Thứ Hai, 17 tháng 2, 2020

GIÁO LÝ CĂN BẢN CẤP 3




TỊNH ĐỘ CƯ SĨ PHẬT HỘI VIỆT NAM


GIÁO LÝ CĂN BẢN
CẤP 3

(TÀI LIỆU DÙNG ĐỂ ĐÀO TẠO THUYẾT TRÌNH VIÊN)


Ban Soạn thảo:
pgs. Như Tâm – pgs. Liễu Như
Lương Văn Lang – Nguyễn Ngọc Thanh

Biên soạn chính: pgs. Liễu Như

1970

————————————————

Thay lời tựa

Chúng tôi nhận thấy rất kém tài, thiếu đức, nên chẳng dám tự phụ đem những điều hiểu biết thiển cận của mình để hướng dẫn chư huynh đệ, tỷ muội trong Giáo hội trên đường tu Huệ, học hỏi về Giáo lý Phật đà, sợ e lỗi với Đức Phật và Đức Giáo-chủ Minh Trí trong khi còn nương tựa nơi cõi Ta bà này và dưới mái chùa Tịnh Độ của Đức Giáo-chủ Minh Trí đã dày công sáng lập. Chúng tôi luôn luôn nhớ ơn Phật và Thầy Tổ, nên nguyện chẳng dám bỏ Nội qui Ban Đạo Đức của Đức Giáo-chủ, nguyện y theo những lời vàng ngọc đã dạy bảo của Đức Giáo-chủ trong Nội Qui ấy mà thực hành mới gọi là phụng mạng và trung thành với Đức Ngài.
Vì những lý do trên đây, nên chúng tôi phải dùng đường lối dạy Đạo của Đức Phật và Đức Giáo-chủ Minh Trí để giúp đỡ phần nào cho quí Ông, quí Bà cùng Anh, Chị, Em trong Giáo hội học tập Đạo Đức như Thánh ý của Đức Giáo-chủ Minh Trí đã dạy bảo. Toàn thể Giáo hội, anh chị em chúng ta nhớ ơn Chư Phật và Thầy Tổ không thể thờ ơ với vấn đề tu Huệ được. Quên lời dạy này là quên ơn Phật và Thầy Tổ.
Thầm nghĩ, học Phật mà không học theo đường lối, cách thức của Phật và Đức Giáo-chủ Minh Trí đã chỉ dạy thì làm sao thấu triệt nhanh chóng được cái chánh pháp vi diệu, thậm thâm của Đức Như Lai và Đức Minh Trí Giáo-chủ.
Hai đường lối này đồng như một mà quí vị đã thấy rõ trong lúc học Khoá huấn luyện Đạo Đức.
Trong Kinh Kim Cang, Chư Tổ giải chữ Kinh là con đường tắt của Phật chỉ thẳng vào Tâm người đặng minh tâm kiến tánh thành Phật.
Thế mà bỏ con đường tắt này để theo nẻo quanh co của bậc phàm phu, biết đời nào tu học đến nơi, đến chốn mà được tự tại giải thoát.
Chúng tôi chẳng bao giờ dám có ý nghĩ soạn thảo bài vở Đạo Đức với tài hèn đức bạc của mình, vì đây là một ngành chuyên môn mà chúng tôi lại thiếu khả năng phương tiện. Vả lại, chúng tôi chẳng có trách nhiệm trong Ban Soạn thảo của Trung Ương. Song vì hoàn cảnh hiện tại của Giáo hội và nhiệm vụ Giảng huấn, Hoằng pháp của Trung Ương giao phó trong niên khoá 1969-1970, không có tài liệu giảng huấn nên đành phải bạo dạn đem cái đường lối dạy Đạo của Đức Phật và Đức Giáo-chủ Minh Trí ra để làm phương tiện nhứt thời.
Áp dụng đường lối dạy Đạo này, chúng tôi phân ra làm ba cấp (I, II, III) để giảng huấn. Trong cấp I chúng tôi giảng tổng lược giáo pháp của ba cấp ấy để Thuyết-trình-viên hiểu biết được phần nào về Phật pháp, vừa đủ làm nhiệm vụ của mình cho tròn đối với Thầy Tổ và Giáo hội.
Viết bài cho Thuyết-trình-viên học mau tỏ thông Phật pháp và có kết quả trong khoá học chỉ có hơn mười ngày là một việc rất khó; còn huấn luyện học viên trở thành một Thuyết-trình-viên Đạo Đức chuyên môn cũng với thời gian ấy lại càng khó hơn nữa.
Trong giai đoạn mà trình độ người học Phật của phần đông tín đồ còn quá thấp kém, không thể tự mình cầm một quyển Phật-học đọc hiểu được, và đủ sức giảng giải lại cho người khác nghe, thì Ban Giảng huấn và Ban Hoằng pháp phải đóng một vai tuồng hết sức quan trọng vì bài soạn thảo dù đặc tài đến đâu mà học viên còn quá kém cũng đành phải xếp cất trong tủ kinh, nếu thiếu Ban Giảng huấn và Ban Hoằng pháp.
Công việc của Ban Giảng huấn và Hoằng pháp mới khởi làm, còn nhiều chỗ khuyết điểm, mong nhờ quí vị học thức cao xa, hoan hỷ chỉ bảo cho những chỗ sai lầm và giúp thêm sáng kiến cho toàn thể Ban Đạo Đức của Giáo hội ra khỏi chỗ bế tắc trong bấy lâu nay. Đó cũng là nhiệm vụ thiêng liêng của Chư quí vị đối với Chư Phật và Thầy Tổ vậy.
Rất mong thay!
Chúng tôi đồng thành tâm kính bái.
Nam Mô A Di Đà Phật.
Kính Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.
                                                                                  
                                                                  BAN GIẢNG HUẤN
                                                    và HOẰNG PHÁP TRUNG ƯƠNG

————————————————

MỤC LỤC

Bài 1      Bản đồ Tứ Thánh Lục Phàm
Bài 2      Luật thăng trầm
Bài 3      Các thừa của Đạo Phật và Đường lối dạy Đạo của Đức Thế Tôn
Bài 4      Ý nghĩa và cách thức dạy Đạo của Đức Phật
Bài 5      Nhơn–Thiên thừa bực Hạ
Bài 6      Đường lối dạy Đạo bực Hạ của Đức Giáo-chủ Minh Trí
Bài 7      Pháp môn tu chứng của cõi Người phần Phật đạo
Bài 8      Pháp môn tu chứng của cõi Trời
              Phần nghe kinh bực Hạ: “Luận về phước báo và tội báo”
              Phần ôn bài bực Hạ
Bài 9      Thinh văn, Duyên giác thừa bực Trung
Bài 10    Pháp môn tu chứng của bực Trung (Thinh văn thừa)
Bài 11    Pháp môn tu chứng của bực Trung (Duyên giác thừa)
Bài 12    Đường lối dạy Đạo bực Trung của Đức Giáo-chủ Minh Trí: Trừ Lục căn, diệt Lục trần
              Phần nghe kinh bực Trung
              Phần ôn bài bực Trung
Bài 13    Bồ-tát thừa bực Thượng
Bài 14    Pháp môn tu chứng của bực Thượng
Bài 15    Đường lối dạy Đạo bực Thượng của Đức Giáo-chủ Minh Trí: Phước Huệ Song Tu
              Phần ôn bài bực Thượng

————————————————


BÀI 1

BẢN ĐỒ TỨ THÁNH LỤC PHÀM
(THẬP GIỚI ĐỒ)

TỨ THÁNH: (giải thoát)
          PHẬT
          BỒ TÁT
          DUYÊN GIÁC
          THINH VĂN

LỤC PHÀM: (sanh tử luân hồi)
          THIÊN
          NHƠN
          A-TU-LA
          NGẠ QUỈ
          SÚC SANH
          ĐỊA NGỤC

Lời giải: Tứ Thánh là bốn bực Thánh. Bốn bực này gồm có:
1. Bực Phật, 2. Bực Bồ-tát, 3. Bực Duyên giác, 4. Bực Thinh văn.
Bốn bực này tu hành đặng giải thoát tuy có chênh lệch cao thấp khác nhau, nhưng đều ở trong cảnh giới (1) giác ngộ (2) nên gọi là Tứ Thánh.
Lục Phàm là sáu cõi Phàm; sáu cõi này gồm có:
1. Thiên, 2. Nhơn, 3. A-tu-la, 4. Ngạ quỉ, 5. Súc sanh, 6. Địa ngục.
Sáu cõi này còn kẹt trong vòng sanh tử luân hồi thọ quả báo khổ vui bất đồng, nhưng đều là ở trong cảnh giới mê vọng (3) nên gọi là Lục Phàm.
Thập Giới là danh từ gọi tắt của Thập Pháp Giới, tức là mười cảnh giới (cõi) trong đó chia ra có bốn cõi Thánh và sáu cõi Phàm.
Danh từ Thập Giới xuất xứ từ Kinh Hoa Nghiêm.

I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1)    Cảnh giới: là cõi.
(2)    Giác ngộ: là hiểu biết thông suốt, hội được chơn lý, mở mang chơn trí.
         — Như phàm phu tỉnh ra nhận được thân nầy là cội khổ, bèn tinh tấn tu hành là Tiểu Giác ngộ.
         — Như Phật thành Đạo nơi cội Bồ đề lên bực chánh đẳng, chánh giác, là Đại Giác ngộ.
(3)    Mê vọng: là không tỉnh; tối tăm đối với sự và lý là , hư dối, sái quấy chẳng thật là vọng.

II. PHẦN VẤN ĐÁP
1)   Tứ Thánh nghĩa là gì? Tại sao gọi là Tứ Thánh?
       Tứ Thánh là bốn bực Thánh: Phật, Bồ-tát, Duyên giác và Thinh văn. Bốn bực này tu hành đặng giải thoát, nên gọi là Tứ Thánh.
2)   Lục Phàm nghĩa là gì? Tại sao gọi là Lục Phàm?
       Lục Phàm là sáu cõi Phàm: Thiên, Nhơn, A-tu-la, Ngạ quỉ, Súc sanh và Địa ngục. Sáu cõi này còn kẹt trong vòng sanh tử luân hồi, nên gọi là Lục Phàm.
3)   Thập giới nghĩa là gì?
       Thập giới là mười cõi, có bốn cõi Thánh và sáu cõi Phàm.

III. PHẦN TOÁT YẾU
Tứ Thánh là bốn bực Thánh tu hành đã được giải thoát, như bực Phật, Bồ-tát, Duyên giác và Thinh văn.
Lục Phàm là sáu cõi Phàm còn trong vòng sanh tử luân hồi như cõi Địa ngục, Súc sanh, Ngạ quỉ, A-tu-la, Nhơn và Thiên.
Tứ Thánh, Lục Phàm tức là Thập Giới hay là Thập Pháp Giới.

BÀI TẬP
Lựa những chữ sau đây điền vào chỗ trống trong bài cho đúng nghĩa của mỗi câu: Tứ Thánh, Thập Giới, Lục Phàm.
. . . . . . . . . . . . . . là mười cõi, có bốn cõi Thánh và sáu cõi Phàm. Bốn cõi được giải thoát gọi là . . . . . . . . . . . . . . . . . Còn bị kẹt trong vòng sanh tử luân hồi chịu quả báo vui khổ bất đồng, nên gọi là . . . . . . . . . . . . . . . .
BÀI LÀM (MẪU)
       Thp Giới là mười cõi, có bốn cõi Thánh và sáu cõi Phàm. Bốn cõi này được giải thoát gọi là Tứ Thánh. Còn bị kẹt trong vòng sanh tử luân hồi thọ quả báo vui khổ bất đồng, nên gọi là Lc Phàm.
                                                                              Nam Mô A Di Đà Phật
                                                 Kính Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.

————————————————





BÀI 2
LUẬT THĂNG TRẦM
Bản đồ Tứ Thánh Lục Phàm
chỉ chỗ Siêu và Đoạ của cõi Người

LUẬT THĂNG TRẦM
Thăng là bay lên: Một cái bong bóng được bơm vào một chất hơi nhẹ hơn không khí, bay bổng lên trời nếu ta buông thả nó ra. Ấy gọi là Thăng.
Trầm thì chìm xuống: Một cục đất cầm nơi tay, nếu ta buông nó ra thì nó rớt xuống. Nếu ta ném nó xuống nước thì nó chìm xuống đáy, vì sức nặng của nó, nên gọi là Trầm.
Cũng như thế, nếu con người không biết tu hành, chỉ lo tạo những tội nghiệp thì đến lúc chết, Thần thức nặng nề khi xuất ra khỏi thân thì phải chìm xuống (đọa).(1)
Trái lại, nếu biết Đạo Đức tu hành, lo làm các điều lành thì Thần thức được nhẹ nhàng, nên khi ra khỏi xác thân thì được Siêu(2) thăng.
Bản đồ Tứ Thánh Lục Phàm chỉ chỗ Siêu và Đoạ của cõi Người
SIÊU
Phật
Tu pháp Lục Độ Ba-la-mật hay là Phước Huệ Song Tu viên mãn
Bồ tát
Tu pháp Lục Độ Ba-la-mật hay là Phước Huệ Song Tu
Duyên giác
Tu pháp Thập Nhị Nhơn Duyên
Thinh văn
Tu pháp Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo
Thiên
Tu pháp Trừ Thập Ác, Hành Thập Thiện

Nhơn
Tu pháp Trì Ngũ Giới
ĐỌA
A-tu-la
Tâm tánh nóng nảy, hung dữ, giết hại
Ngạ quỉ
Tâm tham lam, bỏn xẻn, không bố thí
Súc sanh
Tâm hay làm việc sát sanh hại mạng
Địa ngục
Tâm phạm bốn trọng tội: 1. Bất hiếu, 2. Huỷ báng kinh sách của Thánh Hiền, 3. Giết hại người tu hành vô cớ, 4. Làm cho thân Phật chảy máu.

SIÊU và ĐOẠ:
* Nếu con người biết tu hành, giữ Ngũ Giới Cấm thì được bình, không bay lên cao cũng không sa xuống thấp, tái sanh lại cõi Người.
* Nếu tu theo pháp Thập Thiện thì được sanh lên Cõi Trời.
* Nếu tu theo pháp Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo thì sẽ được chứng quả cõi Thinh văn.
* Nếu tu theo pháp Thập Nhị Nhơn Duyên thì sẽ chứng được quả vị bực Duyên giác.
* Nếu tu theo pháp Lục Độ Ba-la-mật hay Phước Huệ Song Tu thì sẽ chứng được quả vị bực Bồ-tát và Phật.
* Trái lại, nếu con người tâm tánh còn hung dữ, nóng nảy và hay giết hại thì phải bị đoạ xuống cõi A-tu-la (cõi Quỉ thần).
* Nếu tâm tánh còn tham lam, bỏn xẻn, không chịu bố thí thì sẽ bị đoạ vào chỗ Ngạ quỉ (cõi Quỉ đói).
* Nếu hay sát sanh hại mạng thì sẽ bị đoạ vào cõi Súc sanh (cầm thú).
* Nếu phạm nhằm bốn trọng tội: 1. Bất hiếu, 2. Huỷ báng kinh sách của Thánh hiền, 3. Giết hại người tu hành vô cớ, 4. Làm cho thân Phật chảy máu; thì sẽ bị đoạ vào cõi Địa ngục.

I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1)    Đoạ: là rơi, sa xuống.
(2)    Siêu: là vượt khỏi, vượt quá. Như siêu thăng là vượt khỏi cõi Phàm lên được cõi Thánh.
II. PHẦN VẤN ĐÁP
1)       Luật Thăng Trầm nghĩa là gì?
          Luật Thăng Trầm là nhẹ thì bay lên (siêu), còn nặng thì chìm xuống (đoạ).
2)       Làm những điều gì mà con người được siêu?
          Làm phước lành thì được siêu lên.
3)       Làm những điều gì mà phải bị đoạ?
          Làm điều ác thì phải bị đoạ.
III. PHẦN TOÁT YẾU
Hễ nhẹ nhàng thì bay lên (siêu), còn nặng nề thì chìm xuống (đoạ).
Bản đồ Tứ Thánh Lục Phàm chỉ chỗ Siêu và Đoạ của cõi Người.
Con người làm lành Tâm thức được nhẹ nhàng nên được siêu thoát khi lìa bỏ xác thân, hoặc được sanh lên cõi Trời hay sẽ được về các cõi Phật.
Trái lại, nếu tạo ác nghiệp nặng nề thì tránh sao cho khỏi đoạ lạc.
BÀI TẬP
Với những chữ sau đây, tập làm thành một câu đủ ý nghĩa và gọn gàng: Siêu, Đoạ, Tội, Phước.
BÀI MẪU
SIÊU:         Người ngộ lo tầm đường siêu thoát trong sự tu hành.
ĐỌA:         Kẻ mê mãi lo tạo ác, tránh sao cho khỏi chỗ đa lạc.
TỘI:           Chiến tranh gây nhiều ti ác.
PHƯỚC:     Tu là cội phước, tình là giây oan.
                  Tịnh Độ Cư Sĩ Phật Hội VN lấy môn tu Phước để cứu độ bịnh nhân.

                                                                             Nam Mô A Di Đà Phật.
                                                 Kính Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.

————————————————


BÀI 3
CÁC THỪA CỦA ĐẠO PHẬT
và ĐƯỜNG LỐI DẠY ĐẠO
của ĐỨC THẾ TÔN

I. BẢN ĐỒ CÁC THỪA CỦA ĐẠO PHẬT



PHẬT
NHỨT THỪA
(PHẬT THỪA)
 NGŨ
THỪA
PHẬT
 GIÁO
TAM THỪA THÁNH GIÁO
BỒ TÁT


DUYÊN GIÁC
NHỊ THỪA
THINH VĂN


THIÊN



NHƠN


LỜI GIẢI:
Nhứt thừa: là Phật thừa.
Nhị thừa: là chỉ Thinh văn thừa và Duyên giác thừa.
Tam thừa Thánh giáo(1): là chỉ Thinh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ-tát thừa.
Ngũ thừa Phật giáo: là chỉ Nhơn thừa, Thiên thừa, Thinh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ-tát thừa.
Đạo Phật chỉ có Nhứt thừa là Phật thừa. Nhị thừa hay Tam thừa và Ngũ thừa chỉ là Quyền thừa.(2)
II. ĐƯỜNG LỐI DẠY ĐẠO CỦA ĐỨC THẾ TÔN
Đại thừa(3)
(9 năm)
PHẬT
Bực Thượng
(Giải thoát tuyệt đối)
BỒ TÁT
Tiểu thừa(4) (40 năm)
DUYÊN GIÁC
Bực Trung
(Giải thoát tương đối)
THINH VĂN
THIÊN
Bực Hạ
(Còn sanh tử luân hồi)
NHƠN


LỜI GIẢI:
Đức Phật ra đời dạy Tiểu thừa trước trong 40 năm, rồi sau mới dạy Đại thừa trong 9 năm.
Tiểu thừa có bốn cõi: Nhơn, Thiên, Thinh văn và Duyên giác.
Đại thừa có hai cõi: Bồ-tát và Phật.
Chúng ta có thể phân bốn cõi của Tiểu thừa và hai cõi của Đại thừa ra làm ba bực: Hạ, Trung và Thượng.
* Bực Hạ: chỉ cõi Nhơn và Thiên còn trong vòng sanh tử luân hồi.
* Bực Trung: chỉ cõi Thinh văn và Duyên giác được giải thoát trong vòng tương đối.
* Bực Thượng: chỉ hai cõi Bồ-tát và Phật, được giải thoát tuyệt đối (hoàn toàn giải thoát).

