẽ đó.
— Hỡi quí vị Đạo tâm thân mến, tu hành muốn thành Thánh quả Bồ-đề, lại khởi duyên dùng vọng tâm sanh diệt mà tu đặng cầu quả vị Chánh giác, thì ví như lấy bùn mà rửa bùn, lấy cát muốn nấu cho thành cơm, vì lấy Tâm sanh diệt vô thường mà tu để cầu chứng chỗ bất sanh bất diệt, thật là chuyện ít có vậy.
— Cũng bởi mê, không chịu nương theo Chánh pháp của Phật mà tu theo Chánh định, sanh niệm quấy ác do ý thức tác động nên mới thành ra cảnh giới đau khổ trầm luân.
— Cũng bởi mê nên mới khởi ra niệm lành, lại cho là phải, đều là do sự tác động của ý thức nên mới có cảnh giới Thiên đàng mà thụ hưởng.
— Cũng bởi mê nên mới khởi ra cái niệm Phật và cố chấp giữ mãi cái niệm ấy, do ý thức luôn luôn tác động nên mới khởi ra cái cảnh giới Cực lạc vui vẻ, nhưng cũng may nhờ thần lực của Đức Tây phương Giáo chủ A-Di-Đà Phật tiếp dẫn và thu nhiếp mới được ở hoài cảnh bất thối ấy, nhưng cũng phải tu thêm cho đến quả Giác Bồ-đề.
Vậy nay nhờ tiền căn kiếp trước nhiều tu, lại sanh đắc phùng thời gặp Long Hoa Thắng Hội tại thế, sao không cầu Pháp bảo Đại quả để tự độ và độ người, lại cầu cái Tiểu quả làm mất cái dịp lập công bồi đức ngàn năm một thuở, hay chỉ bo bo giữ lấy có một môn tu Phước, làm trái với Thánh ý của Đức Giáo chủ Minh Trí, nghịch với huấn từ của Đức Tông Sư, thì sanh tử khó thoát được.
Kính thưa quí vị, hãy tu đầy đủ hai môn, Phật không có độ ta được, Thầy Tổ không cứu ta được, chỉ có ta độ lấy ta mà thôi.
Phật và Thầy Tổ là ông thầy chỉ đường cho ta đi, còn đi đến nơi đến chốn là do ta đó thôi.
Xem như xưa kia ông A-nan là em của Phật, ỷ lại nơi Phật độ mà còn không đặng thay, dù đã thuộc nằm lòng 12 bộ kinh, nhưng đến khi gặp nạn Ma-đăng-già mới vỡ lẽ hư thực.
Thế thì không tu Huệ như Đức Giáo chủ Minh Trí đã chỉ dạy, để biết rõ bổn tâm, bổn tánh mà thực hành pháp Tam-ma-địa (Chánh định) thì làm sao đến đặng Long Hoa Hội?

_____________________________________




BÀI 16

QUẢ VỊ BỒ ĐỀ
(Tiếp theo)

— Trường Long Hoa đã mở, lấy gì để vào thi?
— Tịnh Độ Cư Sĩ Phật Hội Việt Nam đáp: Lấy Phước Huệ để vào trường thi, vì chư Phật mười phương đều là bực Lưỡng Túc Tôn, nghĩa là bực Phước Túc, Huệ Túc. Có câu: Tài pháp nhị thí thỉ thành công, Phước Huệ lưỡng toàn phương tác Phật, nghĩa là thí tài, thí pháp thì chắc chắn đi đến chỗ thành công, còn Phước Huệ đầy đủ là phương châm làm được Phật.
— Tiên Thiên Huỳnh Đạo Tam kỳ đáp: Lấy Phước đức và Công đức để vào trường thi, vì Phước đức là môn tu Phước, còn Công đức tánh là Trí huệ tức là Trí sáng suốt. Dùng Trí sáng suốt ấy để tạo ra vô lượng Phước đức nhưng không trụ chấp mới được hoàn toàn giải thoát, tức là vào được Hội Long Hoa.
— Các giáo phái cũng đều hiểu rõ như vậy nên đua nhau lập công bồi đức, mở ra các cơ quan từ thiện và đồng thời lập ra các Đạo tràng (trường học Đạo) để tu Huệ. Lại còn gởi Tăng Ni những bực nhơn tài ra ngoại quốc đến xứ Phật (Ấn Độ) cùng các nước khác khảo cứu, sưu tầm, học hỏi những cái cao thâm, huyền diệu để đem về cho Giáo hội, tín đồ của mình tu học thêm, bởi lẽ họ biết Pháp bảo là một ngôi báu trong Tam Bảo, mà chư Phật quý trọng hơn tính mạng của các Ngài, vì Pháp Bảo là nguồn gốc sanh xuất ra chư Phật và các hàng Thánh chúng. Vậy nên kỉnh Phật bao nhiêu, họ quý trọng Pháp Bảo và Tăng Bảo bấy nhiêu. Chỉ có Tôn giáo nào muốn đi lùi vào dĩ vãng mới thờ ơ, lãnh đạm với ngôi Pháp Bảo. Không thể nào người tu Phật muốn tầm con đường giải thoát mà lại không học Đạo pháp được. Từ xưa đến nay các vị Thiền sư, các Tổ cùng các hàng Bồ-tát, càng tu cao chừng nào thì lại càng học Pháp Bảo thâm sâu chừng nấy. Trong Tứ Hoằng thệ nguyện của các hàng Bồ-tát có câu: “Pháp môn vô lượng thệ nguyện học” vì các Ngài biết không có Pháp Bảo thì đừng nói chuyện tu hành giải thoát gì hết. Do những lý do trên nên Đức Giáo chủ Minh Trí, trước khi viên tịch để Huấn từ lại dạy rằng:
Tinh tấn thực hành Phước Huệ Song Tu là lên đường giải thoát,
Tinh tấn thực hành Phước Huệ Song Tu là đường về Cực lạc.
Sau rốt Ngài còn nhấn mạnh, sợ chúng ta quên lời dạy bảo nầy: Tôi tha thiết khuyên nhủ tất cả lớn nhỏ, nam nữ ghi lấy, nhớ lấy.
Thật đúng như vậy, nếu không tu đủ hai môn thì đã đành uổng một kiếp khổ cực tu hành của mình mà không được giải thoát, lại vô tình huỷ diệt một công trình vĩ đại của một đời Ngài đã hoàn toàn hy sinh cứu độ mình.
— Hỡi các cấp lãnh đạo toàn quốc! Hỡi những người con chí hiếu của Đức Ngài, quí vị nên lèo lái, hướng dẫn các chức sắc, hội viên, các hàng thiện nam tín nữ tu học cho đủ hai môn Phước và Huệ thì quí vị mới khỏi ngỡ ngàng khi gặp lại Đức Giáo chủ Minh Trí nơi Long Hoa Tràng sau nầy.