I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1)    Tam thừa Thánh giáo: là ba Quyền thừa đều được giải thoát hết, nên gọi là Thánh giáo; có Thinh văn bực Hạ, Duyên giác bực Trung và Bồ-tát bực Thượng.
(2)    Quyền thừa: Quyền đối với Phật có nghĩa là tạm, cũng có nghĩa là phương tiện hay phương pháp dùng tạm để đạt đến chỗ chơn thật mà chẳng trái với lý Đạo. Đức Phật dùng pháp môn phương tiện dạy Đạo dẫn dắt lần lần từ thấp lên cao để rồi đi đến chỗ chơn thiệt là Phật thừa.
(3)    Đại thừa: chỉ cõi Bồ-tát thừa và Phật thừa, có nghĩa là cỗ xe lớn tự chở mình và nhiều người khác đi đến nơi, đến chốn, tức là bực Tự giác, Giác tha đi đến chỗ Viên mãn.
(4)    Tiểu thừa: chỉ chung bốn cõi Nhơn, Thiên, Thinh văn và Duyên giác. Riêng bực Thinh văn và Duyên giác thì gọi là Nhị thừa.
         Tiểu thừa là cỗ xe nhỏ, tượng trưng cho giáo lý nhỏ hẹp, chỉ có phần tự giác, tự độ chứ thiếu phần giác tha, độ tha.

II. PHẦN VẤN ĐÁP
1)       Trong các Thừa của đạo Phật, Thừa nào là chơn thiệt, Thừa nào là Quyền?
          Trong các thừa của Đạo Phật, chỉ có Phật thừa là chơn thiệt, còn mấy thừa kia thuộc về Quyền thừa.
2)       Đức Phật dạy Tiểu thừa bao nhiêu năm? Và dạy Đại thừa bao nhiêu năm?
          Đức Phật dạy Tiểu thừa trong 40 năm và dạy Đại thừa trong 9 năm.
3)       Tiểu thừa có mấy cõi? Và Đại thừa có mấy cõi?
          Tiểu thừa có bốn cõi: Nhơn, Thiên, Thinh văn và Duyên giác. Đại thừa có hai cõi là Bồ-tát và Phật.
4)       Tại sao chúng ta có thể phân Tiểu thừa và Đại thừa ra làm ba bực?
           Chúng ta có thể phân Tiểu thừa và Đại thừa ra làm ba bực, vì chỗ tu chứng của ba bực này không đồng với nhau, như hai cõi Nhơn và Thiên (bực Hạ) thì còn kẹt trong vòng sanh tử, còn hai cõi Thinh văn và Duyên giác thì mới giải thoát trong vòng tương đối mà thôi. Chỉ có cõi Bồ-tát và Phật mới được hoàn toàn giải thoát.

III. PHẦN TOÁT YẾU
Đạo Phật chỉ có một thừa là Phật thừa. Nhưng vì chúng sanh trình độ rất thấp kém, không thể học liền Phật thừa nổi, nên Phật mới quyền dạy các Thừa kia.
Đức Phật dạy Đạo Tiểu thừa và Đại thừa mà chúng ta có thể phân ra làm ba bực: Hạ, Trung, Thượng cho dễ học, dễ hiểu.

BÀI TẬP
Lựa những chữ sau đây, điền vào chỗ trống trong bài cho đúng nghĩa của mỗi câu: Hạ, Trung, Thượng (4) – Nhứt thừa (1) – Đại thừa (3) – Tiểu thừa (2).
Ba thừa là giả, chỉ có . . . . . .(1) . . . . . . . . là thiệt.
Đức Phật ra đời dạy . . . . . . .(2) . . . . . . . trong 40 năm và 9 năm dạy . . . . . . (3). . . . . . . Chúng ta có thể phân các cõi trong Tiểu thừa và Đại thừa ra làm ba bực là: . . . . . . . . .(4) . . . . . . . . . . . . .

                                                                                   Nam Mô A Di Đà Phật.
                                                       Kính Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.

————————————————


BÀI 4
Ý NGHĨA
và CÁCH THỨC DẠY ĐẠO
của   ĐỨC PHẬT

Ý nghĩa dạy Tiểu thừa: Đức Phật dạy Tiểu thừa để giải quyết vấn đề chúng sanh đa khổ tức là Nhơn Sanh Quan(1) bằng cách chỉ cho chúng sanh tu học thấu rõ đặng cái lý Vô ngã (không có cái ta chơn thiệt). Chừng ấy chúng sanh mới đặng giải thoát dứt hết các sự khổ não.
Ý nghĩa dạy Đại thừa: Đức Phật dạy Đại thừa để giải quyết vấn đề Vũ Trụ Quan.(2)
Bực Tiểu thừa tuy đã đặng giải thoát nhưng chưa hoàn toàn vì còn mê chấp vạn vật trong vũ trụ là thật có (chấp pháp). Phật bèn dạy phải phá cái chấp pháp ấy, cho chúng sanh biết vạn vật (vạn pháp) vốn là hư vọng, là không. Tuy là không, nhưng vạn pháp sanh ra do nơi cái bản thể chơn thiệt của vũ trụ tức là cái Nguyên lý tuyệt đối bất sanh, bất diệt và cũng là cái Tâm chung của muôn loài vạn vật. Tỏ ngộ và tu chứng đặng cái Chơn tâm rộng lớn này mới được hoàn toàn giải thoát thành Phật.
CÁCH THỨC DẠY ĐẠO CỦA ĐỨC PHẬT
Đức Phật dạy Đạo có ba phần: Một là chỉ cho biết các Cung, các Cõi (bản đồ Tứ Thánh Lục Phàm). Hai là phần Giáo lý của mỗi bực. Ba là phần Thực hành để cầu chứng quả, tức là phần Pháp môn tu chứng của các bực ấy.

BẢN ĐỒ CÁCH THỨC DẠY ĐẠO CỦA ĐỨC PHẬT
PHẦN GIÁO LÝ
CÁC CÕI
PHẦN PHÁP MÔN TU CHỨNG
Phi sắc không nhưng bất ly sắc không
PHẬT
Viên mãn Lục độ ba-la-mật
1. Sắc không như huyễn,
2. Sắc không vô trụ,
3. Sắc không viên dung bình đẳng
BỒ TÁT
Lục độ ba-la-mật
Sắc không tương đối
DUYÊN GIÁC
Mười hai nhơn duyên
THINH VĂN
Tứ diệu đế và Bát chánh đạo
Dứt các điều ác, làm các điều lành
THIÊN
Hành Thập thiện
NHƠN
Trì Ngũ giới
Tâm tánh si mê, sân hận,
tạo các nghiệp ác, dữ
A-TU-LA
Không tu các thiện nghiệp, sống thuần bằng các tình thức mê lầm của thế gian, lại phạm thêm các trọng tội.
NGẠ QUỈ
SÚC SANH
ĐỊA NGỤC


I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1)    Nhơn sanh quan: là quan niệm về đời sống của con người. Đức Phật quan niệm đời người rất khổ (chúng sanh đa khổ). Muốn hết khổ phải tu giải thoát, muốn đặng giải thoát phải trừ ngã chấp.
(2)    Vũ trụ quan: Vũ trụ chỉ chung tất cả trời đất, tinh tú, vạn vật. Vũ trụ quan là quan niệm về vũ trụ. Đức Phật quan niệm về vũ trụ có hai phần: Một là về phần Hiện tượng giới tức là mê giới, chỉ vạn vật, vạn pháp hữu hình, hữu tướng hư vọng. Hai là về phần bản thể vô hình, vô tướng tức là ngộ giới vốn chơn thiệt không hư hoại, là nguồn gốc sanh ra hiện tượng giới. Bản thể này cũng gọi là nguyên lý tuyệt đối.
(3)    Nguyên lý tuyệt đối: Nguyên lý là chơn lý từ lúc vô thỉ (gốc đầu tiên). Tuyệt đối là không còn đối đãi, so sánh, lìa cả hai pháp tương đối như có đối với không, hoàn toàn rốt ráo.
         Nguyên lý tuyệt đối là Chơn lý hay Thể tánh cội gốc, vô hình, vô tướng, nguồn gốc sanh hoá vạn vật.

II. PHẦN VẤN ĐÁP
1)       Phật dạy Tiểu thừa với ý nghĩa ra sao?
          Phật dạy Tiểu thừa để giải quyết vấn đề chúng sanh đa khổ bằng cách tu hành phá ngã chấp, được giải thoát trong vòng tương đối.
2)       Ý nghĩa Phật dạy Đại thừa như thế nào?
          Phật dạy Đại thừa để giải quyết vấn đề Vũ trụ quan phá thêm pháp chấp, chứng đặng Thể tánh tuyệt đối mới được hoàn toàn giải thoát.
3)       Cách thức dạy Đạo của Đức Phật ra sao?
          Đức Phật trước hết chỉ cái Bản đồ Thập giới cho chúng sanh biết rõ các Cõi. Tiếp theo Ngài dạy phần Giáo lý, sau nữa là phần Pháp môn tu chứng để thực hành mới đi tới chỗ chứng quả được.

III. PHẦN TOÁT YẾU
Đức Phật dạy Tiểu thừa phá Ngã chấp để giải quyết vấn đề chúng sanh đa khổ (nhân sinh quan) và dạy Đại thừa vấn đề Vũ trụ quan để phá Pháp chấp, ngộ đặng nguyên lý tuyệt đối mới đặng hoàn toàn giải thoát.
Muốn tu hành cho có kết quả thì trước hết phải học phần Giáo lý của mỗi bực và sau phải dùng phần Pháp môn tu chứng mà thực hành mới chứng quả được.

BÀI TẬP
Tìm tiếng phản nghĩa của những chữ sau đây:
Có, Đen, Thấp, Tiểu, Tương đối, Tại gia, Sanh tử.

                                                                             Nam Mô A Di Đà Phật.
                                                 Kính Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.

————————————————


BÀI 5
NHƠN THIÊN THỪA BỰC HẠ

A. PHẦN GIÁO LÝ
Đức Phật dạy cõi Nhơn – Thiên:
1) Dứt các điều ác để tránh các quả khổ nơi cõi Ngạ quỉ, Súc sanh và  Địa ngục.
2) Làm các điều lành đặng hưởng các quả vui nơi cõi Nhơn – Thiên, nhưng còn bị kẹt trong sự Sanh tử phần đoạn(1) vì còn chấp ngã(2)chấp pháp.(3)
Làm lành mà còn mong hưởng nên gọi là Thiện hữu lậu.(4)
B. PHẦN PHÁP MÔN TU CHỨNG
I) Của cõi Người (Nhơn thừa):
Muốn đặng sanh về cõi Người thì Đức Phật dạy tu pháp Trì Ngũ Giới: 1) Nhứt bất Sát sanh. 2) Nhị bất Du đạo. 3) Tam bất Tà dâm. 4) Tứ bất Vọng ngữ. 5) Ngũ bất Ẩm tửu.
II. Của cõi Trời (Thiên thừa):
Cõi Trời tương đối cao hơn cõi Người, nhưng cũng còn trong vòng bực Hạ; hưởng đủ các sự khoái lạc, nhưng chỉ còn chịu cái khổ sanh tử mà thôi.
Để được sanh lên cõi Trời, Đức Phật dạy tu pháp Trừ Thập Ác và Hành Thập Thiện.
THẬP ÁC NGHIỆP
       THẬP THIỆN NGHIỆP
Thân
ác nghiệp
Sát
Thân
thiện nghiệp
Phóng sanh
Đạo
Bố thí
Dâm
Tiết dục
Khẩu
ác nghiệp
Ác ngữ
Khẩu
thiện nghiệp
Nói lời dịu ngọt
Vọng ngữ
Nói lời chơn thiệt
Ỷ ngữ
Nói lời ngay thẳng
Lưỡng thiệt
Nói lời phân giải
Ý
ác nghiệp
Tham
Ý
thiện nghiệp
Giải thoát ra ngoài vòng tham ái
Sân
Nhẫn nhục
Si
Suy nghĩ chánh lý

I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1)    Sanh tử phần đoạn: là sự sanh tử từ phần, từ đoạn, nghĩa là bỏ thân này liền thọ thân khác.
(2)    Ngã chấp: chấp thân, tâm vô thường này là ta thiệt.
(2)    Pháp chấp: chấp vạn vật trong vũ trụ, tức là vạn pháp, cho rằng thật có nên gọi là chấp pháp.
(4)    Thiện hữu lậu: việc lành còn bị kẹt trong sự sanh tử luân hồi vì còn mê lầm mong hưởng.

II. PHẦN VẤN ĐÁP
1)       Về phần Giáo lý, Đức Phật dạy cõi Nhơn – Thiên ra sao?
          Đối với bực Hạ (cõi Nhơn – Thiên), Đức Phật dạy dứt hết các điều ác để tránh các quả khổ, làm các điều lành để hưởng những quả vui.
2)        Muốn đặng sanh làm người thì phải tu theo pháp nào?
           Muốn đặng sanh lên cõi Người, phải tu theo pháp Trì Ngũ Giới.
3)       Muốn đặng sanh lên cõi Trời, phải tu theo pháp nào?
           Muốn đặng sanh lên cõi Trời, phải y theo pháp Trừ Thập Ác và Hành Thập Thiện mà tu.

III. PHẦN TOÁT YẾU
Đối với cõi Nhơn – Thiên (bực Hạ), Đức Phật dạy dứt các điều ác và làm các điều lành để hưởng các quả vui nơi cõi Trời – Người.
Về phần pháp môn tu chứng, cõi Người phải tu pháp Trì Ngũ Giới và cõi Trời phải tu pháp Trừ Thập Ác và Hành Thập Thiện.

BÀI TẬP
1) Dùng những chữ sau đây làm một câu văn có đầy đủ ý nghĩa: Hữu lậu, Sanh tử, Ngã chấp, Pháp chấp.
2) Tìm tiếng phản nghĩa của những chữ sau đây: Lục phàm, Phàm phu, Thiện hữu lậu, Quả khổ.
3) Lựa những chữ sau đây, điền vào chỗ trống trong bài cho đúng nghĩa của mỗi câu: Thiện hữu lậu, Chấp ngã, Điều lành, Quả khổ.
Đức Phật dạy dứt các điều ác để tránh các . . . . . . . . . . nơi cõi Ngạ quỉ, Súc sanh và Địa ngục; làm các . . . . . . . . . . để hưởng các quả vui nơi cõi Trời – Người. Nếu muốn ra khỏi sự sanh tử Phần đoạn thì đừng . . . . . . . . . . . và đừng làm . . . . . . . . . . . . . . . . .
                                                                             Nam Mô A Di Đà Phật.
                                                Kính Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.

————————————————


BÀI 6
ĐƯỜNG LỐI DẠY ĐẠO BỰC HẠ
của ĐỨC MINH TRÍ
Giáo-chủ
TỊNH ĐỘ CƯ SĨ PHẬT HỘI VIỆT NAM

A. PHẦN GIÁO LÝ
Chúng ta nên biết về phần Giáo lý, Đức Giáo-chủ Minh Trí chỉ dạy tổng quát ba bực vỏn vẹn chỉ có một câu: “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành,” nghĩa là: “Các điều dữ chớ làm, mỗi việc lành chớ bỏ” (xin xem lòng-phái của Đức Giáo-chủ đã phát cho tín đồ). Hễ bực Hạ thì việc lành thuộc về Thiện hữu lậu, còn bực Thượng thì các điều lành thuộc về Thiện vô lậu.

B. PHẦN PHÁP MÔN TU CHỨNG
CÕI NGƯỜI: Trong quyển Lễ Bái Lục Phương, Đức Giáo-chủ Minh Trí dạy cõi Người tu về phần Nhơn đạo, trước là hành Lễ Bái Lục Phương là lễ lạy sáu hướng, có sáu bổn phận làm người phải giữ cho tròn Nhơn đạo.

Ý nghĩa lạy sáu hướng
I. Lạy hướng Đông là bổn phận làm con thờ cha mẹ có 5 điều:
1) là bổn phận làm con phải giữ cho tròn Hiếu đạo.
2) là lúc cha mẹ đau ốm phải săn sóc thuốc thang điều trị.
3) là phải cung phụng cho cha mẹ từ chén cơm, bát nước.
4) là phải biết ơn cha mẹ mười tháng cưu mang, ba năm bồng ẳm bú sữa, mớm cơm.(1)
5) là phải giữ tròn phận làm con cho cha mẹ vui lòng đẹp dạ.
        Bổn phận cha mẹ thương con có năm điều:
1) là phải dạy con trung hiếu vẹn toàn.
2) là phải cho con gần người hiền nhơn, trí giả.
3) là phải dạy con học tập kinh luật cho mở mang trí hoá.
4) là đến tuổi cập kê(2) thì phải liệu chừng gả cưới.
5) là gia sản tiền của phải chia cho đồng.
II. Lạy hướng Tây là chồng đối với vợ có năm điều:
1) là chớ có ỷ quyền áp chế.
2) là tiền bạc thâu xuất bình quyền.
3) là chẳng đặng làm điều phóng đãng trai gái, cờ bạc rượu trà.
4) là đối với vợ phải dùng câu nhơn từ đức hạnh.
5) là phải dạy vợ điều phải lẽ ngay, dắt dìu vào đường Đạo đức.
        Bổn phận làm vợ thờ chồng có năm điều:
1) là phải cung kỉnh chồng, chẳng nên dễ duôi khinh bạc.
2) là phải cần kiệm chẳng nên lãng phí bạc tiền, cùng giữ câu tam tùng, tứ đức.(3)
3) là phải tề gia nội trợ, gầy dựng gia thất cho chồng.
4) là phải phụng sự cha mẹ chồng cho hết lòng hết dạ.
5) là phải cố khuyên chồng làm điều chánh, lánh điều tà.
III. Lạy hướng Nam là bổn phận học trò kỉnh trọng Thầy có năm điều chấp sự:
1) là kỉnh trọng Thầy cũng như cha mẹ.
2) là phải siêng năng trì chí, việc học hành thì phải cố công.
3) là phải phấn chấn cho hơn chúng bạn.
4) là phải siêng năng thức khuya dậy sớm, lo trông nom học tập cho rành.
5) là phải bảo tồn danh giá Thầy. Khi Thầy qui vị rồi cũng phải giữ lời Thầy dạy dỗ.
        Bổn phận làm Thầy dạy học trò có năm điều:
1) là đừng than cực nhọc mỏi mê.
2) là dạy học trò cho mau thành công.
3) là phải siêng năng hết lòng dạy dỗ.
4) là dạy cho nó hơn mình chớ đừng nệ cố.(4)
5) là phải dạy đứa tối cho bằng đứa sáng.
IV. Lạy hướng Bắc ấy là mình đối với người có năm điều:
1) là đối với bà con cùng xóm riềng phải giữ lòng ngay thật.
2) là nhịn nhục thuận hoà giữ tình liên ái.
3) là lúc giao thiệp đàm luận cùng người, phải cho có trật tự lớn nhỏ, trai gái phải cho phân minh, giữ phẩm hạnh theo địa vị của mình.
4) là khi ai bịnh hoạn mình đến săn sóc giùm, như mình có tiền nên giúp cho người làm nghĩa.
5) là người có việc khốn khó, mình đến lo giùm, tận tâm giúp đỡ.
V. Lạy Hậu thổ, ấy là bổn phận người học Đạo có năm điều:
1) là muốn thành Phật, Tiên, Thánh thì phải giữ dạ thảo hiền, trung thứ, từ bi, bác ái nơi lòng.
2) là phải một lòng hành Lễ Bái Lục Phương, niệm Lục Tự Di Đà, trừ Lục căn, diệt Lục trần,(5) hành Lục độ,(6) phát Lục thông(7) cầu cho thoát vòng Lục đạo.(8)
3) là phải giữ Giới luật của nhà Phật cho rành.
4) là phải chí tâm lo trau giồi tâm tánh của mình.
5) là phải kiên nhẫn dày công tham thiền hầu mau đắc Đạo.
    Bổn phận Thầy chỉ giáo có năm điều:
1) là gắng khuyên Thiện nam, Tín nữ hay đệ tử làm theo 6 phép này:
    a) bố thì thì hết tiếc tham
    b) giữ Luật thì khỏi huỷ phạm
    c) hiền từ, nhẫn nhục thì khỏi hờn giận
    d) tinh tấn thì không giãi đãi.
    e) an tâm, định thần thì khỏi rối loạn.
    f) trau giồi trí huệ thì hết tối tăm.
2) là đừng bê trễ, phải có oai nghi, lấy chơn lý luận cho người thông hiểu.
3) là dạy cho nó lập nhiều hạnh tốt hơn là lời nói nhiều.
4) là dạy niệm Lục Tự Di Đà, mở rộng lòng nhơn, thương tất cả người cùng các loài động vật.
5) là phải dạy cho mau hiểu thông kinh luật và đức hạnh hoàn toàn, sau đi ta-bà đặng chỉ cho người tu niệm.
VI. Lạy Hoàng thiên, ấy là bổn phận tôi tớ kính trọng chủ có năm điều:
1) là thức khuya dậy sớm theo phận sự của mình.
2) là phải siêng năng đừng làm nhục đến chủ.
3) là đối với chủ phải giữ điều cung kính lễ nghi.
4) là chớ lấy của chủ đem ra mà phá hoại.
5) là phải trung thành với chủ.
    Chủ nhà đối với tôi tớ có năm điều:
1) là sai khiến đứa ở đi đâu thì phải liệu sức đường xa gần, mưa nắng, phải coi nó đói hay no.
2) là khi nó có bịnh thì mình phải cho tiền thang thuốc.
3) là phải thương người như thể thương thân.
4) là nó làm điều chi quấy thì dạy biểu nó chớ đừng đánh đập.
5) là mình có ăn vật chi thì phải chia cho nó.
Lạy Sáu hướng có năm điều chấp sự. Nếu không biết có năm điều ấy mà làm theo, thì lạy sáu hướng nào có ích gì?