QUẢ VỊ BỒ-ĐỀ
Quả vị Bồ-đề là chỗ tu chứng rốt ráo viên mãn của chư Phật, chỗ ấy không còn dùng ngôn ngữ, tư tưởng để tầm kiếm hiểu biết. Chỉ có Phật với Phật mới hiểu nhau mà thôi, nhưng lại chỗ tuyệt đối ấy là nguồn gốc sanh ra Trời đất, vũ trụ vạn vật.
Kinh nói: Trước khi chưa có Trời đất là một khối Hồng Mông hỗn độn,(5) tạm gọi là nhứt khí Tiên thiên, vô hình, vô tướng, nào đâu có vũ trụ vạn vật bao la vô cùng vô tận, cùng thế giới, chúng sanh. Nay vì bất giác mê chơn, khởi vọng niệm nên mới có Sơn hà, đại địa và vạn vật. Vọng niệm ấy gọi là Vô minh bất giác.
Kính thưa quí vị Đạo tâm, động đến vấn đề nầy thì năm châu thế giới, các bực Thánh nhơn, các hàng trí thức, học giả, đua nhau nêu lên các câu hỏi thắc mắc quan trọng như dưới đây:
1. Nếu nói trước khi sanh ra Trời đất thì cái Bản thể đó là Nhứt khí Tiên thiên. Vậy xin hỏi cái gì sanh ra Nhứt khi Tiên thiên?
Đáp: Nhứt khí Tiên thiên là Thái cực, Thái cực do Vô cực hay là Hư vô Tiên thiên khí sanh ra.
Hỏi: Vậy Vô cực do cái gì sanh ra?
Đáp: Tự hữu, hằng hữu, nghĩa là tự nó có và hằng có hoài.
Đáp như thế là nhìn nhận cái thuyết tự nhiên rồi, nhưng trong kinh Thủ Lăng Nghiêm Đức Phật bác hẳn cái lý tự nhiên và nhơn duyên. Nếu đem câu hỏi nầy mà hỏi ông Duy Ma Cật thì chắc có lẽ ông cũng nín thinh mà thôi. Ôi! Giải quyết không được vấn đề nầy mà đòi chứng quả ngôi Diệu Giác sao đặng, nghĩa là phá mê tận gốc chưa nổi đó.
2. Nếu nói Nhứt khí Tiên thiên là vô hình, vô tướng, thường thanh, thường tịnh, bất sanh, bất diệt sao lại có Vũ trụ, vạn vật vô tình nhẩn đến hữu tình?
— Đáp:
a) Có một luận thuyết như vầy: Nhứt khí Tiên thiên lúc đó là một khối Hồng Mông hỗn độn, bỗng nhiên phát hiện ra một vừng Đại Quang Minh. Cái Quang Minh ấy mới phân ra thanh và trược. Hễ thanh thì nhẹ nhàng bay lên làm Trời, còn trược thì nặng nề chìm xuống làm đất. Từ đó mới nối tiếp sanh ra muôn vàn sự vật thế giới, nhân sinh.
b) Đạo Lão đáp: Đối với Nguyên thuỷ Vũ trụ, Đức Lão Tử chỉ quan niệm là Đạo. Nó vốn là một sự hỗn hợp mà thành, nó sinh ra trước Trời đất, vừa trống không, vừa yên lặng, đứng yên không biến đổi, trôi đi khắp mà không thôi, có thể làm mẹ đẻ của thiên hạ. Ta không thể biết tên nó là gì, phải đặt tên là Đạo và gượng gọi nó là Đạo. Như vậy theo Đức Lão Tử, vật Nguyên thuỷ sanh ra Vũ trụ vạn vật, vẫn là một vật không tên, hay đúng hơn là chưa có tên mà Ngài cưỡng danh gọi là Đạo.
c) Khoa học đáp: Từ thế kỷ 19, khoa học tìm thấy tất cả vật chất đều do 92 nguyên tố hoà hợp lại mà thành, theo từ đơn vị gọi là nguyên tử.(6) Sau người ta tìm thấy một nguyên tử bao hàm điện tử và chất tử nữa. Rồi dần dần họ lại phân tích đến điện lực và năng lực cũng như quang tuyến vô hình. Như vậy đơn vị cuối cùng của vật chất chưa phải là nguyên tử và cũng chưa chắc nó là điện tử, chất tử, vì điện tử nó chỉ là một điện tử lực vẫn quay tít, bay vùn vụt, đi đi lại lại không ngừng, nó có thể là Quang tuyến mà cũng có thể bị tiêu diệt ngay. Vậy đối với vấn đề vật chất là gì, khoa học ngày nay chưa có một quan niệm rốt ráo về nó.
d) Đạo Phật đáp: Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, ông Phú Lâu Na hỏi Phật: Tánh Như Lai Tạng là thanh tịnh bản nhiên, mà sao lại thoạt nổi lên núi, sông, đất liền và các tướng hữu vi?
Đức Phật đáp: Do Vô minh.
Ông Phú Lâu Na hỏi thêm: Nếu Vô minh là nguyên nhơn sanh ra vạn pháp, vậy cái gì sanh ra Vô minh?
Đức Phật đáp: Do Vọng minh (chấp sáng).
Vậy nên biết một niệm vọng minh là ông Tổ của tất cả các tướng hữu tình và vô tình vậy. Nên hễ một niệm vọng minh khởi thì làm ra thế giới, trong một niệm tối tăm thì thành ra hư không. Thế thì thế giới sắc tướng, hư không bao gồm vạn vật, vũ trụ từ vô hình đến hữu hình, sở dĩ có cũng đều do một niệm vọng minh sanh ra mà thôi (Thủ Lăng Nghiêm).
Nếu có người thắc mắc hỏi thêm:
— Cái niệm vọng minh ấy lại do cái gì sanh ra?
Đáp:
— Do vô minh sanh ra vì bởi mê muội, tối tăm (mê chơn) mới chấp sáng. Cái chấp sáng đó là vô minh rồi. Đáp như thế tức là dùng lý tương đối, còn đứng về mặt Bản thể với Hiện tượng sâu xa hơn, là đáp: Cái vọng niệm vọng minh ấy (có niệm) do vô niệm sanh ra, tức là do Bản thể sanh ra Hiện tượng.
Còn đứng về mặt Viên dung Bình đẳng thì Vọng minh tức là Vô minh, Vô minh tức là Vọng minh, Bản thể tức là Hiện tượng, Hiện tượng tức là Bản thể, tuy hai mà là một, tuy một mà là hai, không hai, không sai, không khác, không trong, không ngoài, nên nói Thể, Dung, Tánh, Tướng Như như bình đẳng. Nếu đáp theo lý tuyệt đối thì không phải Hiện tượng, không phải Bản thể, không phải có niệm, không phải vô niệm, tức là phải nín thinh, chỉ chỗ bặt đường ngôn ngữ, hết chỗ nghĩ lường, nhưng tuỳ duyên độ lấy chúng sanh mà nói là có niệm, không niệm, có Bản thể, có Hiện tượng, có Sanh tử, có Bồ-đề thiệt tướng rõ ràng chiếu soi trùm khắp Vũ trụ vạn vật.