I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1)    Mớm cơm: là nhai cơm đút cho con (còn nhỏ) ăn.
(2)    Cập kê: Kê là cái trâm. Tuổi cập kê là đến kỳ cài trâm, nghĩa là đến tuổi lấy chồng.
(3)    Tam tùng, Tứ đức: chữ tùng là phụ theo, nương theo. Tam tùng là tại gia tùng phụ, xuất giá tùng phu, phu tử tùng tử. Tứ đức là công, dung, ngôn, hạnh.
(4)    Nệ cố: là cố chấp điều cổ xưa, quá thời.
(5)    Trừ Lục căn, diệt Lục trần:
         Lục căn là Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý.
         Lục trần là Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp.
         Trừ Lục căn, diệt Lục trần là: người tu hành không cho sáu căn mê nhiễm sáu trần để cho tâm được thanh tịnh.
(6)    Lục độ: độđò. Lục độ là sáu chiếc đò tức là sáu pháp tu hành của hàng Bồ-tát để tự độ và độ tha (Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định và Trí huệ).
(7)    Lục thông: là sáu phép thần thông: 1. Thiên nhãn thông, 2. Thiên nhĩ thông, 3. Tha tâm thông, 4. Túc mạng thông, 5. Thần túc thông, 6. Lậu tận thông.
(8)    Lục đạo: là sáu đường trong sự sanh tử luân hồi từ cõi Địa ngục cho đến cõi Nhơn, Thiên.

II. PHẦN VẤN ĐÁP
1) Về phần Giáo lý của bực Hạ, Đức Giáo-chủ Minh Trí dạy như thế nào?
     Đức Giáo-chủ Minh Trí dạy “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành.”
2)   ­Về phần Nhơn đạo, Đức Giáo-chủ Minh Trí dạy tu pháp nào?
       Về phần Nhơn đạo, Đức Giáo-chủ Minh Trí dạy tu pháp “hành Lễ Bái Lục Phương.”

III. PHẦN TOÁT YẾU
Đức Giáo-chủ Minh Trí dạy cõi Người về phần Nhơn đạo tu pháp “hành Lễ Bái Lục Phương” là lễ lạy sáu hướng Đông, Tây, Nam, Bắc, Hạ phương và Thượng phương để biết sáu bổn phận làm người đặng lo cho tròn phần Nhơn đạo. Sáu bổn phận ấy là:
1) là con đối với cha mẹ và cha mẹ đối với con.
2) là vợ đối với chồng và chồng đối với vợ.
3) là bổn phận học trò đối với thầy và thầy đối với học trò.
4) là bổn phận mình đối với người.
5) là bổn phận người học Đạo đối với thầy và thầy dạy Đạo đối với người học Đạo.
6) là bổn phận tôi tớ đối với chủ nhà và chủ nhà đối với tôi tớ.
Lạy Sáu hướng mà không biết sáu bổn phận của mình nào có ích lợi gì?

                                                                       Nam Mô A Di Đà Phật.
                                                 Kính Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.

————————————————


BÀI 7
PHÁP MÔN TU CHỨNG
CỦA CÕI NGƯỜI
PHẦN PHẬT ĐẠO

Đức Giáo-chủ Minh Trí dạy cõi Người về phần Phật đạo tu pháp Thọ Tam Qui, Trì Ngũ Giới.
Thọlãnh, chịu, Tamba, Quituân theo. THỌ TAM QUI là lãnh chịu, tuân theo ba ngôi báu là Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo, tức là Qui y Phật, Qui y Pháp và Qui y Tăng.
Qui y Phật: nghĩa là tuân theo Phật, nguyện y theo Phật, vì Phật là bực toàn giác, toàn minh thoát ly ra ngoài biển khổ, còn chúng sanh thì say mê nơi bể ái trầm luân, chịu luân hồi đời đời kiếp kiếp.
Nay ta muốn lướt qua biển khổ mà đến bến Bồ đề(1) thì phải tuân theo Phật, phải làm y theo Phật, mới gọi là Qui y Phật.
Qui y Pháp: nghĩa là y theo Pháp của Phật dạy tức là Kinh, Luật và Luận mà tu hành.
Kinh: là lời nói của Phật giảng dạy chúng sanh trong 49 năm mà các hàng đệ tử của Phật gia công chép lại có đủ nghĩa lý thấp cao, rộng hẹp ra từng tập, lưu truyền cho đến ngày nay gọi là Tạng Kinh.
Luật: là Giới luật, như Ngũ giới, Thập giới v.v… mà Phật chế ra để các hàng đệ tử tu hành cho khỏi phạm nhằm tội lỗi nên gọi là Tạng Luật.
Luận: là luận bàn. Sau khi Đức Phật tịch rồi có nhiều vị cao tăng tu hành đắc đạo, vì thấy Phật pháp cao sâu, mầu nhiệm quá mà phần nhiều người hiểu lầm, hành sai, nên ra công viết sách giải nghĩa lý cho rõ ràng minh bạch, nên gọi là Tạng Luận.
Qui y Tăng: là tuân theo ông Thầy học Phật, là những vị chơn tu đắc đạo(2) thay thế cho Phật để dạy Đạo. Nay ta được biết Phật, biết giáo pháp mà tu hành là nhờ ông Thầy học Phật. Vậy nên ta phải noi theo gương ông Thầy để học hỏi và kính trọng người.
Qui y Tam Bảo được sự lợi ích lớn là khỏi đoạ trong Tam đồ(3) là ba đường dữ: Ngạ quỉ, Súc sanh và Địa ngục (Qui y Tam Bảo bất đoạ tam đồ).
TRÌ NGŨ GIỚI
Trìcầm, nắm, giữ; Ngũnăm; Giớiđiều răn cấm. Trì Ngũ Giới là nắm giữ năm điều răn cấm không để cho phạm tội lỗi.
Ngũ Giới cấm là:
      1) Không được Sát sanh.
      2) Không được Trộm cắp.
      3) Không được Tà dâm.
      4) Không được Nói dối.
      5) Không được Uống rượu.
1) Cấm sát sanh: là cấm người giết hại lẫn nhau, không giết hại loài động vật vì các giống ấy có tánh như người, biết tham sống sợ chết, biết có đôi bạn như người, biết khát uống đói ăn, biết lạnh trốn gió, biết nực dầm nước, biết đau, sợ đánh, sợ đâm, chúng nó cũng biết ơn đền nghĩa trả mà nỡ nào sát hại mạng nó cho đành.
Người và loài vật cũng đồng một bản thể (bổn tâm) vì chúng nó tu cũng thành Phật như mình vậy.
Theo luật nhân quả của Tạo hoá,(4) nếu giết nó thì gây cuộc oan trái, nối tiếp luân hồi quả báo cho hậu thân. Người tu hành có lòng từ bi, bác ái nên không giết hại nó. Muốn tránh tội sát sanh thì không gì bằng ăn chay.
2) Cấm trộm cắp: Thử hỏi mình mất tiền của có biết ưu sầu tiếc nuối không? Dẫu cho ai cũng phải trả lời là có vậy. Như vậy nếu mình trộm cắp, cướp giật của người, lẽ cố nhiên người cũng phải đau khổ, khốn cùng, có khi phải quyên sinh tự tử nữa. Vậy nên Phật cấm chẳng đặng trộm cắp.
3) Cấm tà dâm: Vì gian dâm với vợ hay chồng người rủi bị bắt được, vì ghen tương mới có sự chém giết lẫn nhau. Gian dâm con của người, làm cho gia đình người bị nhục đến đỗi trầm mình tự tử vì bị danh nhơ. Sự dâm dục là nguồn gốc của sự sanh tử, nên Phật cấm không cho tà dâm.
4) Cấm nói dối: Nói dối là một sự rất ác độc vì hễ nói thêm thì dư cho người cũng hại, còn nói bớt thì thiếu cho người cũng nguy. Thường ở đời có lắm người bị đổ thừa nói thêm hoặc bị dối trá lường gạt mà bậu bạn phải xa lìa, cửa nhà tan nát, làm cho cha xa con, vợ rẽ chồng, đến đỗi có lúc phải quyên sinh tánh mạng. Thiệt là hại thay! độc ác thay!
5) Cấm uống rượu: Rượu là một thứ thuốc dễ làm say người. Uống vào thì khôn lanh hoá ra khờ dại. Hễ rượu vào thì lời ra, sanh lắm điều tác tệ, việc gì ác đức cũng dám làm, dù cho cha mẹ, vợ con cũng không kể đến. Nó làm cho lửa lòng phừng lên, tâm tánh rối loạn, mất gương trí huệ, quên cả bổn tánh. Vậy nên Phật cấm uống rượu để tâm tánh được vững vàng, yên thần, lặng trí.

I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1)    Bồ đề: là Trí Giác ngộ hay là Đạo quả Giác ngộ. Bồ đề là bờ giác của Phật (hoàn toàn rốt ráo).
(2)    Đắc đạo: là tu hành đến chỗ chứng được Đạo quả Giác ngộ hay là đạt đến Chơn lý của Đạo.
(3)    Tam đồ: chữ đồ nghĩa là đường đi. Tam đồ là ba đường, chỉ cõi Ngạ quỉ, Súc sanh và Địa ngục. Chữ đồ cũng có nghĩa là đau khổ, chỉ ba cái khổ: đao đồ, thuỷ đồ và hoả đồ.
(4)    Tạo hoá: tạogây dựng nên, hoálàm thành; có nghĩa là Trời đất gây dựng, hoá sanh muôn vật.

II. PHẦN VẤN ĐÁP
1) Qui y Tam Bảo nghĩa là gì?
     Qui y Tam Bảo là đem thân mạng trở về nương theo ba ngôi báu là Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo.
2)   Qui y Pháp nghĩa là sao?
       Qui y Pháp nghĩa là y theo pháp của Phật dạy Kinh, Luật, Luận để tu hành.
3)   Tu theo pháp Ngũ giới cấm, kết quả ra sao?
       Tu theo pháp Ngũ giới cấm sẽ được sanh về cõi Người.

III. PHẦN TOÁT YẾU
Về phần Phật đạo, Đức Giáo-chủ Minh Trí dạy cõi Người tu theo pháp Thọ Tam qui, Trì Ngũ giới.
Tam qui là qui y Phật, qui y Pháp và qui y Tăng. Nếu qui y theo Tam Bảo thì sẽ khỏi đoạ trong Tam đồ, còn trì được Ngũ giới thì kết quả sẽ được sanh lên cõi Người.

                                                                       Nam Mô A Di Đà Phật.
                                                 Kính Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.

————————————————


BÀI 8
PHÁP MÔN TU CHỨNG
của CÕI TRỜI

Muốn tu chứng lên cõi Trời, Đức Giáo-chủ Minh Trí dạy tu pháp Tịnh Tam Nghiệp.
Tịnhtrong sạch, tamba, nghiệpsự tạo tác, hành động.
Tịnh tam nghiệp là ba nghiệp Thân, Khẩu, Ý phải giữ cho trong sạch.
– Vì Thân có làm ra thì gọi là Thân nghiệp.
– Vì Khẩu (miệng) có nói ra thì gọi là Khẩu nghiệp.
– Vì Ý có suy nghĩ ra thì gọi là Ý nghiệp.
Trong các nghiệp có nghiệp lành, nghiệp dữ nên quả báo khác nhau. Cả đời làm dữ thì phải chịu quả báo dữ, cả đời làm lành thì được quả báo lành. Thế nên người tu hành cần phải Tịnh Tam nghiệp cho Thân, Khẩu, Ý được trong sạch.
Thân nghiệp tịnh: là không giết hại người cùng loài thú vật, không làm điều trộm cắp, lường gạt của người, không tà dâm lang chạ(1) mà luôn luôn phải phóng sanh, bố thí, tiết dục.
Khẩu nghiệp tịnh: là không chửi mắng, rầy la, hăm doạ, không nói sự trái lẽ làm buồn lòng người, không nói láo xược, không nói đâm thọc, không nói thô ác, không nói thêu dệt(2) mà luôn luôn phải thường nói chơn thiệt, hiền lành, ngay thẳng, dịu ngọt và phân giải.
Ý nghiệp tịnh: là không tưởng điều quấy, không tham danh lợi, tài sắc, không tưởng phú quí, công danh, ăn ngon, mặc tốt, không tưởng đến buồn, giận, oán thù, cố chấp, ích kỷ, hại nhơn mà luôn luôn phải giải thoát ra khỏi vòng tham ái, suy nghĩ chánh lý và tu hạnh nhẫn nhục.
Xuyên qua đường lối dạy đạo bực Hạ của Đức Phật và Đức Giáo-chủ Minh Trí, chúng ta nhận thấy hai đường lối này đều như nhau không khác.

I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1)    Lang chạ: là chung chạ, lẫn lộn, không đúng đắn.
(2)    Thêu dệt: là thêm thắt, bịa đặt để làm cho chuyện nhỏ thành ra chuyện lớn.
II. PHẦN VẤN ĐÁP
1) Tam nghiệp thanh tịnh nghĩa là sao?
     Tam nghiệp thanh tịnh nghĩa là Thân, Khẩu và Ý phải trong sạch.
2)   Muốn cho ba nghiệp trong sạch phải làm cách nào?
       Muốn cho ba nghiệp được trong sạch thì phải trừ mười điều ác và làm mười điều thiện.
III. PHẦN TOÁT YẾU
Đức Giáo-chủ Minh Trí dạy tu pháp Tịnh tam nghiệp thì sẽ được lên cõi Trời. Tam nghiệp là Thân nghiệp, Khẩu nghiệp và Ý nghiệp.
Muốn cho ba nghiệp được trong sạch, phải trừ Thập ác và hành Thập thiện.

                                                                       Nam Mô A Di Đà Phật.
                                                 Kính Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.