HOA BÁT-NHÃ, TRÁI BỒ-ĐỀ
Trong kinh Kim Cang Chư Gia, nhơn dịp người anh của ông Xung Ứng xem kinh Viên Giác, đưa cho ông coi mà nói: Cổ nhơn có nói rằng:
      Xanh xanh tre sậm vốn thiệt Chơn-như,
      Mơn mởn hoa vàng há không Bát-nhã.
Chơn như, tre sậm một loài, bởi không nhiễm sắc, thinh, hương, vị. Bát-nhã hoa vàng một thể, vì chẳng chấp Kiến, Văn, Giác, Tri.
Ông Trần Hùng nói: Ba-la-mật có sáu pháp, nhưng chỉ có Bát-nhã hay sanh tám muôn bốn ngàn Trí huệ, thì do sáu độ gồm đủ, muôn hạnh vẹn toàn. Cho nên Như Lai dùng cái đục Trí huệ soi núi Nhơn ngã, dùng sức Trí huệ khai khoáng phiền não, dùng lửa Trí huệ thét nên vàng ròng (Phật tánh). Do lẽ đó, chúng ta phải lo tu Huệ không dụng pháp mà công phu, vì còn dụng pháp mà công phu tức là lối tu của bực Tiểu thừa. Có câu: “Nhơn Thiên ái ngã, Nhị thừa ái pháp.”
Ông Trần Hùng giải chữ Phật là Giác (Phật tánh). Giác trong Tâm không các vọng niệm, Giác ngoài cảnh chẳng nhiễm lục trần, chớ đâu có bảo tu thiền, tu định, tu tịnh, tu niệm, tu thần thông, hay thả lỏng cho Tâm thức chạy rong theo cảnh trong, mà lại khen là huyền, là diệu, vì Phật tánh của ta không có những thứ ấy.
Tổ Huệ Năng nói: Thiền định và giải thoát không phải là Phật pháp. Bực thượng tu, ngoài ở nơi tướng mà lìa tướng, trong ở nơi không mà lìa không. Phật còn là thừa rồi, huống chi những cái gì khác. Vả lại, Phật là một vị Giáo chủ, chẳng phải tướng mà hiện tướng là Ứng thân Phật, Tướng mà chẳng phải tướng là Báo thân Phật, chẳng phải tướng, chẳng phải không tướng là Pháp thân Phật.
Phật đã là thừa thì pháp lại có thể có hay sao? Nên Đức Thế Tôn bảo ông Tu Bồ Đề rằng:
“Tu Bồ Đề, bằng có pháp chi mà Như Lai đặng đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thì Phật Nhiên Đăng chẳng thọ ký cho Ta qua đời sau hẳn đặng làm Phật. Bởi thiệt chẳng có pháp chi mà đặng Đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cho nên Phật Nhiên Đăng mới thọ ký cho như vầy: Ngươi qua đời sau hẳn đặng làm Phật, hiệu Thích Ca Mâu Ni.”

Hỏi: Nếu nói Phật là thừa, như vậy chẳng có Phật hay sao? Nếu có Phật thì Phật ấy là cái gì?
Đáp: Tâm mình là Phật, chẳng có Phật nào khác. Nếu nói ngoài Tâm có Phật, thì Phật ấy là giả, nên nói rằng thừa.
Hỏi: Nay chính khi vọng niệm khởi, Phật tại chỗ nào?
Đáp: Nay khi biết vọng niệm khởi, biết ấy chính là Phật. Vì thế nếu không có vọng niệm thì Phật cũng không. Tại sao vậy? Vì mình khởi Tâm chấp thấy Phật, bèn bảo có Phật, nên thành cái chấp thấy chúng sanh, bèn bảo có chúng sanh nên độ. Khởi Tâm niệm Phật, bèn bảo có cõi Cực lạc nên vãng sanh. Khởi tâm động niệm thảy là chỗ thấy biết của mình. Nếu không tất cả thấy biết, thì Phật ở chỗ nào? Như Đức Văn Thù Sư Lợi vừa khởi thấy Phật, liền liếc thấy hai ngọn núi Thiết vi.
Hỏi: Nay chính khi ngộ, Phật ở chỗ nào?
Đáp: Hỏi từ đâu đến, biết từ đâu khởi, nói, nín, động tịnh, tất cả sắc thinh đều là Phật sự, chỗ nào lại tìm Phật. Chỉ chớ sanh kiến chấp khác thì núi là núi, nước là nước, tăng là tăng, tục là tục, núi sông, quả đất, mặt trời, mặt trăng, sao, thảy đều không ngoài Tâm mình. Ba ngàn thế giới, trọn là tự thể của mình, chỗ nào có nhiều thứ? Ngoài Tâm không pháp, khắp thấy núi xanh, hư không thế giới rõ ràng, mà không có bằng mảy tơ, sợi tóc cho mình sanh hiểu biết, nên nói: Tất cả sắc thinh là mắt Huệ của Phật. Pháp không khởi riêng, nương cảnh mới sanh, vì vật nhiều có trí nhiều. Trọn ngày nói mà chưa từng nói, trọn ngày nghe mà đâu từng nghe. Đức Thích Ca 49 năm nói pháp mà chưa từng nói một chữ.
Hỏi: Nếu vậy chỗ nào là Bồ-đề?
Đáp: Bồ-đề cũng không phải chỗ, Phật cũng không được Bồ-đề, chúng sanh cũng không mất Bồ-đề. Không thể do thân mà được, không thể lấy Tâm mà cầu, tất cả chúng sanh tức là tướng Bồ-đề.
Hỏi: Thế nào là phát tâm Bồ-đề?
Đáp: Bồ-đề không sở đắc, nay mình chỉ phát Tâm không sở đắc, quyết định không được một pháp, tức là Tâm Bồ-đề. Bồ-đề không có chỗ trụ, thế nên không có chỗ đắc. Nên nói: Ta ở nơi Phật Nhiên Đăng không có một chút pháp nào có thể được, Phật liền thọ ký cho Ta. Biết tất cả chúng sanh vốn là Bồ-đề, không lẽ lại được Bồ-đề. Nay nghe nói phát Tâm Bồ-đề, bèn cho là có một Tâm học làm Phật. Chỉ nghĩ làm Phật dù có tu ba A-tăng-kỳ kiếp cũng chỉ là Báo thân, Hoá thân, cùng với Phật Chơn tánh Bản nguyên có gì liên hệ?
(Hoàng Bá Đoạn Tế Thiền sư Uyển Đăng Lục)