————————————————



PHẦN NGHE KINH BỰC HẠ
“LUẬN VỀ TỘI BÁO VÀ PHƯỚC BÁO”

I. LUẬN VỀ TỘI BÁO
Trong kinh “Luân Chuyển Ngũ Đạo Tội Phước Báo Ứng,” Đức Phật dạy:
 1)   Những người bị thân hình nhỏ bé là trước kia hay khinh mạn người.
 2)   Những người bị thân hình xấu xa là trước kia hay giận tức người.
 3)   Những người sinh ra không biết gì hết là trước kia không có học vấn.
 4)   Những người ngu đặc là trước kia không hay dạy bảo người.
 5)   Những người câm ngọng là trước kia hay huỷ báng người.
 6)   Những người mù loà là trước kia không hay nghe theo kinh pháp.
 7)   Những người làm tôi tớ là trước kia còn mang nợ chưa trả.
 8)   Những người ti tiện là trước kia không lễ kính Tam Bảo.
 9)   Những người sinh trong cõi (nước) khoả thân là trước kia hay mặc áo mỏng, xốc xếch, đường đột vào trong chùa, tháp hay tịnh xá.
10)  Những người sinh trong nước có phong tục bó chơn như móng ngựa, là trước kia hay đi giày, guốc vào trước Phật.
11)  Những người sinh trong nước có phong tục xuyên ngực là trước kia tuy bố thí làm phước nhưng còn có tâm hối tiếc.
12)  Những người thân thể mọc như ung thư ác độc điều trị khó khỏi là trước kia hay đánh đập chúng sanh.
13)  Những người bị huyện quan gông xiềng thân thể, giam giữ trong lao ngục là đời trước làm người hay nhốt trói chúng sanh, khiến cho chúng sanh không được theo tự do của mình.
14)  Những người sứt môi là nhiều đời trước hay câu cá làm cá sứt môi.
15)  Những người ngu si, nghe những lời thuyết pháp mà tâm không chịu ghi nhận, sau sẽ bị đoạ vào trong loài lừa, ngựa tai dài.
16)  Những người sẻn so, tham ăn một mình sau sẽ đoạ sinh vào trong loài quỉ đói, nếu sau sinh làm người bị nghèo cùng đói thiếu, áo không che kín mình, ăn không đủ cung miệng.
17)  Những người tự mình ăn thức ngon, cho người ăn thức dở, sẽ đoạ sinh vào trong loài lợn, chó, bọ hung.
18)  Những ai cướp đoạt súc vật người, sau sẽ bị đoạ, sinh vào trong loài dê, bị lột sống da để đền trả nợ trước.
19)  Những ai hay sát sanh sau đoạ sinh làm con trùng, phù du trên mặt nước, sáng sanh chiều chết.
20)  Những ai hay ăn trộm tài vật của người, sau phải đoạ sinh vào trong hàng tôi tớ, trâu, ngựa đền trả nợ trước.
21)  Những người gian dâm vợ hay con gái người, khi chết vào địa ngục, con trai phải ôm cột đồng, con gái phải nằm giường sắt, đến khi ở địa ngục ra, thường sinh nơi hạ tiện và phải đoạ sinh vào trong loài gà, vịt.
22)  Những người hay tham lam sức lực của người khác, sau phải đoạ sinh vào trong loài voi.
23)  Những người đứng đầu châu, quận thọ tước lộc quan trường, hay bắt người vô tội, hay lẩn lút của dân, biên tên, lùng bắt, trói chăng, dùng roi gậy đánh đập, cưỡng bức người dân đem đi và tố cáo những chuyện không đâu, rồi đem gông xiềng giam giữ khiến cho dân đau khổ, oan   ức; sau đó phải bị đoạ vào trong địa ngục, lại phải bị đoạ vào loài thuỷ ngưu, xuyên thủng lỗ mũi, kéo thuyền, kéo xe, roi gậy đánh đập đền trả tội trước.
24)  Những người không được trong sạch, là từ trong kiếp lợn mà tới.
25)  Những người sẻn so, tham lam không được trong sạch, ngay thẳng là từ trong kiếp chó mà tới.
26)  Những người có những hơi hôi tanh là từ trong kiếp cá, kiếp ba ba mà tới.
27)  Những người hung ác, mang tâm địa độc, khó hiểu là từ trong kiếp trăn, rắn mà tới.
28)  Những người ưa ăn thức ngon, hay sát hại chúng sanh là từ trong kiếp chó sói, hùm beo, chồn, chim ưng mà tới.
29)  Những người bị chết non, bào thai bị thương truỵ, mệnh đà mất sớm là đời trước hay đi săn bắn, đốt cháy núi rừng, tìm ổ đập trứng, chăn lưới bắt cá, sát hại hết thảy chúng sanh.
        Ôi! Ham muốn da thịt chúng sanh để mình ăn uống, mà thường phải chịu quả báo đoản mạng đời này đến đời khác. Vậy nên phải cẩn thận. Thực đau xót không thể nói sao cho xiết được.
II. LUẬN VỀ PHƯỚC BÁO
Đức Phật dạy: “Người ta làm phước ví như trồng một cây ăn trái.” Hồi trồng chỉ có một hột, đến chừng trái quả thì vô lượng, hưởng hoài không dứt.
 1)   Hiện nay những người hào quí như quốc vương, trưởng giả là từ trong chỗ chăm chú lễ Phật, thừa sự Tam Bảo trước kia mà được.
 2)   Hiện nay những người đại phú, của cải vô hạn là từ trong chỗ chăm làm hạnh Bố thí trước kia mà được.
 3)   Hiện nay những người trường thọ, không có tật bệnh, thân thể cường tráng, là từ trong chỗ chăm làm hạnh Trì giới trước kia mà được.
 4)   Hiện nay những người đoan chính, nhan sắc tốt đẹp, dáng dấp sáng sủa đệ nhứt, thân thể mềm mại, hơi miệng thơm sạch, người ta trông thấy tư dung, không ai là không hoan hỷ, trông không chán mắt là từ trong chỗ làm hạnh Nhẫn nhục trước kia mà được.
 5)   Hiện nay những người tu tập, không hay trễ biếng, ham làm phước đức, là từ trong chỗ chăm làm hạnh Tinh tấn mà được.
 6)   Hiện nay những người an nhàn, thư thái, lời nói việc làm xác thực là từ trong chỗ chăm làm hành Thiền định trước kia mà được.
 7)   Hiện nay những người tài năng, minh mẫn, hiểu thấu pháp sâu xa, tán thán nghĩa nhiệm mầu, khai ngộ người tối tăm, người ta nghe thấy lời nòi của họ, không ai là không thăm hỏi tín thụ, tuyên truyền và tin dùng như trân bảo là từ trong chỗ tu hành Trí huệ trước kia mà được.
        Phật bảo ông A-nan rằng:
        “Phàm làm công đức gì đều ứng vào mình. Thắp hương, cúng trai, cúng dàng đồ vật là pháp thường làm, lại Bố thí nữa sẽ được phúc chư Thiên tiếp đãi, muôn ác đều lui, mọi ma trừ sạch không dám đương đầu. Tội, phúc theo mình như bóng theo hình. Bố thí một phần, được gấp muôn phần. Đấy là Ta nói thực, không chút dối trá.”
        Bấy giờ Đức Phật nói bài tụng rằng:
            Hiền giả hay Bố thí,
            Thiên thần tự giúp đỡ.
            Cho một được gấp muôn,
            Yên vui và sống lâu.
            Ngày nay Bố thí nhiều,
            Phúc ấy không thể lường.
            Đều sẽ thành Phật đạo,
            Độ thoát khắp mười phương.
***
            Nhơn duyên hội hợp chỉ nên thân,
            Năm giới, mười thiện, trừ bỏ giận.
            Không mong người hứa, tự làm thân,
            Vinh lạc thế gian như mây nổi.
            Vòng quanh năm đường như bánh xe,
            Kể gì thọ mệnh, tiếc vàng bạc.
            Trời đất còn hoại, lọ thân mình,
            Vâng giữ giới kinh, là rất quí.
            Đừng tham tài sắc, … nhục lầm người,
            Chúng sanh ba cõi như đàn dê.
            Đi, lại năm đường thân tan tác.
            Mệnh nhanh, nước chảy có thường đâu,
            Làm ác rất chóng, chịu tội lâu,
            Đoạ vào địa ngục, vạc dầu nóng.
            Ngăn lòng, bền ý, xa tai vạ,
            Phạm tội vào trong khổ khó chịu.

        Đức Phật bảo ông A Nan:
        “Người đời không có trí huệ, nên phải sanh tử luân hồi. Vì nhục nhãn (mắt thịt) nên không biết tội phúc. Nay ta dùng Đạo nhãn (mắt Đạo) trông thấy sự báo ứng của tội và phúc từ vô số kiếp cho tới thân này, rõ như xem hạt ngọc lưu ly trong bàn tay, sáng suốt tất cả trong ngoài không còn chút ý tưởng ngờ vực nào nữa!”
BÀI TẬP
Gạch dưới những chữ quan trọng trong bài để cho biết bài ấy nói về cõi nào? Bực nào?
1)   – Thiên đường có nẻo thẳng, cho hay nhà kín có trời xanh.
      – Địa ngục không ngỏ ra, cũng bởi tấc lòng theo đất tối.
2)   Cõi Thiên đường vui tươi, sáng sủa, có con lộ rộng lớn để nương theo về cõi ấy.
      Dù di chẳng đặng đến nơi, ở giữa đường cũng nhờ phước báo đắc phục đặng Nhơn thân, hưởng được sự giàu sang phú quí, khỏi các sự khổ sở nơi ba đường dữ.

                                                                       Nam Mô A Di Đà Phật.
                                                 Kính Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.



PHẦN ÔN BÀI BỰC HẠ

 1       Thập giới nghĩa là gì?
          Thập giới còn gọi là Thập Pháp giới, tức là mười cảnh giới (cõi), trong đó có bốn cõi Thánh và sáu cõi Phàm. Danh từ Thập giới xuất xứ từ kinh Hoa Nghiêm.
 2        Tam thừa Thánh giáo nghĩa là gì? và chỉ cõi nào?
           Tam thừa Thánh giáo là ba bực tu hành đều được giải thoát: Thinh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ-tát thừa (cũng gọi là xe Dê, xe Nai và xe Trâu).
 3        Nhị thừa chỉ cõi nào? Tiểu thừa có phải là Nhị thừa không? Tiểu thừa và Tiểu thánh có khác nhau không? Tại sao vậy?
          Nhị thừa chỉ cõi Thinh văn và Duyên giác, Tiểu thừa không phải là Nhị thừa, vì Tiểu thừa có bốn bực là Nhơn, Thiên, Thinh văn và Duyên giác. Tiểu thừa và Tiểu thánh khác nhau, vì Tiểu thừa có bốn cõi còn Tiểu thánh có hai cõi mà thôi.
 4        Tiểu thừa có mấy cõi? Đại thừa có mấy cõi?
           Tiểu thừa có bốn cõi: Nhơn, Thiên, Thinh văn và Duyên giác. Đại thừa có hai cõi: Bồ-tát và Phật.
 5        Nhứt thừa chỉ cõi nào? Còn cõi nào gọi là Quyền thừa?
           Nhứt thừa là Phật thừa, còn từ Bồ-tát trở xuống hay Nhị thừa, Tam thừa Thánh giáo, Ngũ thừa Phật giáo đều gọi là Quyền thừa.
 6       Tại sao Đức Như Lai nói Đạo của Ngài chỉ có một thừa là Phật thừa mà thôi?
           Theo trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa, sở dĩ Đức Thế Tôn ra đời vì ý nguyện của Ngài muốn dạy cho chúng sanh đều đặng thành Phật viên mãn rốt ráo y như Ngài, nên Ngài mới nói Đạo của Ngài chỉ có một thừa là Phật thừa mà thôi, nhưng vì chúng sanh căn cơ thấp kém nên Ngài tuỳ duyên phương tiện lập Quyền thừa mà dạy chúng sanh từ thấp lên cao, cũng như dạy cho chúng ta leo từ nấc thang, để sau cùng dạy qua Phật thừa.
 7       Quyền thừa nghĩa là gì?
           Quyền nghĩa là tạm, cũng có nghĩa là phương tiện hay là phương pháp dùng đỡ để đạt đến chỗ chơn thiệt mà chẳng trái với lý Đạo.
 8        Ý nghĩa của Đức Phật dạy Tiểu thừa và Đại thừa như thế nào?
           Ý nghĩa Đức Phật dạy Tiểu thừa để giải quyết vấn đề “chúng sanh đa khổ” tức là Nhơn sanh quan. Đức Phật quan niệm đời sống con người rất khổ, nếu muốn hết khổ phải tu giải thoát, muốn đặng giải thoát phải trừ Ngã chấp.
               Ý nghĩa Đức Phật dạy Đại thừa để giải quyết vấn đề Vũ trụ quan, là vì bực Tiểu thừa tuy đã đặng giải thoát nhưng chưa rõ vạn vật hữu hình, hữu tướng vốn là hư hoại (chấp pháp). Cho nên Đức Phật dạy phá cái Pháp chấp cho chúng sanh biết vạn vật (vạn pháp) là hư vọng, là không; nhưng vạn pháp sanh ra do nơi cái bản thể Chơn thiệt của Vũ trụ, tức là cái nguyên lý tuyệt đối. Nguyên lý là chơn lý nguyên thỉ (gốc đầu tiên). Tuyệt đối là không còn đối đãi lìa cả hai pháp tương đối, để chứng đặng cái Tâm Chơn không Diệu hữu, tức là cái bản thể Vũ trụ vạn hữu, mới được hoàn toàn giải thoát.
 9        Nguyên lý tuyệt đối nghĩa là gì?
           Nguyên lý tức là cái lý cội gốc đầu tiên, tuyệt đối là không còn hai tướng đối đãi. Nguyên lý tuyệt đối là chỉ cái bản thể của Vũ trụ vạn hữu, là tâm Chơn không Diệu hữu hay là Tâm chung của muôn loài vạn vật.
10       Phần Giáo lý, Đức Phật dạy bực Hạ cõi Nhơn – Thiên như thế nào?
           Đức Phật dạy cõi Nhơn – Thiên: a) Dứt các điều ác để tránh các quả khổ nơi cõi Ngạ quỉ, Súc sanh và Địa ngục. b) Làm các điều lành đặng hưởng các quả vui nơi cõi Trời, Người. Nhưng còn bị kẹt trong sự sanh tử phần đoạn vì còn chấp ngã và chấp pháp. Làm lành mà còn mong hưởng nên gọi là Thiện hữu lậu.
11       Phần pháp môn tu chứng, Đức Phật dạy cõi Nhơn – Thiên tu cách  nào?
           Phần pháp môn tu chứng, Đức Phật dạy cõi Nhơn tu pháp Trì ngũ  giới: Nhứt bất sát sanh, Nhị bất Du đạo, Tam bất tà dâm, Tứ bất vọng ngữ, Ngũ bất ẩm tửu.
               Đức Phật dạy cõi Thiên tu pháp trừ Thập ác và hành Thập thiện.
THẬP ÁC NGHIỆP
       THẬP THIỆN NGHIỆP
Thân ác nghiệp
Sát
Thân thiện nghiệp
Phóng sanh
Đạo
Bố thí
Dâm
Tiết dục
Khẩu ác nghiệp
Ác ngữ
Khẩu thiện nghiệp
Nói lời dịu ngọt
Vọng ngữ
Nói lời chơn thiệt
Ỷ ngữ
Nói lời ngay thẳng
Lưỡng thiệt
Nói lời phân giải
Ý ác nghiệp
Tham
Ý thiện nghiệp
Giải thoát ra ngoài vòng tham ái
Sân
Nhẫn nhục
Si
Suy nghĩ chánh lý
12       Xin giải nghĩa: Ngã chấp, Pháp chấp, Thiện hữu lậu, Sanh tử phần đoạn?
          Ngã chấp là chấp cho cái Ta này là chơn thiệt, Pháp chấp là chấp vạn vật hữu hình, hữu tướng là có thiệt (chấp vạn vật thật có). Thiện hữu lậu là làm việc lành mà còn mê lầm, nên còn kẹt trong sự sanh tử luân hồi. Sanh tử phần đoạn là sự sanh tử từ phần, từ đoạn, buông thân này bắt thân khác nối tiếp với nhau mãi mãi.
13       Đức Giáo-chủ Minh Trí dạy bực Hạ về cõi Nhơn – Thiên:
               A. Phần Giáo lý ra làm sao?
           Phần Giáo lý Đức Giáo-chủ Minh Trí dạy tổng quát vỏn vẹn có một câu: “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành,” nghĩa là các điều dữ chớ làm, mỗi việc lành chớ bỏ, hễ bực Hạ thì việc lành thuộc về Thiện hữu lậu, còn bực Thượng thì các việc lành đều thuộc về Thiện vô lậu.
           B. Phần pháp môn tu chứng như thế nào?
           Phần pháp môn tu chứng, Đức Minh Trí dạy cõi Người hành Lễ Bái Lục Phương, có sáu bổn phận làm người phải giữ cho tròn Nhơn đạo. Còn về phần Phật đạo thì Ngài dạy tu pháp Thọ Tam qui và Trì Ngũ giới.
               Muốn tu lên cõi Trời, Đức Giáo-chủ Minh Trí dạy tu pháp Tịnh Tam nghiệp. Tịnh là trong sạch, Tam là ba, nghiệp là tạo tác, hành động. Tịnh Tam nghiệp là: ba nghiệp Thân, Khẩu và Ý phải giữ cho trong sạch (ba nghiệp tịnh thì Phật xuất thế, ba nghiệp bất tịnh thì Phật nhập diệt).

                                                                       Nam Mô A Di Đà Phật.
                                                 Kính Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.

————————————————

BÀI 9
 THINH VĂN, DUYÊN GIÁC THỪA
BẬC TRUNG

A. PHẦN GIÁO LÝ
Cõi Nhơn – Thiên còn bị kẹt trong sự sanh tử Phần đoạn vì còn chấp có (có Ngã và Pháp), cho nên Đức Phật dạy hàng Nhị thừa Thinh văn, Duyên giác bốn cái chơn lý Vô thường, Vô ngã, Bất tịnh(1)Khổ để phá Ngã chấp trước, chớ chưa phá nổi Pháp chấp, mới ra khỏi sự sanh tử Phần đoạn, chứng đặng Niết-bàn Tịch diệt tức là cái Tâm Không, nhưng còn bị kẹt trong sự sanh tử Biến dịch(2) vì còn chấp Pháp.
Trí huệ này gọi là Sanh không Chơn-như (3) hay là Nhơn không Bát-nhã.(4)
Nhận thấy phàm phu Nhơn – Thiên thì chấp có, Tiểu Thánh Nhị thừa lại chấp không, thế thì pháp lý của Tiểu thừa còn trong vòng tương đối thì Sắc, Không cũng phải ở trong vòng đối đãi với nhau, nghĩa là cái (sắc) đối với cái không, cái không đối với cái , cái chẳng phải cái không, cái không chẳng phải cái . Cái và cái không phản nghĩa cùng nhau. Cái không này có nghĩa là không có gì hết (tâm trống không), nó tiêu trầm cái hữu hình để trở thành cái vô hình. Tất cả vạn vật là Sắc, khi vạn hữu tiêu trầm là Không, nên chơn lý này gọi là Chơn lý Sắc Không tương đối của Tiểu thừa.
Sắc Không là hai pháp tương đối của Vũ trụ, là nguồn gốc của sự sanh tử. Đạo Phật là đạo giải thoát, lẽ cố nhiên phải liễu ngộ nguồn gốc sanh tử là Sắc và Không, nên hễ chấp Sắc thì kẹt trong sự sanh tử phần đoạn, còn chấp Không thì bị kẹt trong sự sanh tử biến dịch.
Tại sao Đức Thế Tôn dùng hai chữ Sắc–Không để dạy đạo về phần giáo lý của ba bực?
Như bực Tiểu thừa thì Phật dạy Chơn lý Sắc-Không tương đối, bực Sai biệt trí Bồ-tát thì dạy Chơn lý Sắc-Không như huyễn, bực Bồ-tát thì dạy Chơn lý Vô trụ và Đại Bồ-tát thì dạy Chơn lý Sắc-Không viên dung bình đẳng? Chỉ có Phật thừa thì mới nói Chơn lý phi sắc, phi không nhưng bất ly sắc, bất ly không?
Riêng về bực Tiểu thừa thì Đức Phật dạy Chơn lý Sắc-Không tương đối, vì Sắc-Không là hai tướng đối đãi bề ngoài của Vũ trụ vạn hữu tức là hai cái giả tướng luôn luôn đối đãi với nhau để sanh sanh, hoá hoá muôn loài vạn vật. Vậy nên hễ chấp Sắc thì bị kẹt bên hữu hình, hữu tướng, còn nếu chấp Không thì bị kẹt bên vô hình (ngoan không).
Vạn vật dù có sanh hoá cũng trong vòng đối đãi nhau như người thì có Nam có Nữ mới có sanh được, thú thì có đực có cái mới có sanh hoá, cầm thì có trống có mái mới có sanh hoá v.v… Cái Không và cái Sắc này, mắt chúng ta đều thấy được cả. Vì bực Tiểu thừa căn cơ còn thấp kém, chưa có đủ trí huệ để nhận biết cái bản thể Chơn không Diệu hữu vô hình vô tướng của Vũ trụ. Nên Đức Phật phải tuỳ cơ dạy hai tướng Sắc Không tương đối bề ngoài trước cho bực Tiểu thừa dễ thấy, dễ nhận, mới hợp với trình độ của bực Tiểu thừa rồi lần lần dẫn dắt tu học qua bực Đại thừa.

I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1)    Vô thường: là biến đổi không còn hoài.
         Vô ngã: là không có cái Ta chơn thiệt.
         Bất tịnh: là không trong sạch.
(2)    Sanh tử biến dịch: là sự sanh tử biến đổi trong lúc tu hành, bỏ cái quả vị thấp đã chứng rồi bước lên cái quả vị cao mới vừa tu được sau.
(3)    Sanh không Chơn-như: Chúng sanh vốn là không, chẳng thiệt có, cũng gọi là ngã không, nhơn không. Sanh không nghĩa là sanh mạng ta, sanh mạng của người khác, của các chúng sanh vốn là không.
(4)    Nhơn không Bát-nhã: Sanh không hay Ngã không, Nhơn không là quan sát thân con người do năm uẩn mượn lẫn nhau để hoà hợp làm một cái nhơn tướng, lại do nơi nhơn duyên đủ điều kiện mới sanh thành ra được bằng cách giả dối, vì biết trong đó nó chẳng có cái ngã thể là thường hay nhứt định gì hết, nên gọi là Nhơn không.
II. PHẦN VẤN ĐÁP
1)       Tiểu thừa và Tiểu Thánh khác nhau ra sao?
          Tiểu thừa chỉ bốn cõi: Nhơn, Thiên, Thinh văn và Duyên giác. Còn Tiểu Thánh chỉ có hai cõi Thinh văn và Duyên giác mà thôi.
2)        Tiểu Thánh và Nhị thừa có khác nhau không?
           Tiểu Thánh và Nhị thừa không khác nhau vì tiểu Thánh và Nhị thừa đều chỉ hai cõi Thinh văn và Duyên giác.
3)        Bực Nhị thừa ra khỏi sự sanh tử nào và còn bị kẹt trong sự sanh tử nào?
           Bực Nhị thừa phá được Ngã chấp nên ra khỏi sự sanh tử phần đoạn, nhưng còn bị kẹt trong sự sanh tử biến dịch vì còn Pháp chấp.
4)        Trí huệ của hàng Nhị thừa tu chứng đặng Niết-bàn Tịch diệt gọi là gì?
           Trí huệ này gọi là Sanh không Chơn-như hay là Nhơn không Bát-nhã.
5)        Tại sao gọi là Chơn lý Sắc-Không tương đối của Tiểu thừa?
           Bực Nhơn Thiên chấp có (Sắc) còn hàng Nhị thừa chấp Không. Mà Sắc lại đối với Không, nên Chơn lý này mới gọi là Chơn lý Sắc-Không tương đối của Tiểu thừa.
6)        Hai chữ Sắc và Không chỉ cái gì?
           Nếu chúng ta nhìn xem vũ trụ, chúng ta liền thấy một bên là vạn vật hữu hình hữu tướng như mặt trời, mặt trăng, trái đất, sao, núi, sông, biển v.v… Những vật này có hình tướng, màu sắc nên gọi là Sắc. Kế bên vạn vật là cái trống không vô cùng, vô tận gọi là Không. Thế thì, Sắc-Không chỉ hai tướng tương đối làm ra vũ trụ (sắc tướng và hư không).
III. PHẦN TOÁT YẾU
(Học thuộc lòng bài này)
Về phần Giáo lý, Đức Phật dạy:
1) Cõi Nhơn Thiên còn bị kẹt trong sự sanh tử Phần đoạn vì còn Ngã chấp và Pháp chấp. Cho nên Đức Phật dạy hàng Thinh văn và Duyên giác phá Ngã chấp chớ chưa phá được Pháp chấp, để ra khỏi sự Sanh tử Phần đoạn.
2) Chứng đặng Niết-bàn Tịch diệt tức là Tâm Không.
– Được giải thoát trong vòng tương đối.
– Nhưng còn bị kẹt trong sự sanh tử Biến dịch vì còn Chấp pháp.
3) Trí huệ này gọi là Sanh không Chơn-như hay là Nhơn không Bát-nhã.
4) Nhận thấy cõi Nhơn Thiên thì chấp có, còn hàng Nhị thừa thì chấp không. Cái có đối với cái không, cho nên Chơn lý này gọi là Chơn lý Sắc Không tương đối của Tiểu thừa.
Sắc (cái có) chỉ vạn vật hữu hình, hữu tướng như mặt trời, mặt trăng, trái đất, sao, núi, sông, biển v.v… Không (cái không) chỉ cái hư không, trống không vô cùng, vô tận.
Sắc Không là hai tướng tương đối tạo thành Vũ trụ vạn vật, là nguồn gốc của sự sanh sanh, hoá hoá, cũng là nguồn gốc của sự sanh tử; vì hễ chấp sắc thì bị kẹt trong sự sanh tử Phần đoạn, còn chấp không thì bị kẹt trong sự sanh tử Biến dịch.
Đạo Phật là đạo giải thoát, lẽ cố nhiên người Phật tử phải liễu ngộ nguồn gốc ấy mới tu giải thoát được. Vì lẽ đó mà Đức Phật mới dùng hai chữ Sắc Không để dạy Đạo về phần Giáo lý của ba bực.

BÀI TẬP
1) Gạch dưới những chữ quan trọng để tìm hiểu ý nghĩa trong bài, nói về cõi nào? bực nào? lý gì?
Thiện ác đáo đầu chung hữu báo. Đó là luật nhơn quả, sự vay trả của sáu cõi Phàm khó tránh khỏi.
Có-không, không-có luôn luôn đối đãi với nhau, làm cho kẻ chấp có phải mang thân hình tứ đại hư vọng, khi sanh lên cõi Trời Người, lúc đoạ xuống cõi Súc sanh, Địa ngục, người chấp không thì được giải thoát trong vòng tương đối, ra khỏi sự sanh tử Phần đoạn mà thôi.
2) Tìm tiếng tương đối (phản nghĩa) của những chữ và câu sau đây: Hữu ngã, Hữu vi, Ta bà, Mê tín, Cha ăn cơm, Đời nhập thế, Bờ sanh tử bên này.
3) Tìm những danh từ tương ứng điền vào chỗ trống cho đủ nghĩa trong bài dưới đây:
Phật dạy bực Tiểu thừa cái Chơn lý . . . . . . . . . . . . . . . . . . . Phàm phu thì được hưởng Phước báo nơi cõi . . . . . . . . . . . . . . Còn Tiểu Thánh chứng đặng Tâm Không tức là . . . . . . . . . . . . . . . . Tuy ra khỏi sự . . . . . . . . . . . . . . . . . . . mà lại bị kẹt trong sự . . . . . . . . . . . . . . . . . . . Hàng Thinh văn Duyên giác hiểu thấu đặng cái lý Vô ngã nên đắc đặng Trí huệ . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

                                                                       Nam Mô A Di Đà Phật.
                                                 Kính Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.

————————————————



BÀI 10
PHÁP MÔN TU CHỨNG CỦA BỰC TRUNG
(THINH VĂN THỪA )

Muốn tu chứng quả vị Thinh văn, Đức Phật dạy tu pháp Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo.
Tứ Diệu Đế là bốn điều chắc thật, không bao giờ thay đổi, cũng gọi là bốn Chơn lý.(1)
1) Khổ Đế             2) Tập Đế         chỉ Nhơn quả Nhập thế.
3) Diệt Đế             4) Đạo Đế         chỉ Nhơn quả Xuất thế.
KHỔ ĐẾ: Đức Phật dạy sự khổ của chúng sanh kể không thể hết, nhưng tóm lại chỉ có bốn cái khổ chánh là Sanh, Lão, Bệnh, Tử và bốn cái khổ phụ là Ái biệt ly khổ (sanh ly tử biệt khổ), Cầu bất đắc khổ (cầu không đặng toại nguyện khổ), Oán tắng hội khổ (oán thù gặp nhau khổ), Ngũ ấm xí thạnh khổ (Sắc ấm, Thọ ấm, Tưởng ấm, Hành ấm, Thức ấm, trong năm ấm này mà có một ấm hưng thạnh hơn các ấm kia thì nó chi phối nhau làm cho con người khổ).
TẬP ĐẾ: Tậpnhóm họp, Đếchắc thiệt. Tập Đế chỉ tất cả nguyên nhân nhóm họp trong Tâm mình làm cho mình phải chịu khổ. Những nguyên nhân ấy gọi là phiền não(2) tức là lòng tham, sân, si, mạn,(3) nghi, tà kiến, thân kiến,(4) biên kiến,(5) kiến thủ,(6)giới cấm thủ.(7)
DIỆT ĐẾ: Diệt là dứt trừ, là làm cho tiêu mất, dứt mất. Muốn hết khổ, người tu hành phải diệt trừ tập nhơn phiền não ấy. Phiền não hết thì quả khổ không còn nữa.
ĐẠO ĐẾ: Đạo là quả, chỗ kết quả của sự tu chứng tức là Niết-bàn. Nếu trừ được phiền não sạch, thì Tâm chúng ta được hoàn về chỗ không-tịch, vắng lặng tức là Niết-bàn tịch diệt, gọi là Đạo Đế. Như trường hợp ông Bàn Đặc ngộ hai chữ chổi quétquét cho sạch lòng phiền não thì liền chứng quả Thánh. Thế thì Diệt Đế là Nhơn, Đạo Đế là Quả.
Chúng ta cũng giảng được theo cách thứ nhì là Đạo Đế là Nhơn, Diệt Đế là Quả. Trong trường hợp này Diệt Đế chỉ Niết-bàn tịch diệt. Muốn chứng đặng Niết-bàn ấy phải dùng Đạo Đế mà thực hành. Đạo Đế là Bát Chánh Đạo hay 37 phẩm trợ đạo. Thế thì, Đạo Đế là NhơnDiệt Đế là Quả, là Niết-bàn vậy.
BÁT CHÁNH ĐẠO: Để thực hành trừ lòng phiền não, phải dùng pháp Bát Chánh Đạo. Bát Chánh Đạo là tám con đường chánh: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.
1) Chánh kiến: là thấy chánh, nghĩa là không còn thấy thiện ác như cõi Nhơn–Thiên nữa mà chỉ chỗ không của bổn tâm mình.
2) Chánh tư duy: là suy nghĩ chánh, nghĩa là suy nghĩ xét biết thiệnáchai hột giống của sự sanh tử, do lòng phiền não tạo ra, nên cần diệt hai hột giống ấy nơi tâm mình mới chứng đặng quả giải thoát.
3) Chánh ngữ: là lời nói chánh, nghĩa là không còn nói thiện ác của phàm phu nữa, mà chỉ nói chỗ không tịch, pháp Tứ đế, Bát Chánh Đạo cùng các phẩm trợ đạo là chỗ tu chứng giải thoát của mình.
4) Chánh nghiệp: là nghiệp chánh, chuyên lo sự tu hành, tạo nghiệp giải thoát chớ không tạo nghiệp sanh tử của thế gian nữa.
5) Chánh mạng: là mạng sống chơn chánh, nghĩa là sống theo sự chơn chánh của người tu hành giải thoát.
6) Chánh tinh tấn: là tu hành tiến tới mãi cho đến chỗ giải thoát, không để cho bị đứt đoạn.
7) Chánh niệm: nghĩa là tưởng nhớ chơn chánh, luôn luôn nghĩ đến quả Vô lậu xuất thế, quán sát cảnh Chơn đế, năng tưởng niệm các pháp trợ đạo, v.v…
8) Chánh định: là lẳng lặng chơn chánh, làm cho gió cảnh và sóng thức không còn xao động được nguồn chơn tâm, để cho tâm mình hoàn về chỗ tịch diệt.
BỐN QUẢ THINH VĂN
1) Tu-đà-hoàn: cũng gọi là Thất lai, còn sanh lại bảy lần trong cõi Dục giới, vì mới trừ đặng Kiến hoặc trong Ba cõi (Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới) nhưng chưa trừ đặng Tư hoặc.
2) Tư-đà-hàm: cũng gọi là Nhứt lai, còn sanh lại cõi Dục giới một lần vì đã trừ đặng Kiến hoặc và thêm một phần Tư hoặc.
3) A-na-hàm: cũng gọi là Bất lai, vì đã trừ đặng Kiến hoặc và Tư hoặc trong cõi Dục giới nên không còn trở lại cõi này nữa.
4) A-la-hán: Cũng gọi là Ứng cúng,(8) phá ác,(9) Vô sanh(10) giải thoát ra khỏi Tam giới, vì đã đoạn trừ Kiến hoặc và Tư hoặc trong ba cõi Dục, Sắc và Vô sắc giới, chứng đặng Niết-bàn tịch diệt.
KIẾN HOẶC và TƯ HOẶC
Kiến hoặc: là sự thấy mê lầm do nơi ý thức khởi phân biệt nên sự thấy ấy thuộc về Tà kiến.
Tư hoặc: là sự suy nghĩ mê lầm do nơi năm căn: Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt và Thân tiếp xúc với năm trần là: Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc mới sanh ra lòng Tham, Sân, Si v.v…

I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1)    Chơn lý: là lẽ thật, có tự nhiên của sự vật.
(2)    Phiền não: là sự phiền muộn, não nuột làm cho khổ đau trong lòng.
(3)    Mạn: là tự nâng cao mình lên và lấn lướt hiếp đáp, khinh dễ người khác. Do khinh dễ nên thường bị tổn đức.
(4)    Thân kiến: chấp thân ngũ ấm tứ đại giả hiệp này là Ta.
(5)    Biên kiến: là chấp một bên, thiên về một bên như chấp có hay là chấp không, v.v…
(6)    Kiến thủ: là bảo thủ sự thấy biết sai lầm của mình.
(7)    Giới cấm thủ: là giữ theo giới cấm vô lý của ngoại đạo tà giáo.
(8)    Ứng cúng: ruộng phước rộng lớn, xứng đáng cho cõi Nhơn, Thiên cúng dường.
(9)    Phá ác: phá tan những phiền não hung ác, chúng không còn khuấy phá, sai sử trói buộc nữa.
(10)  Vô sanh: bực không còn bị sanh tử luân hồi nữa.
II. PHẦN VẤN ĐÁP
1)       Bực Thinh văn tu theo pháp nào?
          Bực Thinh văn tu theo pháp Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo.
2)        Nguyên nhân nào làm cho con người phải khổ?
           Lòng phiền não là nguyên nhân làm cho con người phải chịu khổ mãi.
3)        Muốn hết khổ người tu hành phải làm gì?
           Muốn hết khổ phải trừ lòng phiền não, hễ phiền não hết thì khổ liền dứt.
4)        Muốn chứng quả Thinh văn, Phật dạy tu pháp Tứ Diệu Đế, sao còn dạy tu pháp Bát Chánh Đạo nữa?
          Bát Chánh Đạo dùng để thật hành trừ tập nhân phiền não.
5)       Tam giới là sao?
           Tam giới là ba cõi: Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới.
III. PHẦN TOÁT YẾU
Bực Thinh văn tu pháp Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo.
Tứ Diệu Đế là bốn Chơn lý chắc thiệt không dời đổi:
       1) Khổ đế,
       2) Tập đế,
       3) Diệt đế,
       4) Đạo đế.
Bát Chánh Đạo là tám con đường chánh:
       1) Chánh kiến,
       2) Chánh tư duy,
       3) Chánh ngữ,
       4) Chánh nghiệp,
       5) Chánh mạng,
       6) Chánh tinh tấn,
       7) Chánh niệm,
       8) Chánh định.
Tu hai pháp này sẽ chứng được bốn quả Thánh:
       1) Tu-đà-hoàn,
       2) Tư-đà-hàm,
       3) A-na-hàm,
       4) A-la-hán.
Trong bốn quả này, chỉ có quả A-la-hán mới thoát ra khỏi Tam giới.

                                                                       Nam Mô A Di Đà Phật.
                                                 Kính Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.

————————————————


BÀI 11
PHÁP MÔN TU CHỨNG CỦA BỰC TRUNG
(DUYÊN GIÁC THỪA )

Để tu chứng bực Duyên giác, Đức Phật dạy tu pháp Thập Nhị Nhơn Duyên.

BẢN ĐỒ THẬP NHỊ NHƠN DUYÊN

12
NHƠN DUYÊN
liên quan đến ba đời Nhơn Quả
1. Nhơn quá khứ
1.Vô minh
(Hoặc1)
Căn bản Vô minh
(có Ái, Thủ, Hữu)
2. Hành
(Nghiệp)
2. Quả hiện tại
3. Thức
(Khổ)
Thân hiện tại
4. Danh sắc
5. Lục nhập
6. Xúc
7. Thọ
3. Nhơn hiện tại
8. Ái
(Hoặc)
Chi mạt Vô minh
(có Vô minh, Hành)
9. Thủ

10. Hữu
(Nghiệp)
4. Quả vị lai
11. Sanh
(Khổ)
Thân vị lai
12. Lão, tử

THẬP NHỊ NHƠN DUYÊN:
  1. Vô minh: nghĩa thông thường là không sáng, tối tăm, mờ ám, si mê. Cũng có nghĩa là Tâm bất giác vọng động.
  2. Hành: là hành động, tạo tác sự thiện ác.
  3. Thức: là Tánh biết và phân biệt vạn vật, hay là Thần thức, Nghiệp thức.
  4. Danh sắc: là tên và hình. Danh là phần tinh thần (Tâm), Sắc là phần hình tướng (Thân).
  5. Lục Nhập: là sáu chỗ vào, chỉ sáu căn là sáu chỗ để cho sáu trần nhập vào.
  6. Xúc: là tiếp xúc.
  7. Thọ: là lãnh nạp vào lòng.
  8. Ái: là ưa muốn (lòng ái dục).
  9. Thủ: là giữ lấy.
10. Hữu: là có, tức là nghiệp mới làm cho có thân sau.
11. Sanh: là sanh ra.
12. Lão, tử: là già, chết.
Phép Quán 12 Nhơn Duyên có 2 cách
1) Lưu chuyển quán,(4) 2) Hoàn diệt quán(5)
1) Lưu chuyển quán: Do một niệm bất giác trong đời vô thỉ khởi lên (Vô minh) nên mới có (Hành) tức là sự tạo tác lành, dữ mà thành ra mới có nghiệp (Thức). Nghiệp thức này mới dẫn dắt chúng sanh đi đầu thai, sanh lại để trả quả mới có thân tâm là (Danh sắc); hễ có thân thì phải có sáu căn (Lục nhập). Sáu căn mới tiếp xúc (xúc) hằng ngày với sáu trần nên thường sanh ra cảm (Thọ). Nhơn Thọ mới sanh ra (Ái) là ưa muốn mới giữ vào lòng (Thủ) mà sanh ra nghiệp mới nữa là (Hữu). Hễ nghiệp thức có thì làm sao tránh khỏi có thân sau (Sanh) và thân này sẽ già chết (Lão, Tử).
2) Hoàn diệt quán:
 1.  Tại sao có già, chết?
      Vì có sanh ra.
 2.    Tại sao có sanh?
        Vì có nghiệp là Hữu.
 3.    Tại sao có nghiệp?
        Vì có Thủ là giữ sự ưa muốn vào lòng nên mới có nghiệp thức.
 4.    Tại sao có Thủ?
      Vì có Ái.
 5.  Tại sao có Ái?
        Vì có Thọ.
 6.    Tại sao có Thọ?
        Vì hằng ngày sáu căn tiếp xúc với sáu trần.
 7.    Tại sao có Xúc?
        Vì có Lục nhập là sáu căn, chỗ của Lục trần nhập vào.
 8.    Tại sao có Lục nhập?
        Vì có Thân tâm là Danh sắc.
 9.    Tại sao có Danh sắc?
        Vì có Thức (Thần thức dẫn dắt con người đi đầu thai).
10. Tại sao có Thức?
        Vì có Hành là việc tạo tác.
11.   Tại sao có Hành?
      Vì có lòng mê muội, tối tăm, vọng động (Vô minh).
Thế thì, Vô minh là nguồn gốc của sự Lão, tử. Nếu người tu hành diệt trừ Vô minh thì Hành phải diệt, Hành dứt thì Thức diệt, Thức diệt thì Danh sắc cũng diệt, v.v… cho đến khi Hữu diệt thì Sanh cũng diệt, Sanh diệt thì Lão, tử cũng phải diệt.
Già chết đã diệt rồi thì cái máy sanh tử phải bị tuyệt, người tu hành mới chứng đặng bực giải thoát thành Phật Bích chi(6) hay là Độc giác.(7)