SỰ TU CHỨNG QUẢ VỊ BỒ-ĐỀ
1. Bực Tối thượng: Kinh nói: “Bất tri bổn tâm, bất thức bổn tánh, học pháp vô ích. Nhược tri bổn tâm, thức tự bổn tánh, tức danh Đại trượng phu, Thiên Nhơn sư, Phật.” Nên chỉ trong một câu, một lời nói, một niệm, liền thể nhập Chơn-như, chứng quả thành Phật, chẳng cần lịch kiếp tu hành. Bực ấy ví như người lực sĩ quên hạt châu trên trán, hướng ra ngoài tìm kiếm, chạy khắp mười phương, trọn không thể được. Gặp người trí chỉ cho liền thấy bảo châu như cũ. Để cho dễ nhận thức, chúng tôi xin thí dụ sau đây: Mình đang ngồi niệm Phật, chợt có người nói: Thể của niệm Phật là vô niệm, mình bèn ngộ chỗ vô tâm, quyết định biết tất cả pháp vốn không sở hữu, cũng không sở đắc, không y, không trụ, không năng, không sở, không động vọng niệm, liền chứng quả Bồ-đề. Phải biết bực nầy đã trải qua vô lượng kiếp học Pháp bảo rồi, nay mới đặng như vậy.
2. Bực tu thứ lớp: Bực nầy không trực chỉ nhơn tâm, kiến tánh thành Phật liền được, nên phải tu học có thứ lớp, nghĩa là lần lần tu tiến cho đến khi chứng được quả vị rốt ráo.
Muốn tu chứng được quả vị Vô thượng Bồ-đề, lẽ cố nhiên phải biết Tâm bất giác. Tâm bất giác có ba tướng tế và sáu tướng thô, nên gọi là Tam tế, lục thô. Nơi đây chúng tôi không còn nói đến sự đoạn trừ Lục thô, chỉ nói về phá ba tướng tế mới chứng được quả Phật.
Ba tướng tế ấy là:
a) Nghiệp tướng vô minh: Do vô minh bất giác sanh tâm vọng động.
b) Chuyển tướng vô minh: Do tâm vọng động nên chuyển Tạng không Như Lai làm Thức tánh (Tạng thức) cũng gọi là tâm năng kiến.
c) Hiện tướng vô minh: Vì có tâm năng kiến (năng phân biệt) nên cảnh bị phân biệt hiện ra, tức là sở kiến, cũng gọi là Tướng phần.
Muốn phá ba tướng tế nầy, lẽ cố nhiên phải dùng Thỉ giác đến Cứu cánh giác. Thỉ giác lại có bốn lớp từ thô đến tế là Sanh, Trụ, Dị, Diệt.
Chúng tôi chỉ nói về chỗ giác ngộ niệm Trụ để trừ tâm năng sở, rồi mới đến chỗ giác ngộ niệm Sanh để trừ Nghiệp tướng vô minh chứng quả Bồ-đề.
GIÁC NGỘ NIỆM TRỤ
Bồ-tát phá một phần vô minh thì chứng được một phần Pháp thân, gọi là Sơ địa. Phá hai phần vô minh thì chứng được hai phần Pháp thân, gọi là Nhị địa. Cho đến phá mười phần vô minh thì chứng được mười phần Pháp thân, gọi là lên Thập địa. Vì phá vô minh từng phần nên gọi là Tuỳ phần giác.
Các vị Bồ-tát nầy ban sơ còn trụ ở năng sở đối đãi nên gọi là trụ tướng vô minh. Đến khi nhập Chơn-như quán, chỉ nhứt tâm Chánh niệm Chơn-như, chứng đặng Pháp thân thanh tịnh, không còn năng sở đối đãi nữa, không còn tướng niệm trụ, tức là trừ được Chuyển tướng vô minh.
GIÁC NGỘ NIỆM SANH
Bồ-tát bực Đẳng giác, giác ngộ đặng niệm sanh, tức là phá trừ được Sanh tướng vô minh, nghĩa là đang khi tu hành, đến lúc Chơn cùng hoặc tận, tột bực Thập địa, chứng bực Đẳng giác, liền dùng trí Kim Cang đoạn trừ sạch Sanh tướng vô minh. Trí Kim Cang chỉ cái lý thấu được thật tướng. Thật tướng ấy như chất Kim Cang rắn chắc bền bỉ, không hư hoại, không hao kém, như gươm bén phá vỡ hết các tướng cùng các sự chấp trước. Ấy là giác ngộ niệm Sanh, xa lìa các vọng hoặc vi tế và nhứt niệm hiệp với Chơn thể Chơn-như, chứng được quả Diệu Giác thành Phật gọi là Cứu cánh giác, tức là quả vị A-nậu-đa-la Tam-miệu-tam-bồ-đề, hay là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, gọi tắt là quả vị Bồ-đề tương đương với sự chuyển Vô Cấu thức hay Ym-ma-la thức, hay Bạch tịnh thức thành Pháp giới Thể tánh Trí.
Chừng ấy toàn thể của thức đều tiêu tan, nhưng còn trí, mà trí cũng hết đối đãi thì lần lần cũng mất, trở thành cái Tạng Đại quang minh y như xưa.
Than ôi! Trải qua bao nhiêu cuộc tang thương biến đổi, để rồi cuối cùng tu thành Phật cũng chẳng thấy có chi thêm có chi bớt hết (có nói trong bài Giác).