I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1)    Hoặc: là mê lầm, hoặc nghiệp là nghiệp sai lầm.
(2)    Căn bản Vô minh: là Vô minh cội gốc để sanh ra các thứ Vô minh khác.
(3)    Chi mạt Vô minh: là Vô minh ngọn ngành do Vô minh căn bản sanh ra.
(4)    Lưu chuyển quán: Lưu chuyển là dời đổi, trôi chảy. Lưu chuyển quán là quán sát trạng thái sanh khởi của 12 Nhơn Duyên.
(5)    Hoàn diệt quán: là quán sát sự tiêu diệt của 12 Nhơn Duyên như: Vô minh diệt thì Hành diệt v.v…
(6)    Bích chi Phật: là bực tu hành sanh ra gặp Phật chỉ dạy tu pháp 12 Nhơn Duyên mà được đắc quả.
(7)    Độc giác Phật: là bực tu hành sanh ra không gặp Phật nhưng gặp pháp 12 Nhơn Duyên quán xét tự tu mà được đắc quả.
III. PHẦN VẤN ĐÁP
1)       Bực Duyên giác tu theo pháp nào?
          Bực Duyên giác tu theo pháp Thập Nhị Nhơn Duyên.
2)        Khi tu pháp quán 12 Nhơn Duyên, cái gì là nguồn gốc của sự sanh tử?
           Vô minh là nguồn gốc của sự sanh tử. Trừ Vô minh thì Lão, tử hết.
3)        Có mấy cách quán Thập Nhị Nhơn Duyên?
           Có 2 cách quán: một là Lưu chuyển quán, hai là Hoàn diệt quán.
4)        Tu pháp Thập Nhị Nhơn Duyên sẽ được chứng quả cách nào?
           Tu pháp Thập Nhị Nhơn Duyên sẽ được chứng quả bực Bích chi Phật hay là Độc giác Phật.
IV. PHẦN TOÁT YẾU
Muốn được chứng quả Duyên giác Phật thì phải tu pháp Thập Nhị Nhơn Duyên. Mười Hai Nhơn Duyên là:
1. Vô minh
2. Hành
3. Thức
4. Danh sắc
5. Lục nhập
6. Xúc
7. Thọ
8. Ái
9. Thủ
10. Hữu
11. Sanh
12. Lão, tử.
Pháp quán 12 Nhơn Duyên có hai cách, một là Lưu chuyển quán, hai là Hoàn diệt quán.
Tu theo pháp này sẽ được chứng bực Phật Duyên giác tức Bích chi Phật hay là Độc giác Phật.

                                                                       Nam Mô A Di Đà Phật.
                                                 Kính Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.

————————————————


BÀI 12
Đường Lối Dạy Đạo Bực Trung
của đức Giáo-chủ MINH TRÍ:
TRỪ LỤC CĂN, DIỆT LỤC TRẦN

Đức Giáo-chủ Minh Trí dạy rằng: cái kiếp con người sanh ra chịu trăm cay ngàn đắng để trả cho rồi nghiệp chướng. Bởi con người tạo nghiệp nên phải chịu luân hồi đời đời không biết đâu là giới hạn. Nguyên nhân chủ yếu của sự sanh tử luân hồi ấy, chính là thân của ta gây nên cả, vì thân của ta có sáu căn hằng ngày tiếp xúc với sáu trần làm cho ta gây ra thất tình(1) để khuấy rối Tâm ta không lúc nào buông tha.
Muốn tránh khỏi cái khổ sanh tử luân hồi này, Đức Giáo-chủ Minh Trí dạy chúng ta tu pháp Trừ Lục Căn, Diệt Lục Trần, nghĩa là ngăn cấm sáu căn không cho thâu thập sáu trần để cho Tâm ta được trong sạch.
Sáu căn là: Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân và Ý.
Nhãn là mắt để thấy Sắc.
Nhĩ là tai để nghe Thinh.
Tỷ là mũi để ngửi Mùi (Hương).
Thiệt là lưỡi để nếm Vị.
Thân là xác thịt để biết Xúc là sự nóng lạnh, cứng mềm, v.v…
Ý là lòng để phân biệt Pháp là những cái có thể tưởng tượng được.
Sáu trần cũng gọi là Lục tặc,(2) Lục kiếm,(3) Lục thỉ.(4)
LUẬN VỀ CHỖ SÁU CĂN NHIỄM SÁU TRẦN
SẮC: là sắc thân, hình sắc, nói tóm lại những cái hình dạng coi xinh đẹp, quí báu đều gọi là Sắc. Mắt thấy cái giả sắc ấy cho rằng tốt đẹp, sanh lòng ham muốn làm cho Tâm ta rối loạn nên kêu là Trần.
THINH: là tiếng, như giọng nói, lời ca hát, tiếng đờn, tiếng quyển, tiêu tao, thanh nhã, làm cho tai nghe tới, tinh thần phải mê mệt, làm cho Tâm ta rối loạn. Ta cứ ưa nghe nó hoài, thì cái Chơn tâm mờ ám, ngày kia ắt sa vào Lục đạo.
HƯƠNG: là các mùi thơm tho như dầu thơm, phấn thơm v.v… Mũi ngửi vào bắt tinh thần ưa muốn, cũng như bướm kia đói hoa, khát nhuỵ mà phải đổ đường tìm hoa, xúi cho ta mua sắm cho thoả lòng dục vọng, làm như vậy nên tinh thần u ám.
VỊ: là mùi ngon trong vật ăn uống. Cách cư xử của người Đạo đức, ăn no bụng thì đủ, chẳng cầu cao lương mỹ vị. Phật nói “Thực thiểu vô cầu,” nghĩa là “Ăn ít không tham.” Nếu ăn ngon miệng tốn kém nhiều, phải sanh lòng tham ác.
XÚC: là đụng chạm vào xác thân và tinh thần, xúc vào xác thân  như: nóng, lạnh, cứng, mềm, xúc vào tinh thần như: hơi thơm, thúi v.v… Vậy ăn mặc miễn phương tiện thời đủ, cách giản tiện đó là cao thượng hơn cách xa hoa mỹ lệ.(5)
PHÁP: là cái pháp trần như những cái có thể tưởng tượng được như tưởng đến việc công danh, phú quí và các điều lợi mình, hại người, cũng như việc trái với đạo lý, đều hại cho tinh thần cả.
Có bài thi rằng:
    Sắc tướng đừng xem giữ tánh không,
    Thinh âm nghe đến khiến xao lòng.
    Hương nồng ngào ngạt xin đừng mến,
    Vị thắm ngọt ngon dặn chớ trông.
    Xúc cảm cao sang sanh dục vọng,
    Pháp cầu danh lợi chớ nên mong.
    Sáu điều hư, thiệt bày rành rẽ,
    Giữ đặng ngày sau thoát cõi hồng.
Nhận thấy đường lối dạy Đạo bực Trung của Đức Giáo-chủ Minh Trí giống như của Đức Phật.

I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1)    Thất tình: là bảy tình: hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục, nghĩa là mừng, giận, buồn, vui, thương, ghét, muốn.
(2)    Lục tặc: là sáu tên ăn cướp chơn tánh của người.
(3)    Lục kiếm: là sáu lưỡi gươm bén để đâm mình, bằm thây mình, hễ rờ tới thì chết.
(4)    Lục thỉ: là sáu mũi tên để bắn yết hầu mình.
(5)    Xa hoa mỹ lệ: xa hoa là xa xí, mỹ lệ là đẹp đẽ. Nghĩa là sự xa xí để làm cho lộng lẫy đẹp đẽ.
II. PHẦN VẤN ĐÁP
1)       Tại sao con người phải bị cái khổ sanh tử luân hồi?
          Con người phải bị sanh tử luân hồi vì tạo nghiệp (dữ).
2)       Sáu căn và sáu trần là gì?
           Sáu căn là Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân và Ý.
               Sáu trần là Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc và Pháp.
3)        Trừ Lục căn, diệt Lục trần nghĩa là sao?
          Trừ Lục căn, diệt Lục trần nghĩa là không cho Lục căn ô nhiễm thâu thập Lục trần.
4)        Tu pháp trừ Lục căn, diệt Lục trần có được giải thoát không? Và chứng quả bực nào?
           Tu pháp này được giải thoát ra khỏi cõi hồng trần, chứng quả bực Trung là Thinh văn và Duyên giác vậy.
III. PHẦN TOÁT YẾU
Đức Giáo-chủ Minh Trí dạy bực Trung tu pháp trừ Lục căn, diệt Lục trần.
Lục căn là: Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân và Ý.
Lục trần là: Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc và Pháp. Trừ Lục căn, diệt Lục trần là không cho sáu căn ô nhiễm, thâu thập sáu trần để cho tâm tánh được trong sạch không còn tạo nghiệp sanh tử nữa.
BÀI TẬP
I. Tìm câu để đối với những câu sau đây:
     1) Làm lành được lên Thiên đường.
     2) Ba độc nhận người nơi biển khổ.
     3) Thập thiện hưởng vui nhưng còn sanh tử.
II. Gạch dưới những chữ quan trọng để tìm hiểu ý văn nói về Lý nào? Cõi nào? Bực nào?
Tứ đại nguyên không thiệt.
Sắc thân tức thị không.

                                                                       Nam Mô A Di Đà Phật.
                                                 Kính Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.

————————————————


PHẦN NGHE KINH BỰC TRUNG

LÝ VÔ NGÃ (KHÔNG TA)

* * *
VẤN ĐÁP VỀ ĐẠO LÝ (KHÔNG CÓ TA)
Vua Di Lan Đà lại gần Đức Na Tiên và chào ngài. Chào xong, vua cung kính ngồi một bên. Đức Na Tiên đáp lễ làm cho vua đẹp lòng. Đoạn vua khởi chuyện hỏi:
— Bạch Đại đức, ngài tên chi?
— Người ta gọi bần tăng là Na Tiên và các bạn Tỳ kheo cũng kêu tôi bằng tên đó. Nhưng dầu cho cha mẹ đặt tên Na Tiên hay tên nào khác nữa, ví như Duy Tiên, Thủ La Tiên, Duy La Tiên thì cũng chẳng qua là những tên đặt để phân biệt từng người cho tiện mà thôi, chớ trong đó không có ta đâu mà tìm.
— Này năm trăm quan chức với tám mươi ngàn Tỳ kheo hãy nghe đây, hôm nay Đức Na Tiên nói với trẫm như vầy: “Không có Ta đâu mà tìm.” Vậy trẫm có thể tin nhận lời ngài chăng? — Và vua phán hỏi Đại đức rằng — Bạch ngài! Nếu không có Ta thì ai đem lại cúng dường cho các Sư những vật cần ích như đồ ăn, đồ mặc, đồ ngủ, phòng xá, và thuốc men cho những Thầy đau ốm? Ai lại thâu nhận, ăn dùng mấy món ấy? Ai bảo tồn luân lý đạo nghĩa? Ai ngồi tham thiền? Ai hành Đạo? Ai đắc  quả? Và ai nhập Niết  bàn? Ai sát sanh, trộm cắp, tà dâm? Ai láo xược, say sưa, phạm Ngũ giới? Nếu vậy thì không lành, không ác, không ai làm lành, cũng không ai làm ác. Những việc làm dầu tốt, dầu xấu cũng không có quả báo gì hết? Bạch ngài! Vậy thì kẻ giết Tỳ kheo không phải là sát nhơn và bạch các ngài! Các ngài không có ai là Thầy, không có ai là người giảng dạy, khuyên răn, và không có ai là người tiếp truyền ngôi thứ theo Đạo pháp. Nếu ngài nói rằng “Này Tỳ kheo các huynh! nhà vua kêu tôi là Na Tiên” thì Na Tiên đó là gì? Bạch  ngài! Xin ngài giải cho. Hay là tóc trên đầu là Na Tiên?
— Không phải đâu bệ hạ.
— Hay là lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tuỷ, trái cật, trái tim, gan, lá lách, ruột, cái cuống để giữ lấy ruột, đồ ăn chưa tiêu hoá, đồ ăn đã tiêu hoá thành phẩn, đàm lạnh, đàm khạc, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, nước trĩn hơi da, nước miếng, nước dãi, nước trong mấy lóng xương, nước tiểu, sọ?
— Cũng không phải.
— Bây giờ hình sắc thân thể, sự nhận biết vui buồn sướng khổ, sự tưởng phải quấy, hay thế này, thế khác, sự toan tính hành động trong lòng, hay là cái Tâm thức có phải là Na Tiên không?
— Cũng không phải.
— Hay ngoài ra ngũ uẩn, còn có cái gì nữa là Na Tiên chăng?
— Cũng không.
— Bạch ngài! Trẫm đã hỏi ngài tường tận mà trẫm không thấy Na Tiên. Bây giờ thật ra Na Tiên chỉ là tiếng nói thôi. Vậy ai là Na Tiên? Bạch ngài! Ngài nói ngài là Na Tiên, ấy là ngài nói dối, thật không có Na Tiên.
Bấy giờ Đại đức nói với vua rằng:
— Bệ hạ là một nhà vua thanh nhã lắm. Nếu giữa ban ngày mà bệ hạ đi trên đất nóng và đạp cát nóng, ắt chơn bệ hạ nóng, người bệ hạ mệt, trí bệ hạ loạn và tâm ý bệ hạ lấy làm khó chịu. Mà bệ hạ ngự đến đây bằng bộ hay bằng xe?
— Bạch ngài! Trẫm không đến bộ. Trẫm đến bằng xe.
— Nếu bệ hạ đến bằng xe, xin cho bần tăng biết cái xe với. Gọng có phải xe không?
— Không phải.
— Cây cốt có phải xe không?
— Không phải.
— Vành, bánh có phải xe không?
— Không phải.
— Miếng cây bọc cái cốt có phải là xe không?
— Không phải.
— Cây cột cổ có phải là xe không?
— Không phải.
— Cái ách có phải là xe không?
— Không phải.
— Chỗ gác chơn có phải là xe không?
— Không phải.
— Mui có phải là xe không?
— Không phải.
— Những món ấy hiệp lại và đóng chung với nhau có phải là xe không?
— Không phải.
Na Tiên lại hỏi:
— Giả như không hiệp mấy món ấy lại  thì có món chi là xe không?
— Không.
— Tiếng khua động có phải là xe không?
— Không.
— Vậy chớ cái xe là cái gì?
Vua lặng thinh không trả lời.
Na Tiên nói:
— Trong kinh Phật có giảng như vầy: “Cũng như hiệp các món kia lại đặng làm thành một cái mà người ta tạm gọi là xe. Cũng như thế, sự hiệp lại của tất cả đầu, mặt, mắt, tai, mũi, miệng, cổ, ót, vai, cánh tay v.v… mà người ta muốn phân biệt cho tiện nên tạm kêu là người đó thôi. Mà thật ra thì không có người.” Bà Tăng ni Hoa Si Rá có bạch trước mặt Đức Phật rằng: “Cái xe có nghĩa là nhiều món hiệp lại mà vẽ thành một vật chung, cũng như nhiều món cơ thể hiệp lại, vẽ thành một vật mà người ta gọi là chúng sanh.”
Vua phán:
— Hay lắm, hay lắm! Chớ chi Đức Phật còn tại thế thì Đức Phật sẽ khen tặng ngài lắm.