PHẦN KẾT LUẬN
Kính thưa quí vị, Quả vị Bồ-đề là chỗ rốt ráo, viên mãn cao sâu mầu nhiệm, phải dùng ba nhơn tu chứng mới đắc quả thành công.
1. Chánh nhơn: Tâm Chơn như là cái nhơn chánh để thành Phật chớ không phải dùng Tâm thức hư vọng mà cầu được.
2) Duyên nhơn: Phật, Bồ-tát và kinh sách là trợ duyên để thành Phật.
3) Liễu nhơn Phật tánh: Là chánh nhơn và duyên nhơn đầy đủ mới làm cho hành giả liễu ngộ Phật tánh của mình.
LỜI PHỤ: Trong thời kỳ mạt pháp nầy, chúng sanh phần nhiều phước mỏng nghiệp dày, làm sao mà tu hành đến ngôi Diệu giác nổi? Phần thì phải trả nghiệp, nhồi quả trong vô lượng kiếp đã lỡ gây ra, nên chi thây chất thành non, máu chảy thành suối. Đành rằng chúng sanh đã sẵn có chánh nhơn là Tâm Chơn-như, duyên nhơn là Đức Di Lặc ra đời lập Hội Long Hoa. Các hàng Bồ-tát, Giáo chủ viết kinh, thuyết pháp dạy dỗ, nhưng chúng sanh cũng không đủ khả năng để đi đến chốn.
Biết rõ như thế nên Đức Giáo chủ Minh Trí phải quyền dạy từ thấp lên cao. Trước hết Ngài dạy phần Nhơn đạo, hành Lễ Bái Lục Phương và pháp môn niệm Phật dễ nhớ dễ tu, hợp với thời kỳ đó chưa có ai hiểu biết kinh kệ gì hết. Lần lần Ngài dạy qua Phật đạo cũng từ từ, khởi đầu là pháp Thọ Tam qui, Trì Ngũ giới và Tịnh Tam nghiệp (bực hạ). Kế tiếp pháp Trừ Lục căn, Diệt Lục trần (bực trung). Và sau cùng là pháp Lục độ ba-la-mật tức là thực hành Phước Huệ Song Tu, vì có Phước túc, Huệ túc mới là cái phương châm làm được Phật. Đó là Liễu nhơn Phật tánh, là sự liễu ngộ Phật tánh của mình.
Nam Mô A-Di-Đà Phật, kính thưa quí vị, điều cần ghi nhớ là trước khi viên tịch, Đức Từ phụ Giáo chủ còn lưu lại Huấn từ như trên đã nói, hầu khuyến khích chúng ta nên mạnh dạn và mau tiến đến quả vị bất thối.
Ôi! Biển rộng sông dài, vũ trụ bao la, nhưng không so được lòng Từ bi bác ái của một vị Giáo chủ đối với chúng sanh, một đấng Cha lành đối với đàn con dại. Sở dĩ chúng tôi nhắc lại Huấn từ của Đức Giáo chủ là để cho quý vị nhớ thực hành đầy đủ hai môn đặng vào trường thi Long Hoa Thắng Hội, chiếm cho đặng bảng vàng, làm vẻ vang cho Tịnh Độ Cư Sĩ Phật Hội Việt Nam, rạng danh cho Thầy Tổ, cũng tức là đắc được quả vị Bồ-đề. Ấy là báo hiếu cho Đức Giáo chủ Minh Trí đó quí vị.
Và quí vị nên biết, bài pháp nầy nói về bực Tối thượng Chánh đẳng Chánh giác, nên chúng tôi phải phá các pháp tu thiền, tu định, tu niệm, tu Phước hữu lậu… chớ không phải chúng tôi dám bài bác các pháp tiệm tu ấy. Vì các pháp ấy cũng do Phật, Thánh, Tiên dạy… Vậy nên bực nào Giác ngộ, thực hiện được Đốn pháp thì cứ tiến tu, còn bực nào chưa kham phải giữ tu các Tiệm pháp, nhưng cố gắng đừng trụ một chỗ mà khó tiến lên được… Trong 37 phẩm Trợ đạo, Đức Phật cũng có dạy là phải xả cái pháp mình đã tu chứng rồi, để tu tiến lên quả vị cao hơn nữa.
Trước khi dứt lời, chúng tôi thành tâm cầu nguyện cho Âm siêu, Dương thới, lưỡng lộ tồn vong tổng giai thành Phật đạo.

I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1)    Tâm vô trước: Tâm không chấp tướng, không trụ tướng, không thủ tướng, không nhiễm tướng v.v…
(2)    Vĩ lư hay vĩ cung: đốt xương chót cuối xương sống dưới mông (danh từ Tiên đạo).
(3)    Giáp tích: Xương sống (danh từ Tiên đạo).
(4)    Nê hoàn: là đảnh đầu, điểm cao nhứt trong cơ thể con người, cũng gọi là Thiên môn (danh từ Tiên đạo), bên Phật học từ điển thì gọi là Niết bàn.
(5)    Hồng mông hỗn độn: Một thể rộng lớn mênh mông lộn xộn chưa phân ngôi thứ.
(6)    Nguyên tử: Phần nhỏ nhứt của vật chất gồm có dương tử (proton), trung hoà tử (neutron) và điện tử (électron) hay âm tử. Dương tử và trung hoà tử cấu thành cái nhân mà điện tử quay chung quanh.

II. PHẦN VẤN ĐÁP
1)       Tại sao trong bảy chỗ hỏi lòng (Tâm) ông A-nan trả lời Tâm ở trong, ở ngoài, nép trong con mắt, ở cả trong ngoài, ở khoảng giữa, vô trước, đều bị Phật bác hết?
         Vì bảy chỗ ấy có chỗ trụ, chỗ chấp đều thuộc về vọng tâm chớ không phải chơn tâm nên Phật đều bác hết.
2)        Trong lúc tu hành ai ai cũng phải lạy Phật, niệm Phật, làm phước thiện hoặc như bên Tiên gia luyện các phép thần thông huyền diệu tuyệt vời, còn các cõi Trời Vô-sắc-giới tu pháp thiền định của Đức Phật dạy tới chỗ cao sâu, chứng đặng cái Tâm không, còn bực A-la-hán chứng đặng Niết bàn tịch diệt mà không thành đạo Bồ-đề được hay sao?
           Vì còn dùng cái ý thức để tu, để công phu, hay diệt cái ý thức để chứng quả hoàn diệt, tất cả đều còn trong vòng tạo tác hay chấp không, chớ đâu phải cái Đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác của Đức Như Lai. Tu nhơn không thiệt thì chỗ chứng quả làm sao Chơn? Lấy cát nấu mà muốn thành cơm sao được.
3)        Trường Long Hoa đã mở, làm sao chiếm cho được bảng vàng?
           Phải tu Phước ba-la-mật và Huệ ba-la-mật vì Phước Huệ Song Tu là Lục độ ba-la-mật. Không có sáu chiếc đò lớn nầy khó đến đặng bờ bên kia (bờ Đại Giác của chư Phật) ắt còn phải bị nhận chìm trong biển khổ, sông mê muôn ngàn ức kiếp nữa. Khổ thay! Thương thay!
4)        Quả vị Bồ-đề nghĩa là gì?
           Là chỗ tu chứng rốt ráo viên mãn của chư Phật. Chỗ ấy không còn dùng ngôn ngữ, tư tưởng để tầm kiếm, hiểu biết. Chỉ có Phật với Phật mới hiểu nhau mà thôi, nhưng lại chỗ tuyệt đối ấy là nguồn gốc sanh ra Trời đất Vũ trụ muôn vật. Đó cũng là cái tâm chung của muôn loài vạn vật vậy.
5)        Nói như thế thì cái Tâm ta, Phật cùng vạn vật là cái Bản thể của Vũ trụ hay sao? Nếu đúng như vậy thì cái tâm hiểu biết ở trong thân nầy là cái gì, không phải cái tâm của ta sao?
           Cái tâm hiểu biết ở trong thân ta là cái vọng tưởng hư dối bị nhốt trong thân như tên tù bị nhốt trong ngục thất. Chúng sanh ai ai cũng nhận lầm thằng giặc ấy làm con nên mới nông nỗi bị nó dẫn dắt lăn lộn trong ba đường, sáu nẻo, không có ngày thảnh thơi. Ấy cũng tại chúng sanh mê chơn mà bỏ cái thể nguyên minh rộng lớn của mình để cam đành theo giặc là vậy. Hãy nghe một trong năm bài kệ của đức Đạt Ma Tổ sư trong Ngộ Tánh Luận như vầy:
                     Canh ba tâm tịnh sánh hư không,
                     Rộng khắp mười phương đâu chẳng thông
                     Tường vách núi sông không cản ngại
                     Bao la Vũ trụ tự nơi trong
                     Tánh của Càn khôn là Phật tánh
                     Cũng không Bổn tánh tức hàm dung
                     Nào phải riêng đâu chư Phật được
                     Hữu tình muôn loại vẫn chung đồng.
6)        Muôn loài vạn vật vũ trụ đều đồng nhau một Tâm nầy, tại sao đồng một Bản thể rộng lớn lại sanh ra muôn loài sai khác?
           Đức Phật nói do một niệm vọng minh là Ông Tổ của các tướng hữu tình và vô tình. Hễ một niệm vọng minh khởi thì làm ra thế giới, còn một niệm tối tăm thì thành ra hư không. Thế thì thế giới sắc tướng hư không bao gồm vạn vật vũ trụ từ vô hình đến hữu hình, sở dĩ có cũng đều do một niệm vọng minh sanh ra mà thôi. (Kinh Thủ Lăng Nghiêm).