————————————————


PHẦN ÔN BÀI BỰC TRUNG

1     Phần giáo lý của Đức Phật dạy bực Trung ra sao?
       Cõi Nhơn–Thiên còn bị kẹt trong sự sanh tử Phần đoạn vì còn Ngã chấp và Pháp chấp, cho nên Đức Phật dạy hàng Thinh văn và Duyên giác phá cái Ngã chấp chớ chưa phá được Pháp chấp để ra khỏi sự sanh tử Phần đoạn. Chứng đặng Niết-bàn Tịch diệt tức là Tâm-không, được giải thoát tương đối, nhưng còn bị kẹt trong sự sanh tử Biến dịch vì còn Pháp chấp.
            Trí Huệ này gọi là Sanh không Chơn-như hay là Nhơn không Bát-nhã. Nhận thấy cõi Nhơn–Thiên còn chấp có, hàng Nhị thừa thì chấp không, mà cái có đối đãi với cái không. Cho nên chơn lý này gọi là Chơn lý Sắc Không tương đối của Tiểu thừa.
2      Hàng Nhị thừa phá được gì, và ra khỏi sự sanh tử nào?
        Hàng Nhị thừa phá được Ngã chấp và ra khỏi sự sanh tử Phần đoạn, chưa phá được Pháp chấp nên còn bị kẹt trong sự sanh tử Biến dịch.
3      Niết-bàn Tịch diệt, Sanh không Chơn-như và Nhơn không Bát-nhã nghĩa là gì?
        Niết-bàn Tịch diệt là Niết-bàn vắng lặng, dứt mất. Sanh không Chơn-như là chúng sanh vốn là không, chẳng thiệt có, cũng gọi là Ngã không hay là Nhơn không. Nhơn không Bát-nhã nghĩa là người cũng vốn là không.
4      Tương đối nghĩa là gì? Đức Phật dạy Chơn lý Sắc Không tương đối cho bực nào?
        Tương đối nghĩa là hai pháp còn đối đãi với nhau (chưa được hoàn toàn), nghĩa của nó tương phản nhau. Đức Phật dạy Chơn lý Sắc Không tương đối cho bực Tiểu thừa.
5      Khổ Đế, Tập Đế, Nhơn quả nhập thế nghĩa là gì?
        Khổ Đế chỉ sự đau khổ của chúng sanh, Tập Đế chỉ sự nhóm họp của phiền não trong lòng chúng sanh, làm cho chúng sanh phải khổ. Nhơn quả nhập thế là chỉ nhơn quả còn trong vòng sanh tử luân hồi.
6      Diệt đế, Đạo đế, Nhơn quả xuất thế nghĩa là gì?
        Diệt đế là diệt trừ sự phiền não. Đạo đế là chỗ chứng quả chỉ Niết-bàn. Nhơn quả xuất thế là chỉ cái nhơn quả tu hành ra khỏi sự sanh tử luân hồi.
7     Phiền não chỉ cái gì? Phiền não nghĩa là gì? Tại sao phải trừ phiền não? Và khi trừ được phiền não thì chứng đặng gì?
        Phiền não chỉ lòng mừng, giận, buồn, vui, thương, ghét, muốn. Phiền là buồn phiền, não là não hại. Phiền não là lòng buồn phiền não hại làm cho chúng sanh mãi bị nhận chìm trong sự sanh tử luân hồi. Sở dĩ phải trừ phiền não là vì trừ được phiền não mới dứt được quả khổ và khi trừ được phiền não thì chứng được Niết-bàn Tịch diệt tức cái Tâm-không.
8      Tại sao gọi là Tâm không? Tâm không nghĩa là gì?
        Sở dĩ gọi là Tâm không vì cái không này còn trong vòng tương đối. Tâm không nghĩa là cái Tâm trống không, trống rỗng không có gì hết.
9      Bát Chánh Đạo là gì?
       Bát Chánh Đạo là tám con đường chánh:
                   1. Chánh kiến           2. Chánh tư duy
                   3. Chánh ngữ           4. Chánh nghiệp
                   5. Chánh mạng         6. Chánh tinh tấn
                   7. Chánh niệm         8. Chánh định.
10    Tam giới là gì? Kiến hoặc và Tư hoặc nghĩa là gì?
        Tam giới là ba cõi: Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Kiến hoặc là sự thấy mê lầm. Tư hoặc là sự suy nghĩ mê lầm.
11    Bực nào trừ được Kiến hoặc trong Tam giới?
        Bực Tu-đà-hoàn trừ được Kiến hoặc trong Tam giới.
12    Bực nào trừ được Kiến hoặc trong Tam giới và một phần Tư hoặc ở cõi Dục giới?
        Bực Tư-đà-hàm trừ được Kiến hoặc trong Tam giới và một phần Tư hoặc cõi Dục giới.
13    Bực nào trừ được Kiến hoặc trong Tam giới và Tư hoặc trong cõi Dục giới?
        Bực A-na-hàm trừ được Kiến hoặc trong Tam giới và Tư hoặc trong cõi Dục giới.
14    Bực nào trừ được Kiến hoặc và Tư hoặc trong Tam giới?
        Bực A-la-hán trừ được Kiến hoặc và Tư hoặc trong Tam giới.
15    Thập Nhị Nhơn Duyên nghĩa là gì?
        Thập Nhị Nhơn Duyên là 12 Nhơn Duyên, dùng pháp 12 Nhơn Duyên để tu hành chứng quả Phật Duyên giác.
            Thập Nhị Nhơn duyên gồm có:
            * Vô Minh: là Tâm vọng động.
            * Hành: là hành động, tạo tác.
            * Thức: là Thần thức hay Tâm thức.
            * Danh sắc: là Thân và Tâm.
            * Lục nhập: là sáu căn.
            * Xúc: là sự tiếp xúc.
            * Thọ: là lãnh nạp vào lòng.
            * Ái: là ưa thích (lòng ái dục)
            * Thủ: là giữ lấy.
            * Hữu: là có, nghiệp mới tạo ra.
            * Sanh: là sanh ra.
            * Lão, tử: là già, chết.
16    Nguồn gốc của các sự khổ là gì? Của Lão, tử là gì?
       Nguồn gốc của sự khổ là phiền não. Của Lão, tử là Vô minh.
17    Quán 12 Nhơn Duyên có mấy cách?
        Quán 12 Nhơn Duyên có hai cách: một là Lưu chuyển quán, hai là Hoàn diệt quán.
18    Lưu chuyển quán, Hoàn diệt quán, căn bản Vô minh, chi mạt Vô minh, Bích chi Phật, Độc giác Phật nghĩa là gì?
        Lưu chuyển quán là quán xét sự sanh khởi liên tiếp của 12 Nhơn duyên. Hoàn diệt quán là quán xét chỗ tiêu diệt của 12 Nhơn Duyên. Căn bản Vô minh là vô minh cội rễ. Chi mạt Vô minh là vô minh ngọn ngành. Bích chi Phật là người sanh ra gặp Phật ra đời dạy Đạo và gặp pháp 12 Nhơn Duyên tu thành bực Duyên giác. Độc giác Phật là người sanh ra không gặp Phật nhưng gặp pháp 12 Nhơn Duyên tu đắc pháp thành Phật Duyên giác.
19    Đức Giáo-chủ Minh Trí dạy bực Trung tu pháp nào?
        Đức Giáo-chủ Minh Trí dạy bực Trung tu pháp trừ Lục căn, diệt Lục trần, nghĩa là không cho sáu căn ô nhiễm sáu trần.
20    Lục căn và Lục trần là gì?
        Lục căn là sáu căn, gồm có Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý. Lục trần là sáu trần, gồm có: Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp.


————————————————


BÀI 13
BỒ TÁT THỪA BỰC THƯỢNG

A. PHẦN GIÁO LÝ
Hàng Thinh văn, Duyên giác còn bị kẹt trong sự sanh tử Biến dịch vì còn Pháp chấp. Cho nên, muốn tu tiến lên bực Bồ-tát, Đức Phật dạy hàng Nhị thừa phá thêm pháp chấp, ra khỏi sự sanh tử Phần đoạn và Biến dịch, chứng đặng Niết-bàn Tịch chiếu(1) tức là Tâm Chơn không,(2) được hoàn toàn giải thoát. Trí huệ này gọi là Pháp không Chơn-như.(3)
Nhưng cái Tâm Chơn không này rất khó biết, khó hiểu, khó tỏ ngộ, dù đã trải qua nhiều kiếp tu hành (Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ). Vì lẽ đó, Đức Phật phải dùng phương tiện dẫn dắt lần lần từ thấp lên cao, như chúng ta leo thang vậy. Phật áp dụng phương pháp dạy Đạo “Lập rồi phá,” nghĩa là dạy rồi phá bỏ để tiến lên.
1. Chơn lý Sắc Không tương đối của Tiểu thừa:
Như chúng ta đã biết, trước tiên Đức Phật dạy hàng Tiểu thừa Chơn lý Sắc Không tương đối, nhưng cõi Nhơn–Thiên lại chấp có, còn hàng Thinh văn, Duyên giác lại chấp không.
2. Chơn lý huyễn Sắc, huyễn Không của bực Sai biệt trí Bồ-tát:
Muốn tiến lên bực Sai biệt trí Bồ-tát, Đức Phật dạy phá cái chấp có của cõi Nhơn–Thiên và cái chấp không của hàng Nhị thừa bằng cách dạy Chơn lý huyễn Sắc, huyễn Không, nghĩa là cái có và cái không đều là như huyễn, là hư vọng, không phải là chơn thiệt.
3. Chơn lý Vô trụ của Bồ-tát:
Khi bực Sai biệt trí Bồ-tát biết Sắc, Không như huyễn thì Đức Phật dạy tiếp theo đừng trụ Sắc, đừng trụ Không vì Sắc và Không là hư vọng, đâu phải chơn thiệt. Nếu còn trụ Sắc như cõi Nhơn–Thiên thì bị cái hại là kẹt trong sự sanh tử Phần đoạn mà chịu khổ, còn nếu trụ Không như hàng Nhị thừa lại bị kẹt trong sự sanh tử Biến dịch. Bực Sai biệt trí Bồ-tát nhờ không trụ Sắc và Không nên mới tiến lên bực Bồ-tát được.
4. Chơn lý Sắc Không viên dung bình đẳng của hàng Đại Bồ-tát:
Hàng Bồ-tát, tuy ngộ được Sắc và Không là hư vọng, như huyễn, như hoá nên không trụ Sắc và Không, nhưng chưa biết đặng cái Bản Thể Chơn Không Diệu Hữu, nguồn gốc sanh ra hai pháp tương đối Sắc với Không ấy. Nên Đức Phật bèn dạy hàng Bồ-tát tu tiến lên bực Đại Bồ-tát để tỏ ngộ Tâm Chơn không bằng cái Chơn lý Viên dung Bình đẳng.
Viên là tròn đầy, khắp (chỉ bản thể của Vũ trụ vạn hữu). Dung là dung nạp, ngậm chứa lẫn nhau. Bình là bằng. Đẳng là bực.
Viên dung Bình đẳng là nói cái Sắc tức cái Không, cái Không tức cái Sắc, cái Sắc chẳng khác cái Không, cái Không chẳng khác cái Sắc. Cái Sắc chứa đựng cái Không, cái Không (Chơn không diệu hữu) sanh ra cái Sắc. Cái Sắc và cái Không tuy bề ngoài là hai tướng đối đãi khác nhau, bên trong lại đồng nhau một bản thể tức là Chơn không. Thể này tròn khắp, bao trùm vạn vật, vũ trụ, như nhau, bằng nhau, có đủ Thể, Dụng, Tướng, Tánh như như bình đẳng, chẳng một, chẳng hai, chẳng sai, chẳng khác.
Thể: là sự không hình tướng, không sanh diệt, gọi là Tịch.
Tánh: vắng lặng, sáng suốt, tròn soi khắp pháp giới, gọi là Chiếu.
Dụng: là chỉ cái diệu dụng của Tánh ấy luôn luôn giải thoát.
Tướng: là trong sự ứng dụng thì sanh ra sự vật có hình tướng, màu sắc. Hình tướng này hư hoại, không còn hoài.
Tuy là một Tâm mà có bốn phần khác nhau, nên nói một tức là bốn.
Tuy là bốn phần riêng biệt nhau nhưng không thể rời nhau, nên nói bốn tức là một.

I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1)    Niết-bàn Tịch chiếu: Tịch là vắng lặng, chiếu là soi, sáng. Niết-bàn Tịch chiếu là chỉ Tâm lặng và sáng, Niết-bàn tu chứng bực Đại thừa.
(2)    Chơn không: Chơn là thiệt, không giả dối, hư vọng, không biến đổi. Chơn không là cái-Không-chơn-thiệt, tức là lìa hai tướng đối đãi.
(3)    Pháp không Chơn-như: Các pháp đều là hư vọng, không có một pháp nào là chơn thiệt nên gọi là Pháp không. Nhưng tự tánh của các pháp vốn vắng lặng, vốn hằng-không, nên gọi là Pháp không Chơn-như.
II. PHẦN VẤN ĐÁP
1)       Muốn đặng hoàn toàn giải thoát phải phá những gì?
          Muốn đặng hoàn toàn giải thoát phải trừ Ngã chấp và Pháp chấp.
2)        Niết-bàn tu chứng của bực Phật và Bồ-tát gọi là gì? Của bực Thinh văn, Duyên giác gọi là gì?
           Niết-bàn tu chứng của bực Bồ-tát và Phật gọi là Niết-bàn Tịch chiếu. Niết-bàn tu chứng của hàng Thinh văn, Duyên giác gọi là Niết-bàn Tịch diệt.
3)        Trí huệ tu chứng của hàng Bồ-tát gọi là gì? của hàng Nhị thừa gọi là gì?
           Trí huệ tu chứng của hàng Bồ-tát gọi là Pháp không Chơn-như, của hàng Nhị thừa gọi là Sanh không Chơn-như hay là Nhơn không Bát-nhã.
4)        Sao gọi là Tâm Chơn không?
           Tâm Chơn không là Tâm không mà có, Thể tánh của nó xa lìa hai pháp đối đãi. Cái Không này là cái-Không-chơn-thiệt, chớ chẳng phải cái không đối đãi của Tiểu thừa nên gọi là Chơn không, Chơn-như.
5)       Cái Tâm Chơn không khó tỏ ngộ được. Vậy Đức Phật làm cách nào để dạy chúng sanh đặng tỏ ngộ cái Tâm ấy được?
           Phật phải dùng pháp phương tiện dẫn dắt lần lần từ thấp lên cao như dạy chúng ta leo thang từ nấc vậy.
6)        Đại ngộ nghĩa là sao? Tiểu ngộ nghĩa là sao?
           Đại ngộ là sự tỏ ngộ lớn, thấu biết đặng cái Tâm Chơn không Diệu hữu bao trùm vũ trụ vạn hữu tức là cái nguyên lý tuyệt đối, nguồn gốc sanh ra muôn loài vạn vật.
               Còn bực Tiểu ngộ là sự ngộ nhỏ của bực Tiểu thánh, chưa được hoàn toàn rốt ráo như bực Đại thánh, chỉ mới biết cái Tâm hẹp nhỏ ở nơi thân mình chớ chưa biết đặng cái Tâm rộng lớn của minh, ví như mới nhận bọt nước là mình, chớ chưa dám nhận biển nước là mình, biết đặng chỗ ngoan không tịch diệt chớ chưa biết đặng chỗ Chơn không Tịch chiếu, ...
III. PHẦN TOÁT YẾU
Muốn đặng hoàn toàn giải thoát, Đức Phật dạy các hàng Bồ-tát phá Ngã chấp và Pháp chấp, chứng đặng Niết-bàn Tịch chiếu (Tâm Chơn không). Trí huệ này gọi là Pháp không Chơn-như.
Tâm Chơn không khó tỏ ngộ, nên Phật phương tiện dạy lần lần từ thấp lên cao, như người leo thang, nhờ những nấc dưới mà trèo lên được nấc tột bực cao.
Như sơ khởi chúng ta thấy Phật dạy lý tương đối, rồi lên lý như huyễn, vô trụ, sau cùng mới dạy lý Viên dung bình đẳng. Nhờ lý này mới biết đặng Thể tánh Chơn không Diệu hữu của Bổn tâm.
BÀI TẬP
1) Vẽ hai cái hình chỉ lý tương đối.
2) Vẽ hai cái hình:
         a) một cái chỉ chỗ ngộ của bực Tiểu thừa.
         b) một cái chỉ chỗ ngộ của bực Đại thừa.
3) Vẽ một cái hình để chỉ lý Như huyễn.
                                                                       Nam Mô A Di Đà Phật.
                                                 Kính Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.

————————————————


BÀI 14
PHÁP MÔN TU CHỨNG của BỰC THƯỢNG

Muốn tu chứng bực Bồ-tát, Đức Phật dạy tu pháp Lục độ ba-la-mật.
Lục là sáu, độ là đò, ba-la-mật là đáo bỉ ngạn, tức là đến bờ bên kia, bờ giác của chư Phật (chỉ Tâm Chơn không).
Tu pháp Lục độ ba-la-mật để dứt trừ Lục tệ(1) là:
              1. Tham lam
              2. Sái quấy
              3. Sân hận
              4. Giải đãi
              5. Tán loạn
              6. Si mê.
Sáu cái tệ này trừ sạch thì chúng ta mới qua đến bờ bên kia.
1. Bố thí ba-la-mật: là bố thí cái lòng tham lam của mình cho thiệt hết mới đến đặng bờ giác của Phật. Muốn Bố thí ba-la-mật thì dù làm việc tài thí, pháp thí, thân thí hay vô uý thí,(2) chúng ta chẳng nên trụ tướng mới đúng với lời dạy của Phật trong kinh Kim Cang là: “Bồ-tát ư pháp ưng vô sở trụ hành ư bố thí.” Tổ sư Trần Hùng nói: “Như Lai thuyết đệ nhứt ba-la-mật là bố thí bất trụ tướng thì liền tỏ thấu chỗ không-tướng của bổn tâm Chơn không thẳng đến bờ giác thành Phật.”
2. Trì giới ba-la-mật: là giữ giới cấm để cho Tâm hết lỗi lầm, thẳng đến bờ giác của Phật. Trì giới đặng dứt lòng ô nhiễm, sái quấy của chúng sanh cho sạch đến khi Tâm không còn sái quấy nữa, dù là việc dữ nhỏ cũng hết mới gọi là đáo bỉ ngạn.
3. Nhẫn nhục ba-la-mật: là nhịn nhục đến bờ bên kia với mục đích trừ sạch lòng sân hận nơi lòng. Nếu bề ngoài chúng ta nhịn được mà trong lòng còn ấm ức, buồn rầu thì cũng chưa gọi là ba-la-mật được. Thế thì, sự tu hạnh Nhẫn nhục của Bồ-tát đi đến chỗ Tâm Vô sanh, nghĩa là Tâm không còn khởi móng sự giận hờn mảy may gì hết, dù ở trong nghịch cảnh, mới gọi là ba-la-mật.
4. Tinh tấn ba-la-mật: là tu tiến tới mãi không ngừng, không gián đoạn mới gọi là ba-la-mật.
5. Thiền định ba-la-mật: là lẳng lặng, gẫm xét, để cho Tâm mình được an tịnh thì trí huệ mới khai mở. Trong Pháp Bảo Đàn kinh, Đức Lục Tổ có nói: “Ngoài Thiền, trong Định là ngoài ở nơi tướng mà lìa tướng, trong ở nơi không mà lìa không.” Ngoài ở nơi tướng mà lìa tướng thì Tâm mới hết ô nhiệm các tướng, còn trong ở nơi không mà lìa không thì cái Tâm Chơn không mới phát hiện. Thiền định cốt để trừ lòng tán loạn cho hết mới gọi là ba-la-mật.
6. Trí huệ ba-la-mật: là trí huệ sáng suốt dùng để trừ si mê mới chứng quả Bồ đề. Lòng si mê tuy rộng lớn nhưng không ngoài ngã chấp và pháp chấp.
Trí: là đối với các tướng hữu vi Tâm ta thông suốt hiểu biết nên không mê nhiễm tham đắm nữa.
Huệ: là thấu biết được chỗ Không Tịch diệt và Tịch chiếu của Bổn tâm (Nhị thừa và Đại thừa) mới gọi là Huệ.

I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1)    Lục tệ: là sáu cái tệ hại. Tu pháp Lục độ chính là pháp đối trị của Lục tệ.
(2)    Vô uý thí: là Bố thí cái lòng không sợ. Ví dụ như không sợ chết, không sợ khổ, v.v…
II. PHẦN VẤN ĐÁP
1)        Bồ-tát tu pháp Lục độ ba-la-mật đ làm gì?
           Bồ-tát tu pháp Lục độ ba-la-mật để dứt trừ Lục tệ.
2)       Lục độ ba-la-mật và Lục tệ gồm có những gì?
          Lục độ ba-la-mật gồm có:
               1. Bố thí ba-la-mật, 2. Trì giới ba-la-mật, 3. Nhẫn nhục ba-la-mật, 4. Tinh tấn ba-la-mật, 5. Thiền định ba-la-mật, 6. Trí huệ ba-la-mật.
               Lục tệ gồm có:
               1. Tham lam, 2. Sái quấy, 3. Sân hận, 4. Giãi đãi, 5. Tán loạn, 6. Si mê.
3)        Tu pháp Lục độ với pháp Lục độ ba-la-mật khác nhau ra sao?
           Nếu tu pháp Lục độ không có ba-la-mật thì không thể nào đến bờ Giác của Phật đặng, nghĩa là không được hoàn toàn giải thoát vì tu pháp Lục độ là Bố thí mà còn trụ tướng, còn tu pháp Lục độ ba-la-mật tức là Bố thí bất trụ tướng mới được hoàn toàn giải thoát.
4)        Tại sao cần phải có Trí huệ ba-la-mật?
           Trí huệ ba-la-mật là Trí huệ Xuất thế nên cần phải có Trí huệ ấy để diệt trừ tận gốc Tâm si mê, mới chứng được quả Bồ-đề.
III. PHẦN TOÁT YẾU
Đức Phật dạy các hàng Bồ-tát tu pháp Lục độ ba-la-mật để trừ Lục tệ cho sạch mới thẳng đến bờ Giác của Phật.
Lục độ ba-la-mật gồm có:
1. Bố thí ba-la-mật            2. Trì giới ba-la-mật
3. Nhẫn nhục ba-la-mật     4. Tinh tấn ba-la-mật
5. Thiền định ba-la-mật     6. Trí huệ ba-la-mật.
Lục tệ gồm có:
1. Tham lam                      2. Sái quấy
3. Sân hận                          4. Giãi đãi
5. Tán loạn                        6. Si mê.
Tu pháp Lục độ ba-la-mật mới chứng đặng Trí huệ xuất thế, dùng để phá tận gốc Tâm si mê (Ngã chấp và Pháp chấp), mới được hoàn toàn giải thoát.