III. PHẦN TOÁT YẾU
Quả vị Bồ-đề là chỗ tu chứng rốt ráo của chư Phật không còn năng sở đối đãi cũng gọi là Bản giác, Chơn giác hay Phật tánh sẵn có.
Ông A-nan tuy tu chứng đặng sơ quả Tu-đà-hoàn nhưng chưa ngộ đặng Tâm nầy, thành thử Phật hỏi ông bảy lần về Bổn Tâm của ông. Ông đáp ở trong, ở ngoài, ở giữa v.v… đều bị bác hết vì còn có chỗ trụ. Không thể dùng cái Tâm thức để công phu tu chứng quả vị Bồ-đề được mà phải ngộ Bổn Tâm, Bổn Tánh tức là thấy Tánh thành Phật, không cần tu trong A-tăng-kỳ kiếp. Bổn Tánh của Ta rộng lớn bao trùm muôn sự muôn vật chớ chẳng phải cái Tâm thức nhỏ hẹp trong thân Ta đâu, Bổn Tánh ấy tức là Bản thể của vũ trụ vạn hữu, Phật, chúng sanh cùng muôn loài hữu tình cũng như vô tình đều đồng chung nhau một Bổn Tâm nầy chớ không phải riêng đâu chư Phật được.
Muốn đặng thấy Tánh thành Phật hay tu chứng cho được Bổn Tâm nầy thì phải thật hành Phước Huệ Song Tu tức là môn tu Phước ba-la-mật và môn tu Huệ ba-la-mật, vì Phước Huệ Song Tu của Đức Giáo chủ Minh Trí chỉ dạy là Lục độ ba-la-mật vậy. Có đủ Phước túc và Huệ túc, chắc chắn vào được Hội Long Hoa và chiếm bảng vàng rạng danh muôn thuở và vì lẽ đó rất cần, nên đức Ngài trước khi viên tịch để Huấn từ lại dặn rằng:
TINH TẤN THỰC HÀNH PHƯỚC HUỆ SONG TU LÀ LÊN ĐƯỜNG GIẢI THOÁT. TINH TẤN THỰC HÀNH PHƯỚC HUỆ SONG TU LÀ ĐƯỜNG VỀ CỰC LẠC. Rồi còn nhấn mạnh: TÔI THA THIẾT KHUYÊN NHỦ TẤT CẢ LỚN NHỎ, NAM NỮ GHI LẤY, NHỚ LẤY.
Nếu không ghi lấy, nhớ lấy, không thực hành đầy đủ Phước Huệ Song Tu thì sẽ ra sao các Ngài?

BÀI TẬP
1. Ông A-nan nhắc lại với Phật: Lúc trước tôi thấy Phật cùng ông Tu-bồ-đề, ông Phú-lâu-na, ông Mục-kiền-liên, ông Xá-lợi-phất thường nói cái Tâm tri giác phân biệt ấy chẳng ở trong, chẳng ở ngoài và chẳng ở chặng giữa. Hễ nhứt thiết đều không trước cả thì gọi là Tâm. Vậy thì Cái mà tôi không trước ấy có thể gọi là Tâm được không?
Xin giải thích rành rẽ hai câu in chữ nghiêng và xin nói rõ chỗ sai biệt của hai câu ấy.
2. Xin giải thích câu: Như Đức Văn Thù Sư Lợi vừa khởi thấy Phật, liền liếc thấy hai ngọn núi Thiết vi?
3. Xin giải thích câu: Chỉ chớ sanh kiến chấp khác thì núi là núi, nước là nước, tăng là tăng, tục là tục, núi sông, quả đất, mặt trời, mặt trăng, sao, thảy đều không ngoài Tâm mình?
4. Tất cả Sắc Thinh là con mắt Huệ của Phật nghĩa là gì?


— H Ế T —

                                                 Nam Mô Long Hoa Thượng Hội Di Lặc Tôn Phật.
                                                 Kính Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.