                                                                       Nam Mô A Di Đà Phật.
                                                 Kính Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.

————————————————


BÀI 15
ĐƯỜNG LỐI DẠY ĐẠO BỰC THƯỢNG
của Đức Giáo-chủ MINH TRÍ:
“ PHƯỚC HUỆ SONG TU ”

Đức Giáo-chủ Minh Trí dạy bực Thượng “Phước Huệ Song Tu,” tức là Lục độ ba-la-mật vì tu Phước là Bố thí ba-la-mật, còn tu Huệ là Trí huệ ba-la-mật.
“Phước Huệ Song Tu” là đường lối dạy Đạo của Tam thế Phật.(1)
Kinh Phật có câu: “Tài Pháp nhị thí thỉ thành công, Phước Huệ lưỡng toàn phương tác Phật,” nghĩa là: Thí Tài, thí Pháp thì chắc chắn thành công, còn Phước Huệ song toàn là phương châm làm Phật.
Tôn chỉ (2) của Phật là Từ bi, Bác ái, Tự giác, Giác tha, sao Tịnh Độ Cư Sĩ Phật Hội Việt Nam lấy “Phước Huệ Song Tu” làm tôn chỉ?
— Xin thưa! Từ bi, Bác ái, Tự giác, Giác tha là nói theo văn tự, còn phần thực hành tu chứng là “Phước Huệ Song Tu” vậy. Vì lẽ nếu không tu Phước làm sao cứu khổ ban vui cho chúng sanh, không lẽ chúng ta chỉ nói từ bi, bác ai bằng những lời nói suông mãi?
Còn Tự giác, Giác tha chẳng phải mình đặng Giác ngộ, hiểu biết Chơn lý của vũ trụ vạn hữu, rồi người khác cũng tự nhiên hiểu biết được như mình? Nên chi mình phải bền chí, tuỳ cơ phương tiện thuyết pháp, giảng kinh, khai thông mở lý thì người khác mới được tỏ ngộ. Đó là thực hành về phần Giác tha.
VẤN ĐÁP VỀ PHƯỚC HUỆ SONG TU
1)   Tu Phước để làm gì?
      — Tu Phước để trừ sự làm ác, để hoàn nguyên bổn tánh Thiện của mình.
          Tu Phước để xây nền tảng Âm chất.
          Tu Phước để kiến tạo hạ tầng cơ sở và lầu đài Định Huệ.
          Tu Phước để trở về cái dụng tướng Bồ-đề của bổn tâm Chơn-như (Chơn-như dụng(3)).
2)   Phước là gì?
      Phước là cái kết quả của sự hành Thiện.
3)   Tu Phước có thể sanh Trí huệ được chăng?
      Âm chất (phước đức) dẫn thông minh lộ.
4)   Tu Phước có thể thành Phước đức tánh không?
      Phước hữu lậu mà không chấp là phước vô lậu và sẽ chuyển thành phước đức tánh.
5)   Bố thí như thế nào mà phước đức không thể nghĩ lường?
      Bố thí bất trụ tướng thì phước đức không thể nghĩ lường.
6)   Tu Huệ để làm gì?
      Tu Huệ để phá trừ Tâm si mê.
          Để chuyển Thức(4) thành Trí.(5)
          Để chuyển phước hữu lậu thành phước vô lậu.
7)   Tu Huệ để phá cái gì?
      Tu Huệ để phá ngã chấp và pháp chấp.
          a) Sanh không huệ để phá ngã chấp trừ phiền não, chứng được bực Trung. b) Pháp không huệ để phá pháp chấp, trừ sở tri chướng,(6) chứng bực Bồ-tát. c) Chơn-như huệ là Trí huệ Thiệt tướng(7) gồm có chỗ Viên dung Bình đẳng và cứu cánh(8) bặt đường ngôn ngữ, dứt chỗ nghĩ lường chứng đặng quả vị Phật.
8)   Huệ là gì?
      Huệ là cái kết quả hiểu biết phân minh sáng suốt.
9)   Huệ có mấy thứ?
      Huệ có ba thứ: Văn huệ, Tư huệ và Tu huệ.
          Văn huệ: nhờ xem kinh nghe pháp mà đặng hiểu biết sáng suốt.
          Tư huệ: nhờ suy nghĩ, tự tìm hiểu mà được sáng suốt.
          Tu huệ: là trau giồi tu tập, dứt trừ lòng phiền não mà được sáng suốt.
10) Huệ có mấy thứ để đối trị?
      Huệ có bốn thứ để đối trị: Huệ Chiếu phá, Huệ Sanh không, Huệ Pháp không và Huệ Chơn-như.
          1. Huệ Chiếu phá: để đối trị hoàn cảnh gia đình hay là thói xấu tật hư của nội tâm.
          2. Huệ Sanh không: để đối trị Ngã chấp trừ diệt phiền não chướng.
          3. Huệ Pháp không: để đối trị Pháp chấp như quyền tước, công danh, phú quí v.v… hay còn chấp có tu, có chứng, có đắc, để trừ Sở tri chướng.
          4. Huệ Chơn-như: Ngã Pháp đều không gọi là Nhị không Chơn-như, gồm có Viên dung bình đẳng và Như như. Bặt đường ngôn ngữ, dứt chỗ nghĩ lường tức là Phật.
11) Tu Huệ còn để làm gì nữa?
      Tu Huệ để diệt trừ Vô minh, như:
          Có mặt nhựt mới trừ đặng bóng đêm.
          Có ngọn đèn mới trừ đặng căn nhà tối.
          Có trí huệ mới phá đặng cái ngu muôn thuở.
          Có trí huệ mới dứt hết mê lầm.
          Có trí huệ mới không còn làm ác.
          Có trí huệ mới dứt được lòng tham, sân và si.
          Có trí huệ ba nghiệp mới đặng thanh tịnh.
          Có trí huệ mới mong thấy tánh.
          Có trí huệ mới biết bỏ Vọng hoàn Chơn.
          Có trí huệ mới rõ được Thiệt tướng.
          Có trí huệ mới tu đến đắc đạo Vô thượng Bồ-đề.
12) Tại sao phải tu Phước và tu Huệ song song nhau?
      Muốn cất nhà phải đắp nền, có nền mà không cất nhà cũng không làm gì được. Còn cất nhà mà không đắp nền thì nhà ấy sẽ bị sụp đổ, ở cũng không được.
          Nền để ví với môn tu Phước (nền Âm chất) nhà để ví với môn tu Huệ.
          Tu Phước mà không tu Huệ thì chỉ hưởng Phước nơi cõi Nhơn–Thiên chớ không tránh được sự sanh tử Phần đoạn. Tu Huệ mà không tu Phước thì chỉ chứng quả của bực Nhị thừa, vẫn còn bị kẹt trong sự sanh tử Biến dịch.
Chỉ có Phước Huệ Song Tu mới ra khỏi hai sự sanh tử ấy, được hoàn toàn giải thoát, chứng quả vị Bồ-đề (xin xem thêm quyển Phước Huệ Song Tu của Giáo Hội).
Nhận thấy đường lối dạy Đạo bực Thượng của Đức Giáo-chủ cũng đồng như của Đức Phật.

I. PHẦN GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ
(1)    Tam thế Phật: là Phật trong ba đời quá khứ, hiện tại và vị lai.
(2)    Tôn chỉ: Chỗ nhắm làm mục đích trong việc gì. Tôn chỉ Phước Huệ Song Tu là cái mục tiêu phương tiện đem ra thực hành để đạt cho được cái mục đích giải thoát của Giáo Hội chủ trương.
(3)    Dụng tướng Bồ-đề hay là Chơn-như dụng: Bồ-đề là Giác. Dụng tướng Bồ-đề là cái dụng tướng sáng suốt, giác ngộ, giải thoát, cũng gọi là Chơn-như dụng, là cái dụng tướng giải thoát của Tâm Chơn-như.
(4)    Thức: là tánh hiểu biết, phân biệt còn trong vòng mê tối của chúng sanh.
(5)    Trí: là sự hiểu biết sáng suốt, trong sạch, giải thoát của bực Thánh.
(6)    Sở tri chướng: cũng gọi là Trí chướng. Sở tri là cảnh tượng, nghĩa là Tâm không thông suốt được cảnh tượng nên bị cảnh tượng làm trở ngại, ngăn cách.
II. PHẦN VẤN ĐÁP
1)       Phước Huệ Song Tu và Lục độ ba-la-mật có khác nhau không?
          Không khác, vì môn tu Phước là đò thứ nhứt Bố thí ba-la-mật, còn môn tu Huệ là đò chót Trí huệ ba-la-mật trong Lục độ, ghép hai đò ấy lại làm Tôn chỉ để gọi giản tiện vắn tắt Lục độ ba-la-mật đó thôi.
2)        Tôn chỉ của Phật là Từ bi, Bác ái, Tự giác, Giác tha, sao Đức Giáo-chủ Minh Trí lại lấy Phước Huệ Song Tu làm Tôn chỉ, thế thì khác với Đức Phật sao?
           Xin thưa, không khác. Như trên đã giải thích, Đức Phật dùng Lục độ ba-la-mật để thật hành Tôn chỉ Từ bi, Bác ái, còn Đức Giáo-chủ dùng Phước Huệ Song Tu để thật hành cầu chứng quả Bồ-đề, mà Phước Huệ Song Tu là Lục độ ba-la-mật thì làm sao gọi là khác được?
3)        Tu Phước để làm gì? Tu Huệ để làm gì?
           Tu Phước để phá các ác, bồi đắp cái nền nhà (nền Âm chất cho chắc chắn). Tu Huệ để trừ lòng si mê, nguồn gốc của sự tạo tác, để cho bổn tánh dứt vọng niệm trở về chỗ sáng suốt cội gốc của bổn tâm mình. Đó là cất cái lầu đài Trí huệ tốt đẹp trên cái nền Âm chất.
4)        Tại sao phải tu hai môn một lượt?
           Không thể nào đắp cái nền mà không cất nhà được, và trái lại cất nhà mà không đắp nền. Phải đắp nền và cất nhà luôn mới được sự lợi ích hoàn toàn. Cũng như thế, phải tu Phước và tu Huệ song song mới được giải thoát.
III. PHẦN TOÁT YẾU
Đức Giáo-chủ Minh Trí dạy bực Thượng tu pháp “Phước Huệ Song Tu” là tu Phước và tu Huệ song song với nhau.
Tu Phước mới dứt được các điều ác để trở về gốc tánh Thiện của mình, còn tu Huệ để trừ lòng tối tăm mê muội cho tâm tánh mình đặng sáng suốt.
Có đủ Phước, đủ Huệ mới là con đường làm đặng Phật.

BÀI TẬP
(Rút trong kinh Kim Cang Chư Gia)
Gạch dưới những chữ quan trọng để rõ biết nói về Lý nào? Bực nào?
Bài 1:           Để mắt Đông Nam.
                     Lưu tâm Tây Bắc.
                     Sẽ nói Khỉ đen,
                     Lại cùng n bch.
                     Cả thảy chúng sanh, cả thảy Tâm,
                     Thường đeo đuổi mãi điều Thinh Sắc.
Bài 2:                Cả thảy cái có đều như chiêm bao, huyễn hoc,
                          Cả thảy cái không đều là gic ma.
Bài 3:        Phải biết các pháp như chiêm bao, như huyễn hoặc, như tiếng dội, như trăng dưới nước, như bóng trong gương.
Bài 4:        Kẻ phàm phu bố thí vọng cầu phước lợi như tên bắn giữa hư không, mãn trớn liền rớt trở lại...
Bài 5:        Bố thí mà chẳng thấy có người bố thí, chẳng thấy có vật để bố thí, chẳng thấy có người thọ thí mới gọi là Đại thí.
Bài 6:        Kẻ phàm phu Bố thí thì dùng bảy báu đầy cả Tam thiên thế giới đặng cầu Phước. Bực Thánh nhơn lại Bố thí bảy báu trong Tâm, chẳng cầu Phước điền mà đặng Phước rộng lớn chẳng thể so lường được.
Bài 7:        Bực trí lớn lại thấy Sắc tức Không, Không tức Sắc, Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc, chớ chẳng phải chỉ biết cái Sắc không phải là cái Không, cái Không không phải là cái Sắc, cái Sắc khác với cái Không, cái Không khác với cái Sắc.
                  Thế mới biết chúng sanh tức là Phật, sanh tử chẳng khác Niết-bàn, Phàm Thánh như nhau, nàng dâu mẹ chồng là một.
Bài 8:              Phật dạy lý Chơn không,
                        Bởi e người chấp Có,
                        Nếu như lại chấp Không,
                        Chụp Thỏ mà buông Ó.
Bài 9:              Ngồi tại giữa nhà trống lổng lông,
                        Chẳng Nam, chẳng Bắc, chẳng Tây Đông.
Bài 10:            Sắc ở đâu? Không ở đâu?
                        Chim bay không dấu vết,
                        Cá lội chẳng ảnh hình,
                        Nhưng kìa! Chim vẫn bay, cá vẫn lội!
Mười bài này học viên tự làm và tự lên bảng.

                                                                       Nam Mô A Di Đà Phật.
                                                 Kính Đức Giáo-chủ Minh Trí tác đại chứng minh.

————————————————



PHẦN ÔN BÀI BỰC THƯỢNG

1.       Phần Giáo lý của Đức Phật dạy bực Thượng như thế nào?
          Cõi Thinh văn, Duyên giác còn bị kẹt trong sự sanh tử Biến dịch vì còn chấp pháp, nên Đức Phật dạy các hàng Bồ-tát phá luôn pháp chấp để ra khỏi sự sanh tử Biến dịch. Chứng đặng Niết-bàn Tịch chiếu tức là cái Tâm Chơn không Diệu hữu được giải thoát hoàn toàn (tuyệt đối). Trí huệ này gọi là Pháp không Chơn-như.
2.        Niết-bàn Tịch chiếu, Tâm Chơn không Diệu hữu, Pháp không Chơn-như nghĩa là gì?
           Niết-bàn Tịch chiếu nghĩa là Niết-bàn vắng lặng và soi sáng. Tâm Chơn không Diệu hữu nghĩa là Tâm không mà có. Pháp không Chơn-như nghĩa là các pháp vốn là không, nhưng cái bản thể sanh ra các pháp là Chơn thiệt.
3.        Tại sao Đức Phật dạy Chơn lý huyễn Sắc, huyễn Không cho bực Sai biệt trí Bồ-tát?­
           Đức Phật dạy Chơn lý huyễn Sắc, huyễn Không cho bực Sai biệt trí Bồ-tát để phá cái chấp có của cõi Nhơn–Thiên và cái chấp không của hàng Nhị thừa.
4.        Tại sao Đức Phật dạy Chơn lý Sắc Không Vô trụ cho các hàng Bồ-tát?
           Đức Phật dạy Chơn lý Sắc Không Vô trụ cho các hàng Bồ-tát đặng ra khỏi sự sanh tử Phần đoạn và Biến dịch, nhưng chưa rõ biết được hoàn toàn cái Tâm Chơn không Diệu hữu.
5.        Tại sao Đức Phật dạy Chơn lý Sắc Không Viên dung bình đẳng cho bực Đại Bồ-tát?
           Đức Phật dạy Chơn lý Sắc Không Viên dung bình đẳng cho bực Đại Bồ-tát thấy rõ cái bản thể Chơn không Diệu hữu của Vũ trụ.
6.        Phật và Bồ-tát tu chứng đặng cái Tâm nào? Tâm không với Tâm Chơn không khác nhau ra sao? Viên dung bình đẳng nghĩa là gì?
           Phật và Bồ-tát tu chứng đặng cái Tâm Chơn không. Tâm không là cái Tâm tu chứng của hàng Nhị thừa còn trong vòng tương đối, Tâm Chơn không là cái Tâm tu chứng của bực Phật và Bồ-tát ra khỏi hai pháp đối đãi. Viên là tròn khắp, chỉ cái bản thể Vũ trụ, Dung là dung nạp ngậm chứa, chỉ cái bản thể này bao trùm ngậm chứa vạn vật, bình đẳng là bằng bực, ý nói bản thể này bằng bực, như nhau, chẳng sai chẳng khác.
 7.       Tâm Chơn không (Chơn-như) có mấy phần? Tại sao gọi Tâm này một mà là bốn, bốn mà là một, không một cũng không bốn, không sai không khác như như bình đẳng?
           Tâm Chơn không có bốn phần là: Thể, Tánh, Dụng, Tướng. Tâm này gọi là một mà là bốn nghĩa là: nó là một Tâm nhưng có bốn phần; Bốn mà là một vì bốn phần này cũng đều là một Tâm, không thể phân tách riêng biệt nhau, Tâm này là Chơn không, không hình, không tướng nên Thể nó không phải là một cũng không phải là bốn, nhưng vì Tâm này là diệu hữu tức là như như bình đẳng, nên Thể, Tánh, Dụng, Tướng của nó không sai khác, như nhau. Thể Tánh tức là Dụng Tướng, mà Dụng Tướng tức là Thể Tánh.
 8.       Muốn được hoàn toàn giải thoát, phải phá cái gì?
           Muốn được hoàn toàn giải thoát phải phá Ngã chấp và Pháp chấp.
 9.       Tiểu ngộ và Đại ngộ nghĩa là sao?
           Tiểu ngộ là sự ngộ nhỏ mới chỉ biết cái Tâm nhỏ trong thân mình mà thôi, còn Đại ngộ là sự ngộ lớn, nghĩa là tỏ biết đặng cái Tâm rộng lớn bao trùm vạn vật, tức là cái bản thể của vũ trụ vạn hữu.
10.      Lục độ, Lục tệ, Ba-la-mật nghĩa là gì?
           Lục độ là sáu chiếc đò, gồm có Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định và Trí huệ. Lục tệ là sáu điều ác tệ gồm có tham lam, sái quấy, sân hận, giãi đãi, tán loạn và si mê. Ba-la-mật là đáo bỉ ngạn, nghĩa là đến bờ bên kia là bờ Giác của Phật, chỉ cái Tâm Chơn không của Phật.
11.      Muốn được Minh tâm, kiến tánh phải cần có cái gì? Và làm sao được?
           Muốn được Minh tâm, kiến tánh phải cần có Trí huệ và phải thực hành tu pháp Lục độ ba-la-mật.
12.      Đức Giáo-chủ Minh Trí dạy bực Thượng tu pháp nào?
           Đức Giáo-chủ Minh Trí dạy bực Thượng tu pháp Phước Huệ Song Tu, tức là Lục độ ba-la-mật.
13.      Có mấy thứ Phước và muốn được giải thoát phải tu Phước nào?
           Có hai thứ Phước: Phước hữu lậu và Phước vô lậu. Muốn được giải thoát phải tu Phước vô lậu.
14.      Tu Huệ của nhà Phật là tu Huệ nào? và tu cách nào?
           Tu Huệ của nhà Phật là tu Huệ giải thoát và phải phá Ngã chấp và Pháp chấp.
15.      Muốn phá trừ Ngã chấp và Pháp chấp thì phải làm sao?
           Muốn phá trừ Ngã chấp và Pháp chấp thì phải nghiên cứu kinh luật cho tỏ thông Giáo lý của nhà Phật.

————————————————

(CÒN TIẾP - CẤP IV VÀ V)